Tướng
Lê Văn Hưng Và Những Sự Thực Ở
Chiến Trường An Lộc Trong Mùa Hè 1972 ( 1 )
Nguyễn Văn Dưỡng |
1. QUÂN
ĐOÀN III & VÙNG 3 CHIẾN THUẬT VỚI TƯỚNG
ĐỖ CAO TRÍ VÀ TƯỚNG NGUYỄN VĂN
MINH Trung tướng
Nguyễn văn Minh nhận chức vụ Tư lệnh
Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến Thuật (QĐIII &
V3CT) sau khi vị tướng lănh lỗi lạc nhất
của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa (QLVNCH) Trung tướng
Đỗ Cao Trí, tử nạn trực thăng trên không
phận tỉnh lỵ Tây Ninh vào ngày 23 tháng 2, năm
1971. Trước
đó ở cả bốn Vùng Chiến Thuật, QLVNCH
đă mở những cuộc hành quân sâu vào căn
cứ địa của lực lượng Cộng
Sản Bắc Việt (CSBV) dọc theo biên giới
Việt-Miên-Lào và truy diệt chúng xa hơn vào lănh
thổ Miên và Lào. (Về lư do v́ sao QLVNCH tổ
chức các cuộc hành quân vượt biên sang Cao Miên
và Lào, sẽ tŕnh bày trong một dịp khác, hoặc
xin mời đọc “The
Tragedy of The Vietnam War” của tác giả, ở
tiểu mục “A Controversal Escalation of the War in
Indochina”, do McFarland xuất bản tháng 9, 2008, từ
trang 135 đến 141). Lực
lượng hành quân QĐ III & V3CT của Tướng
Đỗ Cao Trí đạt thành quả lớn lao
nhất. Từ tháng 4, 1970, đă đánh bạt Sư
đoàn Công trường 7 CSBV (SĐ-7/CSBV) và Sư
đoàn Công Trường 9 Cộng Sản của TWC/MN
(SĐ-9/CS) ra khỏi các căn cứ địa quan
trọng Lưỡi Câu, ở biên giới tây bắc B́nh
Long và Mỏ Vẹt ở biên giới tây nam Tây Ninh,
đồng thời phá tan các căn cứ hậu
cần lớn, nhỏ, của Trung Ương Cục
Miền Nam (TWC/MN) cơ quan chính trị và quân sự
đầu năo của CSBV ở Nam Việt Nam;
hạ hơn 11,000 quân CSBV, bắt hơn 2,200 tù binh
và thu hoặc phá hủy hàng trăm tấn vũ khí,
đạn dược, trang bị và hậu cần
của chúng. Sư đoàn Công trường 5 Cộng
Sản của TWC/MN (SĐ-5/CS) lúc đó đă rút sang
Cao Miên hoạt động bên ngoài biên giới Kiến
Phong và đang là mục tiêu của QĐIV & V4CT. Ở mặt
trận phía bắc, dọc Liên Quốc lộ 7, các
chiến đoàn QĐIII & V3CT vượt qua các đồn
điền cao-su Mimot, Krek và Chup, đến tận
Tonle-Bet đông ngạn Sông Mékong ngang thành phố
Kampong-Cham -nơi trú đóng Bộ Tham Mưu Quân Khu I
của Tướng Fan Muong thuộc Quân lực Quốc
gia Cao Miên (Forces Armées Nationales Khmères -FANK). Ở mặt
trận phía nam, trên Liên Quốc lộ 1, các chiến
đoàn khác của Tướng Trí cũng tiến đến
bên ngoài thành phố Sway-Riêng yểm trợ cho các
đơn vị của Đại tá Dap Duon, Tỉnh trưởng
của tỉnh phía đông Cao Miên này, giáp với
tỉnh Tây Ninh của Việt Nam. Suốt
trong gần một năm hiện diện trên lănh
thổ Miên, QLVNCH đă liên lạc với chính
quyền quân sự Cao Miên, đưa khoảng trên dưới
vài chục ngh́n đồng bào Việt Nam ở đó
trở về nước. Chính Tướng Đỗ
Cao Trí đă làm việc này. Nỗi
bận tâm của Trung tướng trong các cuộc Hành
quân Toàn Thắng trên lănh thổ Miên không chỉ
nhằm tiêu diệt lực lượng CSBV và các căn
cứ hậu cần quan trọng của chúng ở biên
giới Miên, hay chỉ để yểm trợ cho
lực lượng quân đội non yếu của Tướng
Lon Nol (Ông này là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân
Đội Miên, vừa làm cuộc đảo chính
lật đổ Norodom Sihanouk trong tháng 3, 1970, khi Sihanouk
công du nước ngoài) nhưng c̣n để
giải thoát hàng chục ngh́n Việt kiều bị chính
quyền địa phương của chính phủ Lon
Nol nghi ngờ là Việt Cộng, bắt giam giữ.
Trung tuần tháng 4, 1970, tôi được Trung tướng
Trí cử sang làm Sĩ quan Liên lạc ở Tỉnh
Sway-Riêng thay thế Đại tá Lê Đạt Công lúc
đó là Trưởng Pḥng 2 QĐIII & V3CT. Tôi
nhận rơ chỉ thị và hiểu rơ mối quan tâm
của Trung tướng Trí về vấn đề
Việt kiều ở Miên. V́ vậy, khi biết nhu
cầu cần được yểm trợ của
Đại tá Đap Duon, Tỉnh trưởng Sway-Riêng,
và sau khi thoả măn được vài điều khá
quan trọng, việc đầu tiên của tôi là yêu
cầu Đại tá Đap Duon đưa đến thăm
viếng số đồng bào chừng hai ngh́n người
bị chính quyền Miên tập trung giam giữ ở Trường
Tiểu học tỉnh lỵ. Trước cổng Trường
này, tôi hứa với đại diện Việt
kiều nạn nhân ở đó là sẽ tŕnh nguyện
vọng muốn về nước của đồng bào
lên Tướng Trí, Tư lệnh QĐIII & V3CT. Tôi
đă làm như đă hứa. Trong tháng
5, 1970, khi được Tướng Trí uỷ thác
sang Kompong-Cham làm Sĩ quan Liên lạc ở
Bộ Tư lệnh Quân khu I Cao Miên của Tướng
Fan Muong, với một toán trên mười sĩ quan,
hạ sĩ quan Pḥng 2, Pḥng 3, và Truyền tin của QĐIII
& V3CT. Ở Komgpong-Cham, tôi cũng yều cầu Trung
tá Ly Tai Sun, Tư lệnh phó của Fan Muong, nhất
định phải đưa tôi đi xem nơi đồng
bào Việt Nam bị họ bắt giam giữ. Hơn
vài ngh́n Việt kiều, kể cả đàn bà và
trẻ con, chen chúc dưới các đường giao thông
hào khá sâu và rộng –mà người Pháp gọi
là tranchées– trong khuôn viên chiếc sân rộng lớn
của Bộ Tư lệnh Quân Khu trong thành phố.
Việc nầy chỉ diễn ra vào buổi sáng sau khi tôi
đă yêu cầu Tướng Trí cho Không Quân Việt
Nam (KQVN), đánh giải tỏa Bộ Tư lệnh Quân
Khu I, bị Tiểu Đoàn J-16 Đặc công và các
đơn vị chính qui của CSVN tấn công và bao vây
từ đêm trước. Khi chỉ vào nhóm
Việt kiều bị giam giữ dưới các giao thông
hào đó, Ly Tai Sun nói với tôi bằng tiếng
Việt: -“Nếu hôm nay Ông không
gọi được KQVN đánh giải cứu chúng tôi,
th́ số người nầy sẽ bị bắn
hết.” Đó là nguyên văn câu nói của tên
Trung tá nầy. Từ ngày toán Liên lạc của chúng tôi
đến Kompong-Cham, tôi tiếp xúc với Thiếu tá
John Fernandez Tham Mưu trưởng, Ly Tai Sun Tư
lệnh phó và Tướng Tư lệnh Fan Muong bằng
tiếng Pháp, v́ tôi không biết tiếng Miên, tôi chưa
hề nghe các Sĩ quan Miên này nói một câu tiếng
Việt nào. Đột nhiên nghe Ly Tai Sun bật lên câu nói
ghê tởm đó, tôi nói với hắn, “Th́
ra Ông là người Việt Nam, họ Lư. Ông nói
vậy có nghĩa là các Ông sẽ giết hết
số Việt kiều nầy và cả toán Liên lạc
của chúng tôi, đúng không? Hắn cười.
Tôi nói tiếp: -“Chắc là Ông chưa
lường được hậu quả lớn lao sau
nầy.” Lư Tài Sun, hay Lư Đại Sơn –tên
thật của Sun– không nói ǵ thêm. Tức tốc, tôi
vào gặp Tướng Fan Muong nói việc Ly Tai Sun
và tôi gửi mật điện tŕnh mọi việc
với Tướng Trí. Ngay buổi trưa đó, Trung tướng
cho trực thăng, kèm theo quân Nhảy Dù, đón toán
Liên lạc chúng tôi về Biên Ḥa. Có
lẽ sau đó Tướng Fan Muong điện xin
lỗi Trung tướng Trí. Dĩ nhiên vấn
đề chính phải là chuyện giải quyết
số phận của hàng chục ngàn Việt kiều
bị chính quyền Miên giam giữ từ mấy tháng
trước đó khi quân CSBV phối hợp với các
đơn vị Cộng sản Miên tấn công các thành
phố Miên và tạo ṿng đai bao vây Thủ đô
Phnom Penh của Chính quyền Lon Nol. Mấy ngày sau, Thiếu
tá Nguyễn văn Lư của Pḥng 2/BTL/ QĐIII &
V3CT và một toán Liên lạc khác được
đưa trở lại Kompong-Cham. Không lâu sau đó Đại
tá Trần văn Tư thay thế Thiếu tá Lư. Trong tháng 5
đó, vấn đề nội bộ ở cấp cao
giữa Trung tướng Đỗ Cao Trí và Tổng
thống Nguyễn văn Thiệu hay Chính phủ VNCH, hay
vấn đề ngoại giao giữa Viêt Nam và Cao Miên
diễn ra thế nào tôi không ̣được
biết, nhưng các cuộc hành quân thủy, bộ,
của QĐIII và QĐIV đă diễn ra, đón
đưa nhiều chục ngh́n Việt kiều ở Miên
về nước trong các tháng 5, 6 và 7, 1970. Lúc đó tôi
tiếp tục phục vụ ở Pḥng 2 QĐIII &
V3CT, dưới quyền Đại tá Lê Đạt Công,
khi ở Biên ḥa, khi ở Hiếu Thiện, rồi Tây
ninh, luân phiên thay thế ông về t́nh báo chiển trường
cho đến ngày Trung Tướng Đỗ Cao Trí
tử nạn. Từ ngày Trung
tướng Nguyễn văn Minh về thay thế
nắm quyền Tư lệnh, nhất là sau tang lễ
trọng thể của cố Đại tướng
Đỗ Cao Trí, t́nh h́nh ngoại biên và trong nội
địa Quân đoàn III & V3CT có nhiều thay đổi
lớn v́ hai lư do: Thứ
nhất, CSBV tăng cường đáng kể
lực lượng của họ ở các mặt
trận Lào và Miên với những cuộc phản công
dữ dội ở Tchépone và suốt dọc Đường
9 đến biên giới Khe Sanh, cũng như các
cuộc phản công ở Đường 7, từ các
đồn điền cao su Chup, Mimot đến biên
giới Việt-Miên, vùng Lưỡi Câu và Mỏ
Vẹt. Chiến đoàn 8 của Sư đoàn 5 Bộ
binh (SĐ5BB) cũng tổn thất nặng và rút
khỏi Thị trấn Snoul của Miên trong cuối tháng
5, 1971. Địa điểm duy nhất của Quân
đoàn III c̣n duy tŕ trên lănh thổ Miên là căn
cứ hỗn hợp Việt-Mỹ ở Thị
trấn Krek, giao điểm giữa đường 7 và
đường 22 đổ vào nội địa
tỉnh Tây Ninh và cách biên giới chừng 12 km. Thứ hai,
Trung tướng Nguyễn văn Minh tánh
người ôn nhu, chuộng pḥng thủ hơn tấn công.
Ông không phải là một hổ tướng như
Đại tướng Trí, nhưng là một túc tướng
(tôi sẽ tŕnh bày ở phần sau). Hơn nữa,
cục diện chiến trường đă thay đổi
sau cuộc Hành quân Lam sơn 719 ở Hạ Lào. Tướng
Minh lâm vào t́nh trạng bất cập, khó khăn trong
vấn đề chỉ huy. Ông xuất thân Khóa IV Trường
Vơ bị Liên quân Dalat, trong khi hai vị tư lệnh sư
đoàn dưới quyền đều thuộc khóa
đàn anh. Thiếu tướng
Nguyễn văn Hiếu, Tư lệnh SĐ5BB và Thiếu
tướng Lâm Quang Thơ, Tư lệnh SĐ18BB, cùng
xuất thân Khóa III. Sau trận rút lui khỏi Snoul
của Chiến đoàn 8, SĐ5BB, Tướng Hiếu
được trao phó trọng trách khác. Đại tá
Lê văn Hưng, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu
khu trưởng Cần Thơ, được Tướng
Minh đề nghị thay thế Tướng Hiếu làm
Tư lệnh SĐ5BB. Ít lâu sau, Tướng Lâm Quang
Thơ cũng được Đại tá Lê Minh
Đảo thay thế.
Tuần
lễ đầu tháng 6, 1971, tôi được
lệnh thuyết tŕnh t́nh h́nh các đại đơn
vị địch trong lănh thổ và ngoại biên -mà QĐIII
& V3CT phải đương đầu- cho Đại
tá Lê văn Hưng, tân Tư lệnh SĐ5BB. Nội
dung bài thuyết tŕnh không khác ǵ nhiều so với
nhữngǵ tôi viết trên đây. Dĩ nhiên là không có
phần nói về các vị Tướng Tư lệnh
Trí, Minh, Hiếu và Thơ. Tôi nóí
về t́nh h́nh của các đại đơn vị
CSBV và TWC/MN đang hoạt động ở biên
giới Việt Miên sau khi QLVNCH rút ra gần hết
khỏi lănh thổ Miên, chỉ c̣n
duy tŕ cứ điểm cuối cùng ở Krek. Tôi
tŕnh bày rơ về qui luật tác chiến, quân số,
trang bị, vùng hoạt động của từng đại
đơn vị CSBV & TWC/MN (Trung ương cục miền Nam)
theo trận liệt và tin tức mới nhất mà chúng
tôi có được. Sau cùng là phần ước tính
về hoạt động của các đại
đơn vị nầy và chủ trương của
TWC/MN trong thời gian tới. Tôi cho rằng nên giải
tỏa áp lực địch có khuynh hướng
tập trung để dứt điểm căn cứ
Krek v́ lúc đó chúng tôi ghi nhận TWC/MN đang
hiện diện trong vùng Snoul, và các căn cứ
hậu cần của chúng đang hoạt động
trở lại ở vùng biên giới B́nh Long và Tây Ninh.
Đây là bài thuyết tŕnh thường lệ ở
cấp Vùng Chiết Thuật (là cấp Quân Khu cũ)
về “t́nh h́nh địch”. H́nh như
Đại tá Hưng nghe rất rơ, không hỏi một
câu nào. Ngược lại, khi bài thuyết tŕnh
vừa chấm dứt, Đại tá Hưng quay sang Trung
tướng Minh, và nói: -“Thưa Trung tướng,
Dưỡng là bạn cùng Khóa, cùng Trung đội
với tôi.” Sau đó, ông đứng lên và bước
thẳng đến bục thuyết tŕnh bắt tay, ôm
lấy tôi. Đó là dấu hiệu thân thiện đầu
tiên khi gặp lại sau hơn 15 năm kể từ khi
tốt nghiệp và rời Quân trường Thủ
Đức vào tháng 1, năm 1955. Ngày ra trường, chúng
tôi đều mang cấp bậc Thiếu uư. Ở
buổi thuyết tŕnh nầy, tôi chỉ là một
Thiếu tá, nhân viên của một Pḥng 2 Quân đoàn,
c̣n ông là Đại tá, tân Tư lệnh của
một sư đoàn. Địa vị trong quân đội
cách xa nhau nhiều lắm! 2.
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ TÔI Tổng
số Sinh viên Sĩ quan Khóa V, V́ Dân, trên 1,300 người,
kể cả hai đại đội bộ binh gửi
thụ huấn ở Liên trường Vơ bị Liên Quân
Dalat. Đại đa số SVSQ
được gọi nhâp ngũ và đưa đến
Trường SQTB Thủ Đức trong tháng 5, năm
1954. Ông Hưng và tôi được xếp vào
Trung đội 8 của Thiếu uư Nguyễn Hưng Chiêu,
thuộc Đại đội 2 Bộ binh, cùng ở
chung pḥng hỗn hợp (salle mixe) với Trung đội
7 của Trung uư Lê văn Sỹ. Ở pḥng chung nầy,
Trung đội 7 có 12 sinh viên và Trung đội 8 cũng
có một số sinh viên như vậy. C̣n pḥng chính
của mỗi Trung đội gồm 24 sinh viên nằm
kế cận hai bên pḥng mixe nầy. Khóa
nầy, tại Thủ Đức có hai đại đội
bộ binh và sáu đại đội chuyên ngành như
Pháo binh, Trọng pháo, Thiết giáp, Công binh, Truyền
tin, Hành Chánh Quân Nhu v.v… Đại đội I Bộ
binh gồm các Trung đội 1, 2, 3 và 4; Đại
đội II Bộ binh gồm các Trung đội 5, 6, 7
và 8. Trung đội 8 của chúng tôi có 36 sinh viên, mà
ngày nay tôi c̣n nhớ tên trên hơn ba mươi
bạn. Trung đội 8, Đại đội II Bộ
binh của Thiếu uư Nguyễn Hưng Chiêu có thể là
Trung đội SVSQ tạo được hai kỳ tích
là đă cho ra trường một Thủ khoa và một
sĩ quan sau đó trở thành Tướng lănh duy
nhất cho toàn khoá, danh tiếng lẫy lừng. Vị
tướng lănh này là Lê văn Hưng,
người Quận Hóc Môn, Tỉnh Gia Định. Ông
là một trong 5 vị Tướng tuẫn tiết ngày
30, tháng 4 đen, năm 1975. SVSQ Lê văn
Hưng lúc đó thỉnh thoảng đôi mắt thoáng
nháy nhẹ một lần như khi đă làm tướng.
Thường ngày, lúc nghỉ ngơi trong pḥng, Hưng
thường mặc chiếc sa-rong của người
Miên, màu đỏ sọc xanh đen, ở trần không
mặc áo, cổ đeo một giây chuyền vàng mang
một nanh heo rừng nhỏ. Hưng rất ít nói, nhưng
dễ mến v́ lúc nào gặp ai cũng cười;
nụ cười dễ gây thiện cảm và theo tôi
nghĩ, dễ làm xiêu ḷng các người đẹp. Nước
da ngâm, nhưng cao lớn và đẹp trai theo lối
một người hùng hơn là một thư sinh. Lúc
đó anh đă lập gia đ́nh. Khi gần hết giai
đoạn I, nhất là sau khi đă được mang
Alpha –biểu trưng của SVSQ– cứ mỗi hai
tuần sinh viên được đi phép 24 giờ
về thăm gia đ́nh. Như vậy mỗi trung đội
36 sinh viên, th́ một nửa đi phép, một nửa
khác lưu trại. Tôi thuộc toán được
đi phép hay lưu trại chung với anh Hưng. Trong đời,
đôi khi ta gặp những hoàn cảnh chạnh ḷng.
Khi bước chân vào Quân trường Thủ Đức
tôi đă mang nỗi buồn riêng, tủi cho thân
phận ḿnh. Không biết nói cùng ai. Lúc đó tôi là
một cậu học tṛ, độc thân, gia đ́nh nghèo.
Tôi nhập trường vào tháng 5,
đến tháng 7, 1954, sau Hiệp định Genève,
đất nước chia đôi. Thị trấn Cà
Mau nhỏ bé thân thương của tôi biến thành nơi
tập trung của các lực lượng vũ trang
bộ đội và du kích Việt Minh trong nhiều tháng,
trước khi họ tập kết ra miền Bắc.
Cha và anh tôi là tiểu công chức phải rời Cà Mau
lên tỉnh lỵ Bạc liêu làm việc; gia đ́nh
ăn ở tạm bợ, nghèo khó. Với số lương
tháng ít oi của một SVSQ tôi phải gởi bớt
về giúp thêm cho cha mẹ, đứa em gái c̣n đi
học, và người chị quả phụ và hai đứa
cháu cô nhi. Ngày thường, nhất là khi tập ở
ngoài băi, tôi lấy thêm phần ăn sáng mà các
bạn cùng bàn không đến ăn, thường là bánh
ḿ với mấy thỏi chocolate hoặc fromage đầu
ḅ –ở Nhà Ăn Sinh viên– mang theo để ăn
trong buổi giải lao, trong khi các bạn sinh viên khác
bao quanh các gánh bán thức ăn hàng rong ở các băi
tập đó. Buổi chiều, khi ăn cơm xong, tôi
thường mang về một ga-men (gamelle) cơm
trắng để đến tối trong khi các bạn
đi ăn uống ở các Câu lạc bộ Sinh viên
hay ở những gánh hàng rong đủ loại thức
ăn mà vợ con binh sĩ ở trại gia binh mang
đến tận hành lang ngoài pḥng ngủ của sinh
viên, tôi lặng lẽ đem phần cơm đó và
một chai xi dầu, ra ngồi ở bậc xi-măng
đầu chiếc cống xây trên lạch nước
gần dăy trại của Đại đội chảy
ra băi tập thể dục quân sự, ăn dưới
ánh trăng, hay trong bóng tối bao quanh. Tôi đă
nuốt những hạt cơm nguội lạnh đó
trong nhiều đêm cùng với nỗi tủi thân
của ḿnh. Rồi một đêm nào đó, tôi không
nhớ rơ, Thiếu uư Nguyễn Hưng Chiêu, Trung
đội trưởng của tôi, trong buổi trực
đêm của ông, bắt gặp tôi đang ngồi
ăn cơm đêm trong bóng tối như vậy. Khi ông
rọi đèn pile thấy rơ ga-men cơm đang ăn
dang dở và chai x́-dầu, trong khi tôi đứng
thẳng ở tư thế nghiêm của một sinh viên
trước thượng cấp của ḿnh. Ông không nói
ǵ, để tôi đứng đó và đi vào dăy pḥng
ngủ của Đại đội. Tôi âm thầm
trở về pḥng với nỗi lo sợ lớn lao
trong ḷng. Tôi sợ ḿnh đă vi phạm một lỗi
lầm quân kỷ nào đó của Trường.
Mấy ngày sau tôi chờ đợi nhận phần
phạt. Nhưng không, ngược lại, tôi nhận
được tờ giấy bạc 100 Đồng,
một số tiền khá nhiều lúc đó, xếp
giữa hai trang giấy trong tập bài học của tôi
sau khi Thầy khám duyệt và hoàn trả các tập
vở đó lại cho các sinh viên Trung đội.
Thầy đă kín đáo cho tôi tiền như đă
hiểu rơ hoàn cảnh của tôi. Đă gần sáu mươi
năm rồi, tôi mang ơn Thầy Chiêu đă đào
tạo tôi trở thành một sĩ quan QLVNCH và về
đức độ và ḷng nhân hậu của Thầy.
Tôi không mong trả được ơn Thầy trong
cuộc đời nầy v́ tôi biết không có ǵ quí
giá xứng với tấm ḷng bao dung rộng lớn
của Thầy. Ngược lại, rơ ràng
người đă đền đáp ơn Thầy
nhiều nhất là Tướng Lê văn Hưng v́
những chiến công rực rỡ và sự tuẫn
tiết cao đẹp của vị Tướng nầy,
người anh hùng mà Thầy một thời đă
tạo dựng nên. Lúc đó tôi
rất ít xuất trại nghỉ phép. Họa hoằn có
đi phép th́ cũng chỉ xuất trại vào sáng ngày
Chúa nhật, đi dạo ṿng ṿng các khu phố lớn
Saig̣n, xem chớp bóng ở các rạp chiếu bóng thường
trực để đợi đến chiều ra
Đường Hai Bà Trưng, sau Trụ sở Quốc
hội, đợi đoàn xe GMC đưa đón SVSQ
của Trường rước về. Những tuần
không đi phép tôi mặc quân phục chỉnh tề, cùng
các bạn trong Trung đội người miền
Bắc, cũng “mồ côi” như tôi sau khi Hiệp
định Genève-1954 chia đôi đất nước,
đi dạo ở khu chung quanh sân cờ lớn của
Trường, nơi có những hàng cây tỏa bóng mát,
dù ít oi, xuống thảm cỏ dưới gốc, mà các
SVSQ lưu trại thường đón tiếp và vui
vầy với gia đ́nh hay người yêu đến
thăm viếng trong ngày Chúa nhật. Cảnh
đầm ấm, hạnh phúc và sinh động hực
hỡ màu sắc nầy cũng diễn ra trong Câu
lạc bộ Sinh viên và trong các lều mát hay quán ăn
chung quanh đó. Dĩ nhiên trong số những thân nhân
đến thăm viếng sinh viên hàng tuần không
thiếu những bóng hồng tươi đẹp, xinh
xắn, là chị, là em, là bạn, là người yêu,
hay vợ của sinh viên lưu trại. Một
trong những người đẹp đó là vợ
của anh Hưng. Nh́n từ xa xa cũng biết
chị đẹp. Dáng người cao thon thả nhưng
cân đối khoẻ mạnh như một thiếu
nữ phương Tây. Mặt sáng, nước da
trắng. Cách ăn mặc và dáng điệu tạo
vẻ thuộc gia đ́nh trung lưu, khá giả.
Mỗi lần thăm anh, chị thường dẫn
theo đứa con gái nhỏ chừng hơn một
tuổi. Họ quây quần bên nhau rất hạnh phúc.
Thế nhưng, trong đời người ta không
thể ngờ được những bất cập,
tan vỡ, chia ly diễn ra mà hậu quả là ưu
phiền và oán hận. Chín
năm sau ngày ra trường, mỗi người đi
một nơi, không biết tin tức ǵ của nhau,
bỗng nhiên vào giữa tháng 1 năm 1964, tôi được
biết tin về anh Lê văn Hưng. Sau ngày đảo
chánh 1 tháng 11, 1963, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm
và ông Ngô Đ́nh Nhu bị thảm sát, Đại tá
Nguyễn văn Phước Trưởng Pḥng 2 Bộ
Tổng Tham mưu (P2/BTTM) bị mấy ông Tướng
đảo chính bắt giam giữ ở Cục An ninh Quân
đội, Trung tá Hồ văn Lời, Chỉ huy trưởng
Trường Quân báo Cây Mai, được đưa lên
BTTM thay thế. Tôi cũng được thuyên
chuyển theo ông và giữ chức vụ Trưởng
ban Hành chánh của P2/BTTM. Một hôm
tôi đọc được trong xấp hồ sơ
“Công văn Đến” lệnh thuyên chuyển
của Nha Nhân viên Bộ Quốc Pḥng ban hành hoàn
trả Trung uư Lê văn Hưng về ngành Quân Báo
và đặt thuộc quyền sử dụng của
P2/BTTM. Trước cuộc đảo chính Trung uư Hưng
là Quận trưởng Trà Ôn ở miền Tây. Có
lẽ những năm trước nữa ông Hưng có
học qua một khóa Quân Báo hay giữ chức vụ nào
đó cùng ngành với tôi mà tôi không biết. Sau đó
ít lâu, khi hồ sơ cá nhân của Hưng gửi
về P2/BTTM mới được biết là sau khi
tốt nghiệp ở Thủ Đức nhờ đậu
cao nên anh được chọn về Quân Khu I –lúc
đó bao gồm cả lănh địa của Vùng 3 và Vùng
4 Chiến thuật sau này- và thuyên chuyển về
Bộ Chỉ Huy Trung đoàn 15 đóng tại Gia Định.
Thiếu tá Lê Thọ Trung là Trung đoàn trưởng.
Sau này, khi ông Hưng đă lên Tướng và làm Tư
lệnh SĐ5BB, ông Trung, chỉ mang cấp bậc Trung
tá, là Tham Mưu trưởng cho ông Hưng. Không đầy
một tuần sau khi P2/BTTM nhận được
lệnh thuyên chuyển của Trung úy Hưng, cũng
trong tháng giêng đó, một người đàn bà
đến xin gặp Trung tá Trưởng P2/BTTM. Với
tư cách là người phụ trách về hành chánh và
quản trị nhân viên, tôi tiếp bà khách.
Bà tự xưng là người phối ngẫu chính
thức và đă ly dị của ông Hưng. Tôi h́nh
dung được ngay đó là người vợ
của SVSQ Hưng của gần mười năm trước.
Tuy bà đă bớt vẻ thon thả, khá người hơn,
mà vẫn c̣n đẹp ở độ tuổ̉i
trung niên. Bà mang theo một lá đơn xin gửi lương
tháng, mà bà nói là do Ṭa án phán quyết khi ly dị,
̣đến thẳng địa chỉ của bà
ở Gia Định. Tôi chỉ ghi nhận sự
kiện, nhận đơn, mà chưa giải quyết
được v́ Trung uư Hưng chưa tŕnh diện
P2/BTTM. Sau đó không
lâu, tôi nhận tiếp một lệnh khác của Nha Nhân
viên Bộ Quốc Pḥng thuyên chuyển Trung uư Lê văn
Hưng về SĐ21BB. Như vậy đến năm
đó tôi vẫn chưa gặp lại Hưng cho đến
đầu tháng 6, năm 1971. V́ ông Hưng tŕnh diện
thẳng SĐ21BB mà không tŕnh diện P2/BTTM.
Cuối năm 1967, vào một buổi chiều, tôi vô t́nh
gặp lại người vợ đă ly dị đó
của ông Hưng trong Dancing Club Victoria ở Tân Định,
gần Bộ Tổng Tham Mưu. Bà là vũ nữ
ở đó. Tôi nhận ra bà nhưng bà không nhớ có
lần đă gặp tôi ở P2/BTTM gần bốn năm
trước. Lúc đó tôi mang cấp
bậc Thiếu tá và được biết ông Hưng
mang cấp Trung tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn
31 thuộc SĐ21BB và là một trong năm ngũ
kiệt nổi tiếng ở miền Tây. Ít lâu sau nghe ông
Hưng thăng cấp Đại tá và làm Tỉnh trưởng
Cần Thơ. Từ cuối năm 1967, sau buổi
khiêu vũ “matinée” ở Victoria, tôi không gặp bà
vợ đă ly dị của ông Hưng lần nào
nữa. Đến nay đă gần nửa thế
kỷ. Sau
buổi thuyết tŕnh đầu tháng 6, năm 1971 đó,
Trung tướng Minh mời Đại tá Hưng và tôi
ăn cơm trưa trong chiếc “trailer” đặt
ở sân trước Tư dinh Tướng Minh ở Biên
Ḥa. Đáng lẽ tôi không hân hạnh được
mời tham dự bữa cơm của hai ông tư
lệnh này đâu, nhưng tôi nghĩ Tướng Minh
mời tôi là v́ Đại tá Lê văn Hưng nói tôi là
bạn đồng môn. Lư do thứ hai là v́ khi ra trường
tôi thuyên chuyển về Tiểu đoàn 61 VN đầu
năm 1955, làm Trưởng Ban Quân số (Chef Bureau
Effectif), đến khoảng tháng 8 năm 1955, ông
Nguyễn văn Minh, lúc đó mang cấp bậc
Thiếu tá được bổ nhậm Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 61 VN, kiêm Quận trưởng
Quân Đức Ḥa, thuộc tỉnh Chợ Lớn,
chỉ định tôi làm Văn pḥng trưởng
Tiểu đoàn (Chef Bureau Secretariat), đồng thời
là Chánh văn pḥng Quận Đức Ḥa cho ông. Sau
cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến và
Tổng thống Đệ nhất Cộng Ḥa cuối năm
1955, Thiếu tá Minh được đề
cử chức Tỉnh trưởng Sa Đéc, thăng
cấp Trung tá. Tôi xin thuyên chuyển ra Tiểu đoàn
1/43 Sư Đoàn 15 Khinh Chiến, đóng ở Dục
Mỹ, Nha Trang. Trong
Đệ Nhị Cộng Ḥa ông Minh thăng cấp nhanh
chóng, Đại tá Tư lệnh SĐ21BB, rồi
Chuẫn tướng, rồi Thiếu tướng,
rồi Trung tướng làm Tư lệnh Biệt Khu
Thủ Đô, rồi Tư lệnh QĐIII & V3CT. Ông
chưa quên tôi đă từng giúp việc cho ông từ
15 năm trước. C̣n lư do thứ ba nữa, đến
khi ngồi vào bàn cơm tôi mới được
biết là Đại tá Hưng xin Tướng
Nguyễn văn Minh cho tôi về giúp ông làm Trưởng
Pḥng 2 SĐ5BB. Điều nầy làm tôi bất
ngờ. Tôi xin để được suy nghĩ
lại. Tướng Minh cũng chưa quyết định
ngay. Sau buổi cơm Đại tá Hưng lên Lai Khê, tôi
được Tướng Minh cho nghỉ phép một
tuần về Saigon, nói là để ông sẽ sắp
xếp lại nhân sự. Lúc đó,
Trưởng Pḥng 2 QĐIII & V3CT là Đại tá Lê
Đạt Công không được Tướng
Nguyễn văn Minh tín nhiệm đă cho thuyên
chuyển xuống SĐ21BB. Pḥng 2 tuy c̣n mấy sĩ
quan cấp tá khác nhưng công việc do tôi quán
xuyến mặc dù tôi không giữ một chức
vụ nào ở đó. Tôi nghĩ Trung tá Mạch văn
Trường, vừa rời chức vụ Quận trưởng
Thủ Đức về QĐIII & V3CT, đệ
tử thân nhất của Tướng Minh, trước
đó là Trưởng Pḥng 2 SĐ21BB của Tướng
Minh, sẽ được chỉ định làm Trưởng
Pḥng 2 Quân đoàn. Nhưng không phải, khi hết phép
tŕnh diện Tướng Minh, tôi được ông cho
biết Đại tá Hưng đă gởi hai công điện
chính thức xin tôi về SĐ5BB. Tướng Minh nói
với tôi là nên lên Lai Khê giúp ông Hưng và Trung tá
Mạch văn Trường cũng đă được
đưa lên đó giữ chức vụ Trung đoàn
trưởng Trung đoàn 8. Trung tá Trần văn B́nh,
Trưởng Pḥng 2 SĐ18BB sẽ được
chỉ định làm Trưởng Pḥng 2 QĐIII &
V3CT. Điều nầy cũng hợp lư, v́ Trung tá
B́nh là một sĩ quan Quân báo nhiều kinh nghiệm
đă từng là Trưởng Khối T́nh Báo của
P2/BTTM. Tôi rất
buồn khi nghe quyết định của Tướng
Minh. Không phải tôi muốn thối thoát trách nhiệm
làm trưởng pḥng t́nh báo chiến trường
cấp sư đoàn mà tôi cho là quan trọng. Nhưng tôi
tủi thân khi phải phục vụ người
bạn cùng khóa. Biết đâu việc làm của tôi
không tránh khỏi những sơ suất, chết quân
mất đồn, lúc đó sẽ khó cho ông mà khó cho
tôi biết mấy. Thà làm việc cho vị tư
lệnh nào khác, không giữ một chút t́nh riêng trong ḷng,
tôi sẽ an tâm hơn. Thưởng phạt sẽ
nhận và chịu một cách vô tư, thảnh thơi
hơn, nếu ḿnh hữu công hay ḿnh bất lực. Nhưng
là một quân nhân, tôi phải chấp hành lệnh
của thượng cấp. Tôi điện
thoại cho Đại tá Hưng và xin cho tôi thu xếp
và tŕnh diện SĐ5BB ngày 16 tháng 6. Quá trưa ngày
đó, khoảng 2 giờ, Đại tá Hưng cho
trực thăng chỉ huy của ông đón tôi ở Biên
Ḥa lên Lai Khê. Trong văn pḥng Tư
lệnh, ông Hưng bắt tay và ôm vai tôi lộ vẻ
vui mừng. Sau đó, tôi nhận nhiệm sở mà
không có bàn giao v́ người tiền nhiệm của tôi
là Trung tá Nguyễn Công Ninh đă rời Sư đoàn
từ tuần trước. Khi tôi đang họp với
các sĩ quan Pḥng 2 Bộ Tham mưu và Biệt đội
Quân báo Sư đoàn, th́ Chánh văn pḥng Tư
lệnh, Đại úy Nguyễn Đức Phương,
gọi điện thoại nói là Đại tá Tư
lệnh mời tôi dùng cơm tối tại tư dinh,
sau buổi họp 5 giờ chiều hằng ngày ở
Trung tâm Hành quân Sư đoàn. Trên
chiếc trailler được che chắn bằng
nhiều bao cát xung quanh, đặt ở sân sau tư
dinh Tư lệnh, song song với dăy nhà văn pḥng
của Pḥng 2 Sư đoàn, nơi làm việc của tôi
từ buổi trưa đó, cách một lớp rào lưới
chống đạn B-40, lần đầu
tiên tôi gặp người phối ngẫu chính
thức của Đại tá Lê văn Hưng, chính do ông
giới thiệu, mà sau đó không lâu tôi được
biết nhũ danh của bà là Phạm Kim Hoàng.
Tôi nghĩ bà là người xứng với ông Hưng.
Nước da trắng, gương
mặt đẹp sáng, dáng người mảnh mai thanh
tú, giọng nói dịu dàng. Bà tỏ ra thân thiện
với người đồng môn của chồng.
Ông Hưng cũng không hỏi một câu nào về gia
đ́nh hay bản thân tôi từ ngày ra trường. Ông
và tôi bàn về các vấn đề thời sự
ở phạm trù lớn hơn phạm trù QĐIII &
V3CT, b́nh đẳng, không g̣ bó như thường khi tôi
tiếp xúc với bất cứ một thượng
cấp nào của tôi trước đó. Sau
buổi cơm tối ngày tôi tŕnh diện sư đoàn,
tôi nghĩ rằng tôi có thể yên tâm làm việc
với Đại tá Hưng, không c̣n mặc cảm. Trái
lại, tôi nghĩ là phải cố gắng, bỏ tâm
cơ nhiều hơn trong việc làm để thực
sự giúp người bạn hiểu biết ḿnh và cũng
để chứng tỏ ḿnh có đủ kiến
thức và khả năng chuyên môn không làm phụ ḷng
ông. Đó không
phải là buổi duy nhất ông bà Hưng đăi cơm
tôi trên chiếc trailer ở tư dinh của tư
lệnh trong căn cứ Lai Khê, mà rất nhiều
lần trong suốt thời gian tôi phục vụ ở
SĐ5BB dưới quyền chỉ huy của ông Hưng.
Mỗi khi ông bà tổ chức các buổi ăn gia
đ́nh có tính kỷ niệm, người bạn duy
nhất được mời là tôi. Thêm nữa,
mỗi lần khi mà buổi sáng tôi bị gạch tên
trong các lần đề nghị thăng cấp đặc
cách, hay trong danh sách đề nghị thưởng huy
chương Anh dũng Bội tinh, dù ở cấp sư
đoàn mà ông Hưng, với thẩm quyền tư
lệnh, có thể kư ban cho. Trong ngày nào đó, nếu
ông từ chối đề nghị của Trung tá Tham mưu
trưởng Lê Thọ Trung, th́ buổi chiều bà
Hưng gọi điện thoại mời tôi ăn cơm
tối với ông, bà. Trong buổi cơm,
dù tôi tỏ ra b́nh thường bà Hưng vẫn nói như
an ủi tôi “ảnh luôn như vậy đó, anh đừng
buồn”, trong khi ông Hưng ngồi đó, nghe và cười.
Nụ cười vừa an ủi vừa như bảo
với tôi rằng ông không muốn để người
khác dị nghị và Anh dũng Bội tinh không thể
cấp cho sĩ quan tham mưu. Người hiểu rơ các
điều trên đây lúc đó là Trung tá Lê Thọ
Trung, vị chỉ huy trưởng cũ của Ông Hưng.
Tôi nghĩ rằng Trung tá Trung nhiều lần cũng
được gia đ́nh ông Hưng mời ăn
những buổi cơm riêng như vậy, v́ ông Hưng
chắc không quên người đă từng là thượng
cấp của ông khi vừa bước ra khỏi
cổng Quân trường Thủ Đức. Dĩ
nhiên người hiểu rơ nhất những mối liên
lạc thân thiện giữa Tướng Hưng và tôi là
bà Hưng. Những buổi cơm có tính cách gia
đ́nh nầy không chỉ diễn ra trong thời gian tôi
phục vụ ở SĐ5BB mà c̣n như hằng ngày
ở những tháng sau cùng của chiến cuộc
Việt Nam, tại tư dinh Tướng Hưng ở
Cần Thơ. Văn
Nguyên Dưỡng
TÁC
GIẢ: VĂN NGUYÊN DƯỠNG Sinh tháng 1,
năm 1934, Thị xă Càmau, Tỉnh Bạcliêu, Nam
Việt. BINH
NGHIỆP: HUẤN
LUYỆN QUÂN SỰ: TR̀NH
ĐÔ HỌC VẤN: TÙ NHÂN CHÍNH
TRỊ: -Tập thơ VÙNG
ĐÊM SƯƠNG MÙ làm từ năm 1965 và
được Nhà XB Mai Lĩnh xuất bản năm
1966 ở Saig̣n. -Tập thơ TRƯỜNG
CA TRÊN BĂI CHIẾN và nhiều bài thơ ngắn
khác làm trong 13 năm ở các Trại Tù CSVN. -Sang Hoa Kỳ, sau khi tốt nghiệp Cao học, chuyển Luận án thành sách. Nhà XB McFarland North Carolina xuất bản tháng 9, năm 2008, tựa đề The Tragedy of the Vietnam War. Cung Trầm Tưởng viết bài góp ư và giới thiệu, được đăng nhiều lần trên báo chí Việt ngữ. Văn Nguyên Dưỡng viết cho vài tạp chí văn học ở Hoa Kỳ và Canada. Nguồn: https://hung-viet.org/p11a14206/tuong-le-van-hung-va-nhung-su-thuc-o-chien-truong -an-loc-trong-mua-he-1972-ky-1
|