Tướng
Lê Văn Hưng Và Những Sự Thực Ở
Chiến Trường An Lộc Trong Mùa Hè 1972 ( 2 )
Nguyễn Văn Dưỡng |
Tướng
Lê Văn Hưng Và
Những Sự Thực Ở Chiến Trường An
Lộc Trong Mùa Hè 1972 [KỲ 4]
Nguyễn
Văn Dưỡng
7.
HOA KỲ VÀ CHIẾN CUỘC MÙA HÈ 1972 Ở MIỀN NAM
VIỆT NAM. TƯỚNG
LÊ VĂN HƯNG TUYÊN BỐ “TỬ THỦ AN LỘC” Thiết nghĩ,
nếu muốn nói rơ vai tṛ quan trọng của các tướng
lănh trên chiến trường thuộc lănh thỗ QĐIII
& V3CT, nhất thiết phải nêu lên toàn cảnh
chiến dịch Xuân-Hè 1972 của CSBV ở miền Nam
Việt Nam. Hơn nữa, cần nhận định rơ
vị thế và vai tṛ của Washington trong trận
chiến đặc biệt quan trọng nầy trong toàn
bộ chiến tranh Việt Nam. Sau các
trận đánh lớn giữa các lượng QLVNCH và
Quân CSBV trên lănh thổ Lào và Miên trong năm 1971,
nhận định của giới quan sát quốc
tế am tường về t́nh h́nh thế giới và
Chiến Tranh Việt Nam đều cho rằng sắp bước
vào giai đoạn mà Nixon và Kissinger sẽ kết thúc
cuộc chiến ở đó với bất cứ giá nào
chớ không phải với “ḥa b́nh trong danh dự”
–peace with honor– như các nhà lănh đạo chính
trị nầy rêu rao. Lúc đó cặp bài trùng nầy
chỉ coi Việt Nam là một sideshow –một màn
phụ diễn– của những vấn đề
trọng đại hơn mà Chính phủ Nixon của
Đảng Cộng Hoà cần giải quyết, nếu
không muốn để cho Đảng Dân Chủ
thắng trong cuộc bầu cử sắp diễn ra
trong các tháng cuối năm 1972. Giới nầy cho
rằng Kissinger đă gần đánh bại QLVNCH
với âm mưu “thí quân” của ông ta ở hai
mặt trận này sau khi đă thi hành gần trọn
vẹn sách lược “Việt Nam hóa Chiến tranh”;
từ đó chiến tranh sẽ chấm dứt v́ Nam
Việt Nam sẽ như cua găy càng. Kissinger nghĩ
rằng miền Bắc cũng lâm vào t́nh trạng như
vậy. Mà quả
thật, từ tháng 7 cho cuối năm 1971, quân lực
cả Miền Bắc lẫn Miền Nam đă bị
những tổn thất rất nặng nề, không
đủ sức đánh nhau trong sáu, bảy, tháng
liền cho đến đầu năm 1972. Thời gian
đó hội đàm Paris về Việt Nam tŕ trệ…
Cuộc mật đàm giữa Kissinger và Lê Đức
Thọ cũng không đi đến đâu. Và tên phù
thủy chính trị Kissinger, dù coi Việt Nam là một
sideshow, đă biểu diễn màn ảo thuật
quốc tế lớn lao chẳng những làm cho cả
hai miền Nam, Bắc Việt Nam đều ngơ ngác
sợ mà cả Liên Xô cũng thực sự lo lắng,
nên sau đó cũng đă tiếp Nixon (May 22nd,
1972) và hoà hoăn hơn trong việc kư hiệp ước
hạn chế Vũ khí Nguyên tử Chiến lược
SALT –Strategic Arms Limitation Talt– sau đó. Từ mấy
tháng trước, Kissinger đă dàn xếp xong màn
diễn với việc TT. Nixon bay sang Bắc Kinh gặp
gỡ Chu Ân Lai, Thủ tướng Chính phủ Trung
Quốc Cộng sản, ngày 21 tháng 2, 1972. Ai cũng
biết một cuộc “dàn xếp tối mật”
trật tự thế giới đang diễn ra. Nhưng
diễn ra như thế nào là phần ước đoán
riêng của mỗi người. Liên Xô đă nh́n
thấy hiểm họa cho chính họ. Bắc Việt
nằm trong tay những đầu xỏ như Lê
Duẫn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng với thay
đổi lớn lao là chính họ đă cho phép phê phán
“Chủ nghĩa Xét Lại” của Nikita Khrushchev đề
ra trước đó, trong Hội Nghị Trung Ương
Đảng CSVN lần thứ IX và bí mật chủ trương
theo Trung Cộng, mặc dù bên ngoài không để
lộ ra, nhưng bên trong Lê Đức Thọ –người
thực sự lănh đạo miền Bắc Viêt Nam–
với các em ruột ông này đang nắm ngành an ninh
trong đảng, trong nước, và nắm toàn bộ tài
sản ngoại viện của khối CSQT cho “Quân
Đội Nhân Dân”… đă bắt đầu thủ
thiêu những phần tử trong Bộ Chính Trí và Trung
Ương Đảng, hay tướng lănh Quân Đội
Nhân Dân kể cả tước quyền Tổng tư
lệnh của Vơ Nguyên Giáp.Report this ad Lúc đó,
Chính phủ Nguyễn văn Thiệu càng lo sợ hơn
về sách lược của Kissinger nhưng đành bó
tay, chỉ c̣n biết trông cậy vào người đồng
minh đỡ đầu của ḿnh. Trên đây
là nguyên nhân chính, nhưng xa, âm thầm diễn ra bên
trong. Trên mặt nổi, hai sự kiện dưới
đây là nguyên nhân gần bắt bưộc Bắc
Việt phải hành động trong một khoảng
thời gian nhất định nào đó, nếu
trễ hơn hậu quả đến với họ
sẽ vô cùng trầm trọng. Một là,
ngày 26 tháng 3, 1972 Thứ trưởng Quốc Pḥng Liên
Xô, Thống chế Pedorovich, đến Hànội với
một phái đoàn quân sự đông đảo
duyệt xét lại toàn bộ kế hoạch tấn công
miền Nam của Quân uỷ Trung Ương Đảng
CSVN. Trước đó, Liên Xô cũng đă nh́n rơ ư
đồ của Nhà Trắng về Việt Nam nên đă
cho Phó Thủ tướng Chính phủ Podgorny trong tháng
12, năm 1971, bàn định về một kế
hoạch tấn công miền Nam với lời hứa
viện trợ bất bồi hoàn các loại chiến
xa tối tân hạng nặng T-54, T-55 và PT-76 cùng các
loại hỏa lực chiến lược như
trọng pháo 130 ly, 150 ly, các chiến đấu cơ
MIG-19 và MIG-21, các đại bác pḥng không 23 ly và 57 ly, và
các hỏa tiễn chống tank AT-3 Sagger và hỏa
tiễn địa không SA-7 Strela chống các loại phi
cơ quân sự, nhất là trực thăng vơ trang và
chuyển quân. Tất cả các vũ khí nầy
được chuyển vận vào cảng Haỉ Pḥng
với khối lượng khổng lồ trong mấy
tháng liền nhưng việc phong tỏa cảng Hải
Pḥng chỉ thực hiện mấy tháng sau khi CSBV đă
kết thúc chiến dịch tổng tấn công miền
Nam… Tuy nhiên, cuộc tổng tấn công này chỉ
được thực hiện với sự chấp
thuận của Bắc Kinh, mà trong thâm sâu Đặng
Tiểu B́nh cũng muốn triệt bớt tiềm năng
nhân lực của Quân đội Nhân Dân miền
Bắc đề dễ bề thao túng sau nầy. Hai là, tháng
11, năm 1972 sẽ là tháng bầu cử tổng
thống và TNS, và DB lưỡng viện liên bang Hoa
Kỳ và cấp bộ lănh đạo hành pháp và
lập pháp các tiểu bang. Đây là cuộc tổng
tuyển cử vô cùng quan trọng sẽ ảnh hướng
lớn lao đến t́nh h́nh thế giới khi Hoa
Kỳ c̣n trong thời kỳ chiến tranh. Nếu Đảng
Dân Chủ Hoa Kỳ cầm quyền, chắc chắn là
họ sẽ bỏ cuộc ở Việt Nam nhanh chóng hơn.
Theo luận lư nầy CSBV cần phải đánh bại
Nam Việt Nam trước, mới đánh bại
được Nixon. Và cuộc chiến đó phải
dứt điểm thành công vài tháng trước khi
cuộc tổng bầu cử ở Hoa Kỳ bắt
đầu. Điều nầy các cơ quan t́nh báo
cấp cao miền Nam, dân sự lẫn quân sự, đều
biết nhưng đă không ước lượng
được sự lớn lao của cuộc chiến
sắp diễn ra và thời điểm chính xác v́
chỉ có Hoa Kỳ mới hiểu rơ mức độ
vận chuyển các loại vũ khí chiến lược
của khối Cộng Sản quốc tế vào
cảng Hải Pḥng và mức độ xâm nhập
của CSBV vào Nam Việt Nam trên đường ṃn
Hồ Chí Minh. Chắc chắn là Toà Bạch Ốc
biết, Ngũ Giác Đài biết và MACV ở Saig̣n cũng
biết, nhưng chúng ta –các cơ quan t́nh báo miền
Nam– không biết… rơ, v́ khả năng sưu tầm
kỹ thuật của các cơ quan t́nh báo của chúng
ta bị người bạn đồng minh của ḿnh
hạn chế trong cuộc chiến tranh chung nầy. Người
bạn đồng minh nầy cũng độc
quyền nắm sinh mạng quốc gia của chúng ta
trong tay. Nhưng trên b́nh diện chính trị, khi
cuộc chiến bắt đầu khai diễn, Washington
đă có những phản ứng quyết liệt như
TT. Nixon tuyên bố: “The bastards have
never been bombed like they’re going to be this time.” Lũ
khốn kiếp nầy chưa từng hứng những
trận đánh bom nào như những trận bom sắp
tới trong lần nầy. Và ông ta đă ra lệnh cho
KLHK yểm trợ hoả lực không kích yểm
trợ tối đa cho QLVNCH, kể cả sử
dụng vũ khí B-52 lợi hại của Không Quân
Chiến lược Hoa Kỳ mà chúng ta đă ghi
nhận qua suốt trận chiến mùa Hè năm 1972
đó. Quân CSBV đă động viên toàn
lực, kể cả việc động viên thiếu niên
ở tuổi 16, đưa vào tấn công miền Nam
ở ba mặt trận chính: Quảng Trị ở Vùng
1 Chiến Thuật, Kontum ở Vùng 2 Chiến Thuật và
B́nh Long ở Vùng 3 Chiến Thuật. Trong chiến
dịch lớn lao, sống c̣n, này CSBV đă tung vào
chiến trường tất cả trên dưới
200,000 quân tác chiến, không kể nhân lực phục
dịch hậu cần và vận chuyển, thường
bằng hoặc gấp hai lần nhân số tác
chiến. Nếu tính thành đơn vị th́ chúng
đă sử dụng 14 sư đoàn bộ binh, 4 sư
đoàn pháo binh và pḥng không cơ giới, từ 4
đến 6 trung đoàn chiến xa, 26 đơn vị
chuyên môn cấp trung đoàn. Tính chung chừng 22 sư
đoàn với các loại vũ khi tân tiến nhất
của Liên Xô và Trung Quốc, chia thành ba mũi dùi
tấn công vào Quảng Trị và Thừa Thiên ở
V1CT vào Kontum và B́nh Định ở V2CT và vào Tây Ninh và
B́nh Long ở V3CT. Mặt trận nào cũng nguy
hiểm. Tuy nhiên, nếu QLVNCH để mất một
tỉnh nào ở Vùng 1 hoặc Vùng 2 th́ t́nh trạng
chung vẫn chưa thể gọi là nguy ngập. Một
ước tính rộng lớn hơn cho rằng nếu
CSBV thắng cả ở hai mặt trận ở các Vùng
Chiến Thuật nầy miền Nam vẫn c̣n tồn
tại từ Nha Trang trở vào. Như vậy, vẫn là
chưa mất hẳn. Nhưng nếu mất B́nh Long hay
Tây Ninh ở Vùng 3, sát cạnh Saig̣n th́ t́nh trạng vô
cùng nguy ngập, v́ Saig̣n có thể bị mất ngay sau
đó. V́ vậy, chiến trường B́nh Long vô cùng
quan trọng cho sư sống c̣n của miền Nam trong
năm 1972.Report this ad Trận TCK cuả CSBV trong mùa Hè 1972 này
vào miền Nam VN, chúng chia vùng trách nhiệm lănh đạo
chỉ huy như sau: Mặt trận Trị-Thiên do chính
Bộ Tư lệnh miền Bắc chỉ đạo.
Miền Trung VN chia làm hai vùng: Vùng Cao Nguyên do Bộ Tư
lệnh Mặt trận B-3 Tây Nguyên chỉ huy; miền
Duyên hải do Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chỉ huy.
Miền Nam: Vùng 3 và Vùng 4/CT do Trung Ương Cục
Miền Nam chỉ đạo với chiến dịch
Nguyễn Huệ. Trở lại mặt trận Vùng 3
Chiến Thuật, TWC/MN, sau khi đă dứt điểm
xong Lộc Ninh và thất bại trong việc bôn tập
tấn công An-Lộc trong ngày 7 tháng 4, đă phải
đ́nh hoăn trận tấn công này lại như đă
đề cập ở trên cho đến ngày 13 tháng 4.
Trong sáu ngày này mặt trận đă có những thay
đổi lớn, nhất là về việc tăng quân
của QLVNCH cho tỉnh B́nh Long. Trong hai ngày 7 và 8, tháng
4, sau khi tăng cường cho Tướng Hưng trong
thị xă An Lộc Chiến đoàn 3 BĐQ và Trung
đoàn 8 (-), Trung tướng Minh được Bộ
Tổng Tham Mưu QLVNCH tăng cường Lữ đoàn
1 Nhảy Dù từ trước trận đánh, nay Sư
đoàn 21 Bộ Binh được đưa từ
miền Tây lên để tăng viện cho Tướng
Minh giải toả chốt chặn của CSBV vùng
suối Tàu-Ô trên QL-13, phía bắc Quận Chơn Thành.
Chốt chặn này không phải là thứ chốt
chặn cấp đại đội hay tiểu đoàn
như đă biết trên những chiến trường
khác trước đó, mà là một tuyến án ngữ
dài và rộng trên trục lộ và hai bên trục QL-13,
với những hầm hố được đào
đắp sâu và kiến cố, nhất là ở hai
ngọn đồi hai bên trục lộ chế ngự
toàn khu vực nầy mà trước năm 1968 là căn
cứ đóng quân kiên cố cấp tiểu đoàn
của lực lượng Hoa Kỳ. Chốt chặn
trong khu vực nầy do nguyên cả Sư đoàn 7
của CSBV, một đại đơn vị thiện
chiến và trang bị các loại vũ khí, các loại
súng pḥng không tân tiến, kể cả hoả tiễn
pḥng không loại nhẹ, nhưng kiến hiệu,
mới được phát hiện SA-7. SĐ-7/CSBV này
đă bọc xuống phía nam thị xă An Lộc khi SĐ-5/CS
thuộc TWC/MN đang bôn tập để tấn công
cầu Cần Lê và An Lộc ngày 7 tháng 4. Trong khi SĐ-5/CS
thất bại và bị thiệt hại nặng
phải rút xuống vùng Trị Tâm và Bời Lời trên
Sông Saig̣n gần tỉnh lỵ B́nh Dương để
thay quân và bổ sung, th́ SĐ-7/CSBV thành công trong
việc thiết lập được hệ thống
chốt chặn kiên cố Tàu-Ô. Với việc cắt
đứt giao thông trên trục lộ huyết mạch
này, An Lộc hoàn toàn bị bao vây và cô lập kể
từ ngày 10 tháng 4, 1972. Trong buổi sáng ngày 9 tháng 4, một phái
đoàn phóng viên của Nhật báo Sóng Thần gồm
Dương Phục, Thu Thủy và Nguyễn Tiến bay
trực thăng lên An Lộc định phỏng
vấn Tướng Lê văn Hưng về chiến trường
sắp diễn ra. Lúc đó Tướng Hưng đang
bận nên ủy thác cho tôi tiếp phái đoàn. Tướng
Hưng nói với tôi là xin cáo lỗi phái đoàn v́ ông
bận việc hành quân không tiếp được,
Chỉ cho phép tôi nói là “ÔNG NHẤT QUYẾT TỬ
THỦ AN LỘC VÀ SẼ NHẤT ĐỊNH CHẾT
Ở ĐÓ NẾU THÀNH PHỐ NẦY BỊ CÔNG
SẢN CHIẾM”. Ông cũng cho phép tôi nói những ǵ
trong sự hiểu biết của tôi về các lực
lượng CSBV. Trong mấy vị phóng viên này Dương
Phục và Thu Thủy là những người bạn
quen thân với tôi từ các cuộc hành quân Toàn
Thắng năm 1970-1971 trên lănh thổ Miên thời Tướng
Đỗ Cao Trí. Tôi lập lại nguyên văn câu tuyên
bố “TỬ THỦ AN LỘC” của Tướng Hưng.
Trong ngày hôm sau, cả thủ đô Saig̣n và các thành
phố miền Nam đều biết Tướng Hưng
tuyên bố tử thủ An Lộc sau khi số báo Sóng
Thần ra mắt độc giả. Hiện nay, tôi
được biết các phóng viên nầy, nhất là
Dương Phục và Thu Thủy, đang sống ở
Texas, Hoa Kỳ, có thể xác nhận những điêu trên
đây. Ở Mật trận toàn Vùng 3 Chiến
Thuật này tướng Cộng Sản đối đầu
với Trung Tướng Nguyễn văn Minh là Thượng
tướng Trần văn Trà. Tướng Trà sinh
tại Quảng Ngăi năm 1920, gia nhập Đảng
Cộng sản Đông Dương năm 1938, kháng
chiến chống Pháp trong Quân Đội Nhân Dân –the
People’s Army– của Đảng CSVN mà Vơ Nguyên Giáp là
Tổng Tư lệnh, từ năm 1946 đến năm
1954. Được phong cấp Thiếu tướng năm
1961 và là Tư lệnh Mặt Trận B-2 của chúng,
tức là phụ trách quân sự và chỉ huy toàn
thể lực lượng cộng sản trong toàn lănh
thổ phía nam của miền Nam Việt Nam (bao gồm
một phần lănh thổ của Vùng 2 Chiến
Thuật và toàn thể Vùng 3 và Vùng 4 Chiến
Thuật). Cũng trong năm đó, CSBV đưa Tướng
Trần Lương –hay Trần Nam Trung– và Trần
Độ vào miền Nam thành lập Trung ương
Cục miền Nam, hay TWC/MN, mà phía Hoa Kỳ và MACV
gọi là COSVN (Central Office of South Vietnam, xem lại ở
phần trên), là cơ quan chỉ đạo cả
về chính trị và quân sự của Bộ Chính
Trị Đảng LĐVN (để kiện toàn hệ
thống chỉ đạo của Đảng ở B-2).
Nguyễn văn Linh là nhân vật lănh đạo chính
trị cao cấp nhất và Tướng Trần văn
Trà là tư lệnh các lực lượng vũ trang.
Từ năm 1964, Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh, Uỷ viên Trung ương Đảng được
đưa vào Nam vừa là Chính uỷ và Tư lệnh
TWC/MN th́ hai nhân vật chính trị và quân sự kể
trên được điều ra miền Bắc.Report
this ad Năm 1967, Nguyễn Chí Thanh chết
đột ngột (có thể bị thanh toán bằng
độc dược). Phạm Hùng, nhân vật thứ
tư của Bộ Chính Trị Đảng Lao Động
VN được đưa vào Nam thay thế chỉ
đạo toàn thể mọi tổ chức và hế
thống “kháng chiến”của Đảng ở
miền Nam. Tư lệnh lực lượng quân sự
ở miền Nam giao trở lại cho Tướng
Trần văn Trà. Lúc đó, Mặt Trận Giải Phóng
miền Nam Việt Nam của Nguyễn Hữu Thọ và
Huỳnh Tấn Phát cũng đă được Hồ
Chí Minh cho thành lập và sau đó cải danh thành Chính
Phủ Lâm Thời miền Nam Viêt Nam, khi hội nghị
hoà đàm ở Paris bắt đầu. Tướng
Nguyễn Cao Kỳ Chủ tịch Uỷ Ban HPTU và Chính
phủ miền Nam chỉ coi MTGPMN như một thực
tế chớ không phải là một thực thể (The
Southern Liberation Front is a reality but not an entity). Và v́ vậy
nên CSVN nâng cấp MTGPMN từ một “tổ
chức” thành một “chính phủ”. Tướng
Trần Nam Trung là Bộ trưởng Quốc pḥng
của Chính phủ LTMNVN. Tướng Trần văn Trà
vừa là Tư lệnh phó các lực lượng vũ
trang TWC/MN cũng là Tư lệnh phó lực lượng
vũ trang MTGP/MNVN. Phía Hoa Kỳ, MACV cho rằng NVA –(North
Vietnam Army) là lực lượng miền Bắc xâm
nhập c̣n VC hay Việt Cộng là các đơn vị
vũ trang của MTGP/MNVN hay của CPLT/MNVN. Đây là
thứ hỏa mù. Trên thực tế tất cả
những lực lượng vơ trang trong chiến tranh
của CS ở miền Nam đều do Đảng CSVN xây
dựng và chỉ đạo. Những kế hoạch
tấn công lớn của CSVN ở miền Nam Việt
Nam (trong lănh thổ Mặt Trận B-2 cũ mà Trà là tư
lệnh) đều do Trần văn Trà thiết kế
và chỉ đạo như trận Tết Mậu Thân,
Trận Mùa Hè 1972 nầy, trận tấn công thăm ḍ
đánh chiếm Phước Long đầu năm 1974,
hay chiến dịch Nguyễn Huệ sau nầy bao vây và
tấn chiếm Saig̣n, năm 1975, v.v…) Tóm lại,
Trần văn Trà là danh tướng của CSBV, đă
chỉ huy hàng trăm trận đánh chống Pháp và các
lực lượng Hoa Kỳ ở B-2, trước khi
diễn ra trận TCK Tết Mậu Thân và Trận TCK mùa
Hè 1972 này. Riêng trong Chiến dịch Nguyễn Huệ mùa
Hè này, Trần văn Trà, Tư lệnh Măt Trận
B-2 cũ, là tư lệnh lực lượng của
CSBV lẫn của TWC/MN tấn công vào QĐIII & V3CT.
Có hiểu được “tài” của Tướng
Trần văn Trà, mới hiểu được “trí”
của Tướng Nguyễn văn Minh. Điểm ghi nhận lớn nhất có
thê nh́n thấy là kế hoạch tấn công của các
lực lượng CSBV do các Tướng CSBV hay Tướng
Trần văn Trà thiết lập quá dè dặt nên không
chiếm lĩnh được mục tiêu là tỉnh
lỵ B́nh Long, tức thành phố An Lộc. TWC/MN đă
nướng quân khá nhiều khi tập trung tấn công
Lộc Ninh với kế hoạch “Tập Tấn” mà
không dám nghĩ đến chiến thuật ‘Tản
Tấn” nên mất thời cơ không chiếm
được An Lộc ngay trong tuần lễ đầu,
hay nói rơ hơn là bốn ngày đầu, của
chiến dịch qui mô nầy. Chiến thuật tập
tấn và tản tấn tôi đă đề cập sơ
lược ở phần trên. Các tướng CSBV và
TWC/MN thiếu quyết đoán và thiếu tự tin.
Nếu họ có các đức tính này, th́ chiến
tranh đă có thể chấm dứt ngay trước mùa
bầu cử Hoa Kỳ năm 1972. Thử nh́n lại trận chiến
ở tuẩn lễ đầu nầy –từ 3 đến
7 tháng 4, 1972. TWC/MN có bốn sư đoàn bộ binh,
một sư đoàn pháo nặng được tăng
cường hai trung đoàn pḥng không, hai trung đoàn
chiến xa và một trung đoàn đặc công, và c̣n
thêm Trung đoàn 95B thiện chiến từ Tây Nguyên
đưa vào, không kể một số trung đoàn và
tiểu đoàn địa phương khác. Thực
tế trận chiến diễn ra trong tuần lễ
đầu của Chiến dịch Nguyễn Huệ
tấn công vào lănh thổ QĐIII & V3CT được
ghi nhận là: Tướng Trà sử dụng Sư Đoàn
B́nh Long mới thành lập đánh dứ –nhưng có
kết quả– ở Tây Ninh trong ngày 31/3/1972, coi như
“diện” (chiến thuật “dương đông kích
tây” mà mục tiêu đánh nhử là “diện” và
mục tiêu chính là “điểm”). Ba ngày sau, giữa
khuya đêm 4 rạng 5, tháng 4, Tướng Trà đă
tung vào chiến trường “điểm” Lộc Ninh
gần hết lực lượng lớn của ḿnh
để tấn công tiêu diệt Trung Đoàn 9 Bộ
binh và Thiết đoàn 1 Kỵ binh của SĐ5BB và
chiếm Lộc Ninh trước trong khi sử dụng
chỉ một đơn vị đặc công và
một đơn vị pháo nhỏ tấn công căn
cứ và sân bay Quản Lợi, khoảng 5 km đông An
Lộc. Không có pháo kích và tấn công Bộ Tư
lệnh SĐ5BB ở Lai Khê hay vào An Lộc trong đêm
4 rạng ngày 5, tháng 4 như một số bài viết tưởng
tượng.Report this ad Sau khi dứt điểm Lộc Ninh
mới dùng SĐ-5/CS và các đơn vị chiến xa
(Trung Đoàn 202 và 203 Chiến xa) bôn tập theo trục
QL-13 định vượt cầu Cần Lê tấn công
An Lộc trong ngày 7 tháng 4. Đêm trước, 6/4 hay có
thể trước đó chừng nửa ngày, Tướng
Trần văn Trà đă điều động SĐ-7/CSBV
ṿng qua thị xă An Lộc và thiết lập hệ
thống “chốt chặn” ở khu vực Suối Tàu-Ô
trên trục lộ QL-13 phía nam An Lộc chừng 15 km, và
phía bắc của quận lỵ Chơn Thành cũng
chừng khoảng cách đó. Mục đích là chận
viện của lực lượng bộ binh VNCH từ
phía nam tiến lên tiếp viện An Lộc đồng
thời chặn đường rút lui của các
lực lượng pḥng thủ An Lộc. Kế
hoạch như vậy, Tướng Hưng và chúng tôi
gọi là “Tập Tấn”, tức là lối tấn công
tập trung dứt điểm từng cụm chiến
trường, tiêu diệt từng phần lực lượng
đối phương. “Quân đội Nhân dân”
Bắc Việt rập khuôn chiến thuật tập
tấn biển người của Hồng quân Trung
Cộng. Chiến thuật này rơ ràng là để
lộ quá nhiều sơ hở, đánh mất thời
cơ, và đương nhiên hứng chịu nhiều
tổn thất bởi phi pháo của đối phương.
Kết quả của tuần lễ đầu đó, Tướng
Lê văn Hưng, Tư lệnh SĐ5BB dưới
sự tập trung tấn công của gần như hai sư
đoàn bộ binh và một sư đoàn pháo và
chiến xa tất nhiên không giữ nổi Lộc Ninh nhưng,
mặc dù bị mất hai đơn vị với hai
ngh́n quân, Tướng Hưng đă gây tổn thất
nặng cho lực lượng của TWC/MN ngay ở
trận Lộc Ninh, và khi bộ binh và chiến xa
của CSBV bôn tập trên QL-13 trong ngày 7/4, đồng
thời Tướng Hưng có đủ thời gian
đem quân về pḥng thủ An Lộc, củng cố
hệ thống pḥng thủ, xin thêm viện binh “tử
thủ” An Lộc. Đó là cú đấm trả đầu
tiên của Tướng Hưng. Cú đấm thứ hai
là do Tướng Nguyễn văn Minh, Tư lệnh QĐIII
& V3CT đánh ra với sự khôn ngoan tinh tế và
kinh nghiệm chiến trường của ông. Như ở phần trên tôi có đề
cập Tướng Nguyễn văn Minh không phải là
dũng tướng như cố Đại tướng
Đỗ Cao Trí, nhưng là một tướng lănh
rất thận trọng và “túc trí”, hay là một “túc
tướng”. Ông suy nghĩ rất chặt chẽ trước
khi đưa ra những quyết định hay những
đề nghị hợp lư trong chiến thuật hành
quân và dụng binh. Điều này tôi không nói ngoa mà cũng
không tâng bốc Tướng Minh. Dưới đây là
thí dụ điển h́nh về sự túc trí cuả Tướng
Minh. Khi được tŕnh về tin tức SĐ-5/CS và
Sư đoàn C30B –hay Sư đoàn B́nh Long mới thành
lập- của TWC/MN đồng thời cùng tập trung
về vùng Trị Tâm và Mật khu Bời Lời
gần tỉnh lỵ B́nh Dương, trên thực
tế là để bổ sung quân cho SĐ-5/CS sau khi bôn
tập từ Lộc Ninh xuống tấn công An Lộc và
bị tổn thất nặng trong ngày 7 tháng 4, như nói
ở phần trên, nhưng lúc đó Tướng Minh tuyên
bố với các phóng viên chiến trường, tôi
nhớ đại khái là: “Sau khi đánh xong Lộc
Ninh, đại bộ phận Sư đoàn Công trường
5 bôn tập xuống Trị Tâm hoạt động
phối hợp với Sư đoàn C30B. Các đại
đơn vị Cộng sản nằm sát các thị
trấn gần thủ đô, rất nguy hiểm khi
thọc sâu xuống phía nam. Phải chú ư theo dơi Sư
đoàn Công trường 5 với những mặt
trận mới có thể mở ra.” Khi tuyên bố như
vậy chẳng những Tướng Minh ám chỉ là có
thể SĐ-5/CS phối hợp với Sư đoàn
C30B tấn công tỉnh lỵ B́nh Dương và Biên Hoà,
kể cả Gia Định đồng thời TWC/MN cũng
sẽ mở những mặt trận mới với các
lực lượng địa phương nhắm vào
Long Khánh và Phước Tuy. Những ǵ Ông tuyên bố
đều là “khả năng có thể có của các
lực lượng TWC/MN”. Thực ra, như đă tŕnh bày, mục
đích của TWC/MN điều SĐ-5/CS và Sư đoàn
C30B về Trị Tâm trên vùng Sông Saigon không phải
để tấn công mà để cho SĐ-5/CS lấy
thêm quân từ Sư đoàn C30B rồi sau đó
trở lên mặt trận An Lộc, như đă nói
ở trên, chớ không phải xuống đó để
chuẩn bị tấn công B́nh Dương. Tuy nhiên v́
sự điều động hai đại đơn
vị nầy của Tướng Trần văn Trà
gần bên nách Saigon nên Tướng Minh có lư do chính tŕnh
lên BTTM/QLVNCH và Tổng thống để giữ nguyên
SĐ18BB (trừ Chiến đoàn 52 đă tăng
viện cho SĐ5BB trước trận Lộc Ninh) đang
trấn đóng các tỉnh phía đông Saig̣n trên
trục QL-1, và SĐ25BB đang trấn đóng tại
Củ Chi lên Tây Ninh trên trục QL-1 phía tây thủ
đô, và các đơn vị chiến xa và BĐQ
thuộc Lữ đoàn Xung kích của Chuẩn tướng
Trần Quang Khôi trước đây, làm lực lượng
trừ bị ở Biên Hoà. Đó là những đại
đơn vị cơ hữu của QĐIII, Tướng
Minh có đủ lực lượng chuẩn bị phá
“những mặt trận mới của TWU/MN” trong lănh
thổ QĐIII & V3CT, trong khi đó th́ Tổng Tham mưu
trưởng BTTM/QLVNCH, Đại tướng Cao văn
Viên nhất định phải tŕnh TT. Nguyễn văn
Thiệu tăng viện lớn lao cho Vùng 3 CT. Cũng dĩ
nhiên Tổng thống sẽ chấp thuận.Report this ad BTTM/QLVNCH đă điều động SĐ21BB,
sau đó ít lâu c̣n điều động thêm Trung
đoàn 15 của SĐ9BB tăng viện ở mặt
trận B́nh Long. Và cũng v́ sợ nguy ngập cho Saig̣n,
nên TT.Thiệu c̣n điều động hai
Lữ đoàn 3 Dù từ Vùng 2CT về tăng viện tướng
Minh, đưa Lữ đoàn 1 Dù và Liên đoàn 81
Biệt Cánh Nhảy Dù vào An Lộc cho Tướng Hưng.
Như vậy, với viễn kiến của ḿnh, Tướng
Minh đă nh́n thấy rơ mặt trận rộng lớn
hơn trong toàn lănh thổ mà ông chịu trách nhiệm,
không phải chỉ hạn hẹp trong mặt trận
An Lộc. Nghĩa là ông đă đoán được và
hiểu biết trọn vẹn quan niệm hành quân
của Tướng TWC/MN Trần văn Trà trong chiến
dịch mùa Hè năm 1972, là muốn đánh chiếm An
Lộc cần thiết phải “mở nhiều
diện khác” trong lănh thổ B-2, nhất là các
tỉnh bao quanh thủ đô. Về phía các tư
lệnh Hoa Kỳ từ Tướng Abram Creighton Tư
lệnh MACV, đến Tướng hai sao Hollingsworth James
F. Tư lệnh TRAC (Third Regional Assistance Command –Bộ Tư
lệnh Viện trợ Quân Khu 3) tất nhiên cũng
đặc biệt chú trọng đến t́nh h́nh
chiến cuộc ở QĐIII & V3CT, nên chắc
chắn yểm trợ ưu tiên cho Tướng
Nguyễn văn Minh. Nếu nh́n thấy rơ những
điều nầy mới hiểu rơ tài điều binh
và sự túc trí của Tướng Nguyễn văn
Minh, ngược hơn những phán đoán từ trước
đến nay về vị tướng lănh cẩn
trọng này của QLVNCH. Với lực lượng như
vậy, Tướng Minh đă phối trí các đơn
vị hợp lư là tăng viện thêm cho An Lộc,
nỗ lực giải toả chốt chặn của Sư
đoàn 7 CSBV ở phía bắc Chơn Thành bằng các
lực lượng tăng viện, trong khi đó
giữ vững các đại đơn vị cơ
hữu ở các vùng hiểm yếu trong lănh thổ
của ḿnh để chờ những mặt trận
mới của TWC/MN. 8. TỬ THỦ AN LỘC LÀ
QUYẾT TÂM SẮT ĐÁ CỦA TƯỚNG TƯ
LỆNH MẶT TRẬN LÊ VĂN HƯNG CŨNG LÀ TƯ
LỆNH SĐ5BB, NHƯNG KẾ HOẠCH TỐI ƯU
GIÚP TƯỚNG HƯNG GIỮ VỮNG AN LỘC LÀ
CỦA ĐẠI TÁ LÊ QUANG LƯỠNG LỮ ĐOÀN
TRƯỞNG LỮ ̃ĐOÀN 1 NHẢY DÙ. Tại thị xă tỉnh lỵ An
Lộc, ngoài các Trung đoàn 7 và 8 (-) của SĐ5BB,
một tiểu đoàn Pháo binh và Đại đội
5 Trinh sát -bảo vệ BTL/HQ Sư đoàn (tất
cả dưới 2,500 quân), chừng hai tiểu đoàn
ĐPQ của Tiểu Khu B́nh Long (tất cả dưới
800 quân), Chiến đoàn 33 BĐQ (hơn 1,500 quân),
Chiến đoàn 52/SĐ18BB (400 quân, kể cả thương
binh), ngày 14 tháng 4 Tướng Minh cho tăng viện vào
thị xă Lữ đoàn 1 Nhảy Dù (chừng 2,200 quân),
và ngày 17 tháng 4, Chiến đoàn 81 Biệt Cách Nhảy
Dù (chừng 450 quân). Tổng cộng, lực lượng
pḥng thủ tại An Lộc của Tướng Lê văn
Hưng chừng trên 7,500. Tại Bộ Tư lệnh HQ
nhẹ của Tướng Hưng, Pḥng 3 Hành Quân cùa
Trung tá Trịnh Đ́nh Đăng ở khu nhà mặt
tiền xoay ra đường Nguyễn Huệ bị
một hỏa tiển 122 ly rơi trúng, 6 sĩ quan tham mưu
của ông tử thương. Pḥng 2 Hành Quân của tôi
trong cùng một dăy nhà đó cũng có một sĩ
quan tử thương. Các sĩ quan tham mưu của
Trung tá TĐĐ không c̣n người nào để làm
việc, nên ông cùng tôi và hai sĩ quan cấp đại
úy của tôi là Dương Tấn Triệu và
Nguyễn Chí Cường phải đảm
đương việc thu nhặt tin tức hành quân
của tất cả các đơn vị để
lập quyển nhật kư hành quân cho Sư đoàn
về trận An Lộc. Sau này quyển nhật kư hành
quân này do tôi giữ nên tai họa đổ lây sang cho
tôi sau khi tướng Hưng bị thất sủng…
Theo ghi nhận của chúng tôi sau khi liên lạc với
toàn bộ các cánh quân pḥng thủ th́ trong trận
tấn công của CSBV vào An Lộc ngày 13 tháng 4,
tổn thất của bạn là 28 tử thương,
53 bị thương, mất 3 súng công đồng và 42
súng cá nhân; địch 169 chết ở các tuyến pḥng
thủ bạn, 2 bị bắt. Ta tịch thu được
3 súng cộng đồng, 50 súng cá nhân, 2 máy truyền
tin, bắn hạ từ 14 đến 16 chiến xa T-54 va
PT-76 của địch.Report this ad Nên lưu ư là khi TWC/MN tung quân tấn công
đợt thứ nhất vào thành phố ngày 13 tháng 4,
1972 th́ Lữ đoàn 1 Nhảy Dù và Chiến đoàn 81
BKND chưa được tăng viện, quân số pḥng
thủ chỉ chừng dưới 5,500 người
nếu tính cả nhân dân tự vệ vơ trang. Trong ngày
này, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Đại tá Lê
Quang Lưỡng đang giải toả chốt chặn
của Sư đoàn 7 CSBV ở Tàu-Ô, v́ trận CSBV
tấn công An Lộc nói trên nên Tướng Minh
lệnh cho rút ra để chuẩn bị vào An Lộc
tăng cường cho SĐ5BB. SĐ21BB từ miền Tây
được đưa vào thay thế. Ở đây, có một điểm
cần nêu lên là, trong ngày 13 tháng 4, bởi sự
tấn công dữ dội của SĐ-9/CS của TWU/MN
cộng với các đơn vị chiến xa 202 và 203
từ miền Bắc vào và ba trung đoàn pháo của Sư
đoàn 69, hay 70 Pháo, được tăng cường
Trung đoàn Pháo Pḥng không từ miền Bắc và Trung
đoàn Đặc công 429, các tuyến pḥng thủ
của Trung đoàn 8 (-), Trung đoàn 52 (-) và Chiến
đoàn 3 BDQ ở mặt bắc và đông bắc đă
phải lui về tuyến pḥng thủ thứ hai trong thành
phố. Một phần thành phố trong khu vực thương
măi phía bắc đường Nguyễn Trung Trực và
sân bay Đồng Long tạm thời bị địch
chiếm giữ, mặc dù có một số chiến xa
của chúng bị hạ trong khu vực trách nhiệm
của mỗi đơn vị. Xin tưởng tượng, một thành
phố với chiều ngang 1 km và chiều dài 2 km
chỉ trong đêm 12 rạng 13 tháng 4, phải chịu
từ bốn đến năm ngh́n quả đạn
đại pháo của CSBV th́ có nơi nào không bị
pháo dội phải? Binh sĩ pḥng thủ và cư dân
trong thành phố bị thương rất cao. Bịnh
viện tỉnh nằm trước mặt Bộ Tư
lệnh Hành quân SĐ5BB, cách một con đường,
bị pháo nhiều đợt. Người bị thương
đưa vảo đó trong những ngày trước
chết nằm la liệt khắp nơi. Có những xác
chết rồi bị banh xác thêm một đôi lần
nữa. Trước t́nh cảnh đó, Đại tá Bùi
Đức Điềm,Tham mưu trương Hành quân Sư
đoàn, khi dứt tấn công chiến xa, t́m đâu
đó được một chiếc xe ủi đất,
tự ḿnh lái xe đào những đường rănh
lớn và binh sĩ Đại đội 5 Trinh sát Sư
Đoàn phụ thu dọn xác chết và các mảnh
vụn thi thể cư dân, đem chôn tập thể dưới
các đường rănh nầy. Binh sĩ đơn
vị chết th́ chôn tại chỗ bố pḥng của
đơn vị. Các việc nầy lập lại
nhiều lần suốt trận chiến dài một trăm
ngày ở An Lộc. Đại tá Điềm luôn luôn
ở trên chiến trường, trong các hố cá nhân
với binh sĩ ở đâu đó khi pháo rộ và
đi giám sát đôn đốc binh sĩ mọi nơi
trong tuyến pḥng thủ của Bộ Tư lệnh HQ
và các đơn vị của Sư đoàn. Ông là
một sĩ quan can trường, cẩn trọng và
nhiệt t́nh. Tôi chưa từng thấy một cấp
chỉ huy nào như ông. Chỉ vào đêm tối ông
mới xuống nằm cạnh bên tôi trong hầm khi
đă hiểu biết vững vàng mọi việc trong
ngày trên mặt đất và làm hết sức ḿnh
trong ngày. Sau trận tấn công này, các đơn
vị pḥng thủ của Tướng Hưng không
thể tản thương, thay quân và tiếp tế
đạn dược hay thực phẩm được
nữa v́ đă mất sân bay Đồng Long, một
phần thành phố phía bắc thị xă trong khu thương
măi, và hai ngọn đồi quan trọng ở đông
nam thị xă là Đồi Gió và Đồi 169. Hệ
thống tiếp tế bằng C-47 Chinooks ở sân bay
Đồng Long hoàn toàn đ́nh chỉ. Cư dân
vẫn sống trong các dăy phố chung với binh sĩ
các đơn vị ở những khu vực của
tuyến pḥng thủ mới và một số lớn
chạy về sống tạm bợ cạnh ḍng
suối cập đường rầy xe lửa ở
khu đông nam thị xă. Trong khu vực hành chánh phía nam
Đại lộ Hoàng Hôn, ở khu vực suối nói
trên và ở các khu vực pḥng thủ binh sĩ chia
xẻ gạo, cơm xấy và thực phẩm với dân.
Cũng ghi nhận là trước đó, trong ngày 8 tháng
4, cư dân trong thành phố chừng hơn ba ngàn người
tị nạn chia làm hai đoàn do một linh mục Công
giáo và một đại đức Phật giáo hướng
dẫn di chuyển theo QL-13 về Chơn Thành, nhưng
vừa qua khỏi đồn điền Xa Trạch
bị Sư đoàn Công trường 7 pháo kích, hàng trăm
người chết, bị thương. Xác chết
nhầy nhụa trên mặt đường và khu
vực chung quanh. Một số chạy ngược
về An Lộc, kỳ dư đều bị chúng
bắt không c̣n biết tung tích ǵ nữa sau đó.Report
this ad Từ ngày 14 tháng 4 trở đi An
Lộc chỉ được tiếp tế bằng
thả dù không vận của KQVN và Không lực Hoa
Kỳ. KQVN, trong hai ngày đầu, sau mấy đợt
thả đạn dược và thực phẩm khô cho
các đơn vị pḥng thủ bằng các loại
vận tải cơ Faichild C-123 và C-119 bị pḥng không
CSBV bố trí dày đặc bao quanh thành phố xạ kích
dữ dội làm thiệt hại 2 chiếc C-123 và
mấy chiếc khác bị hư hại, vả lại v́
bay cao nên các dù đạn và thực phẩm phần
lớn rơi vào khu vực địch kiểm soát. V́
vậy, KQVN đă phải đ́nh chỉ các hoạt
động thả dù tiếp tế cho An Lộc sau 27
phi vụ. Cứu tinh của binh sĩ pḥng thủ và
số lớn cư dân là nguồn thả dù tiếp
tế cuả đơn vị 347 Tactical Airlift Wing (U.S.
347th TAW). Do hệ thống pḥng không của
CSBV rất mạnh với tầm tác xạ kiến
hiệu cao nên các vận tải cơ C-130 H.K. phải
bay trên 10,000 bộ khi thả dù tiế́p tế. May
mắn là đơn vị nầy đă t́m được
nguyên tắc cho dù mở chậm sau khi thả ra
khỏi phi cơ và dù chỉ mở ra các mặt đất
từ 10m đến 20m. Nhờ cách thả dù tiếp
liệu nầy nên các lực lượng của Tướng
Hưng từ ngày 16 tháng 4 trở đi nhận hơn
95% thực phẩm và đạn dược trừ
đạn đại pháo 155 ly và 105 ly, v́ cả
tiểu đoàn pháo của Sư đoàn trong thị
trấn hoàn toàn bị pháo địch phá hủy trong
ngày tấn công đầu tiên của chúng; không c̣n
một khẩu nào sử dụng được, nên không
tiếp tế đạn pháo. Tuy nhiên lối thả dù tiếp
liệu nầy cũng rất nguy hiểm cho binh sĩ trú
pḥng. Sức nặng của mỗi bọc dù thực
phẩm hay đạn dược cũng phải từ
hai đến ba, bốn, tấn. Dù vừa thả ra
khỏi máy bay, chỉ là một chấm nhỏ,
chừng chưa đầy ba mươi giây đă
xuống đến mặt đất. Mỗt lần
thả dù như vậy it́ nhất cũng phải có
đôi ba cộng sự pḥng thủ bị dù rớt
xập hay mấy chiếc hầm cá nhân bị dù chôn
luôn xuống đất lẫn người chiến sĩ
trong hầm v́ có những chiếc dù chưa kịp
mở đă đâm thẳng xuống mặt đất.
Và ở tất cả những băi thả dù nầy luôn
có sự hiện diện của Đại Tá Bùi Đức
Điềm. Chính ông là người phân phối
thực phẩm, đạn dược theo nhu cầu
của các đơn vị. Cấp bậc Đại tá
cuả ông dĩ nhiên đầy đủ uy quyền
đối với các toán tiếp tế của các
đơn vị ̣đến băi nhận phần súng
đạn và thực phẩm khô cho đơn vị. Không
hề có vấn đề giành giựt thực phẩm
bắn nhau ở băi thả dù, bất cứ khu nào trong
thành phố. Đứng chỉ huy thu nhặt và phân
phối thực phẩm ở băi thả dù nghĩa là
phải vừa đội pháo CSBV vừa có thể
bị đè bẹp, chết tức khắc, bởi
những chiếc dù nặng rơi nhanh không thể tưởng.
Người ta tâng bốc nhau về công trạng
của vị chí huy nầy hay vị chỉ huy nọ. Cũng
có người tự tâng bốc chính ḿnh, nhưng tôi
hiện diện ở chính chiến trường đó,
chỉ thấy những người câm nín làm việc
như vị đại tá này hay một hạ sĩ
Truyền tin của Sư đoàn, tên Lê văn Sáu, dù
ngày hay đêm, pháo vừa dứt đă thấy anh
hết trèo lên trụ điện này đến trụ
điện nọ nối lại những mạch điện
thoại bị đứt v́ pháo kích hay v́ bất
cứ lư do nào đó, suốt cả một trăm ngày
của trận chiến. Tiếc rằng không có một
thẩm quyền nào đó cầm chiếc “Đệ
Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương” dúi vào
tay Tổng Thống để gắn cho Đại tá BĐĐ
hay một Anh dũng Bội tinh với nhành dương
liễu gắn cho Hạ sĩ Sáu… Sau trận tấn công đầu tiên
của các đơn vị TWC/MN vào An Lộc, một
phần của phía bắc thị xă bị chúng
chiếm (Bản đồ # 4). Nhất là mất Sân bay
Đồng Long, không thể tải thương, thay quân
và tiếp tế, nên kế hoạch cuả Tướng
Minh là thả Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, gồm các
Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 8,
Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù và Đại đội
Trinh Sát, do Đại tá Lê Quang Lưỡng (sau này thăng
cấp Chuẩn tướng, Tư lệnh SĐ
Nhảy Dù cuối cùng của QLVNCH) chỉ huy, ở hai
băi ruộng trống cặp QL-13 mà đầu mùa Hè chưa
có mưa và ruộng khô trơ gốc rạ, nằm
ở quăng giữa cầu Cần Lê và sân bay Đồng
Long, để từ đó quân Dù sẽ tiến
xuống hướng nam, tấn công vào đơn
vị địch chiếm giữ sân bay và phía bắc
thành phố. Trong khi đó th́ ở phía nam thành phố
Tướng Hưng sẽ đưa một cánh quân BĐQ
của Trung tá Nguyễn văn Biết kết hợp
với Trung đoàn 7 của Trung tá Lư Đức Quân
tấn công lên phía bắc chiếm lại khu phố
bị mất ngày hôm trước. Dĩ nhiên KQVN và KLHK
sẽ thả bom dọn băi đáp và yểm trợ cho
Dù đổ quân và cho BĐQ và bộ binh khi tấn công.Report
this ad Kế hoạch nầy khi đưa
về SĐ5 th́ được Đại tá Cố
vấn William Miller yểm trợ hết ḿnh, nhưng Tướng
Hưng do dự v́ muốn gặp Đại tá Lê Quang
Lưỡng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn
1 Nhảy Dù trước cuộc đổ quân vào
giải tỏa An Lộc ngày hôm sau 14 tháng 4. Ngày đó,
vào sáng tinh sương, một trực thăng bay sát
ngọn cây đưa Đại tá Lê Quang Lưỡng
vào Bộ Chi huy Tiểu khu của Đại tá Trần
văn Nhựt. Tôi được lệnh đến
đó đón Đại tá LQL về Bộ Tư
lệnh Sư đoàn. Khi vào hầm chỉ huy của Tiểu
khu, tôi hiểu v́ sao sau nầy các cố vấn Hoa
Kỳ “mê” và hết lời khen ngợi Đại tá
TVN, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng B́nh
Long. Hầm ngầm của Bộ Chỉ huy Tiểu khu,
gọi là B-15, trước đó của Lực lượng
Đặc Biệt QLVNCH, được Hoa Kỳ xây
dựng, sâu, kiên cố và rộng răi gấp ba lần
chiếc hầm u tối, chật hẹp, của Bộ
Tư lệnh HQ/ Sư đoàn. Trong hầm, đèn sáng
choang, các sĩ quan Việt Mỹ ngồi ở các bàn hành
quân, ̣đề huề, đâu ra đó; bản
đồ thành phố, bản đồ hành quân đầy
đủ. Cũng không thiếu thuốc lá, café, trà
ngon và thực phẩm khác. Như đă nói ở trên,
Đại tá TVN là một sĩ quan can trường
lại vô cùng tế nhị. Hầu hết các cố
vấn Hoa Kỳ đều về tập trung tại
đây, trừ Đại tá William Miller và hai sĩ quan
dưới quyền ông, trong toán Cố vấn của SĐ5BB.
Số cố vấn Hoa Kỳ của Tiểu khu và các
đơn vị khác về đó trong suốt trận
chiến có lẽ trên mươi người, hoặc
nhiều hơn, từ cấp trung tá trở lại,
chắc chắn đă được Đại tá TVN
bồi tiếp chu đáo. Đó là do bản tính
nồng nhiệt và sự tế nhị của ông mà tôi
đề cập trên. Ngược lại, chính sự
tận tâm giúp đỡ của số cố vấn ít
oi nầy mà các chiến sĩ pḥng thủ đă
giữ vững được An Lộc nhờ vào
sự yểm trợ tối đa của không trợ và
không yểm của Không Quân Chiến Lược và
Chiến Thuật Hoa Kỳ. Các cố vấn Hoa Kỳ
ở Bộ Chỉ huy Tiểu khu B́nh Long sau nầy
về nước đều khen ngợi Đại tá
TVN về sự liên lạc mật thiết giữa ông
và họ, kể cả sự can đảm và tài thao lược
của ông. Chuyện đó dĩ nhiên thôi. Sự thực th́ Đại tá TVN có ít
quân, chỉ c̣n dưới một tiểu đoàn Đia
Phương quân, kể cả Nghĩa quân và Dân
vệ, chừng hơn 600 binh sĩ –được
những kẻ tâng bốc tăng thành cấp trung đoàn
với 1,000 người. Đại tá TVN không có
quyền quyết định về mọi việc
ở chiến trường An Lôc, mà là Tướng Tư
lệnh Mặt trận Lê văn Hưng. Một trong
những sĩ quan cố vấn của Chiến đoàn
52 là Trung úy James H. Willbanks, vào An Lộc trễ, và
bị thương bởi đạn pháo kích, khi về
Hoa Kỳ leo dần lên cấp Trung tá và theo học chương
tŕnh hậu đại học đă dựa phần
lớn vào tài liệu của Đại tá William Miller,
viết luận án Cao học và Tiến sĩ về
Trận Chiến An Lộc, bốc thơm Đại tá
TVN nức nở, nhưng đă xúc phạm lớn lao
đến uy tín Tướng Lê văn Hưng. Có lẽ
chính Willbanks cũng không hiểu rơ sự bất đồng
ư kiến lớn lao giữa Đại tá Cố vấn
Hoa Kỳ William Miller và Tướng Tư lệnh SĐ5BB
Lê văn Hưng từ trước và trong trận
chiến An Lộc diễn ra. Nguyên do chính là v́ từ trước khi
diễn ra trận An Lộc, Tướng Hưng coi Đại
tá William Miller chỉ một sĩ quan xuất thân
từ hàng binh sĩ, là “un sorti-du-rang” theo cách nói không
mấy nể trọng của người Pháp và coi
Đại tá Miller như một người không
hiểu biết nhiều về địch thủ trong
cuộc chiến Việt Nam. Hơn nữa, Tướng
Hưng coi cấp bậc là cấp bậc, tướng
là tướng, tá là tá. Việt, Mỹ, có khác ǵ
nhau… Ngược lại, Đại tá Miller coi tướng
Hưng là một sĩ quan trẻ tuổi –a young
general– hàm ư là thiếu kinh nghiệm và coi Hưng là
một trong các tướng “Đồng bằng
Cửu Long”(one of the Delta-Clan generals) cũng với ư
biếm nhẽ, kém tôn trọng. Họ khi dể lẫn
nhau và ngấm ngầm trở thành những kẻ thù.
Nhưng thái độ của mỗi người
một khác. Đại tá Miller nhiều lần căi vă
với Tướng Hưng ngay trong hầm ngầm hành
quân ở An Lộc. Mọi chuyện Tướng Hưng
đều bỏ qua. Ngược lại, Đại tá
Miller mang mối thù nầy về tận Hoa Kỳ và
mở những cuộc thuyết tŕnh, hội thảo,
về trận chiến An Lộc và nhân các cơ
hội nầy miệt thị Tướng Lê văn Hưng…
Tôi sẽ nói rơ hơn ở phần dưới.Report
this ad Khi Tướng Nguyễn văn Minh
đưa ra kế hoạch tăng viện Lữ Đoàn
1 Nhảy Dù bằng chiến thuật hai mũi giáp công
để chiếm lại phần phía bắc thị xă
An Lộc bị mất từ hôm trước th́ Đại
tá Miller rất tán thành. Tuy nhiên, sau khi tôi đón Đại
tá LQL, Lữ đoàn trưởng LĐ1ND, về căn
hầm BTL/HQ Sư Đoàn gặp Tướng Hưng
xong th́ mọi việc đă đổi khác. Đại
tá Lưỡng tŕnh bày chiến thuật hơn
thiệt rất hợp lư và chứng tỏ ông là
một nhà chiến thuật lỗi lạc và nhiều
kinh nghiệm trong những trận đánh lớn. Ông cho rằng, nếu đổ hơn
hai ngh́n hai trăm quân Dù ở vùng ruộng trống trơ
gốc rạ nằm giữa cầu Cần Lê và sân bay
Đồng Long, th́ v́ bất ngờ, líp (lift) thả
đầu tiên bằng C-47 của KLHK hay KQVN, đơn
vị Dù nhảy xuống đầu tiên đó có
thể sẽ an toàn. Nhưng từ líp đổ quân
thứ hai trở đi các đơn vị Dù sẽ là
mồi ngon cho pháo binh CSBV tập trung. Tổn thất
sẽ rất cao, có thể lên đến 50%, hay cao hơn
nữa. Người ta sẽ không thể mở một
cuốc tấn công vào sân bay Đồng Long với
một số tử thương và thương binh cao
-dù bị bỏ họ lại ở băi chiến hay d́u
họ theo. Hơn nữa, nếu thả các đơn
vị Dù ở LZ (Landing Zone) theo kế hoạch, th́ cũng
chỉ thả được các đơn vị Dù tác
chiến bộ binh mà không thể thả Tiểu đoàn
3 Pháo binh Dù với các loại trọng pháo, đại
pháo dă chiến, để đánh nhau liền. Cho
rằng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vào được
mục tiêu chỉ định, th́ với lực lượng
c̣n lại cũng sẽ không ̣đủ sức
tấn công lực lượng địch đă
chiếm giữ sân bay và mặt bắc thành phố
từ ngày hôm trước mà chúng ta không hiểu rơ chúng
có bao nhiêu quân và ở cấp bộ nào? Yếu tố
thành công không có, mà sự thất bại đă
thấy rơ trước mắt. Cho dù Lữ đoàn Dù
chiếm được mục tiêu th́ lực lượng
c̣n lại chỉ trên dưới một tiểu đoàn,
sẽ không chịu đựng nổi những trận
tấn công kế tiếp của quân CSBV. Một cánh quân
mạnh tinh nhuệ cũng sẽ trở thành một
đơn vị què quặt th́ sự tặng viện
họ vào An Lộc là…vô ích. Với các lư luận này,
Đại tá LQL đề nghị một kế
hoạch khác. Quan niệm hành quân của Đại tá
LQL là tăng viện Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vào An
Lộc không chỉ là tăng quân để pḥng
thủ vị trí chiến lược then chốt
nầy, mà c̣n để đáp ứng nhu cầu giúp
cho vị tư lệnh mặt trận tạo niềm
tin trong binh sĩ pḥng thủ là An Lộc được
tiếp viện, chẳng những đủ sức pḥng
thù chống mọi cuộc tấn công của địch
quân, mà c̣n có thể phản công khi t́nh h́nh cho phép,
chớ không thể sử dụng đơn vị
nầy như lực lượng xung kích đánh ngay vào
vị trí địch đang chiếm đóng trong thành
phố trong trận tấn công trước mà chúng ta chưa
biết được thực lực của chúng
lớn mạnh ở qui mô nào. Cấp liên trung đoàn
hay sư đoàn? Thực tế chỉ biết pḥng không
và trọng pháo dă chiến của chúng rất mạnh.
Nếu tấn công địch quân ngay khi đổ quân
ở vùng ruộng trống phía nam cầu Cần Lê th́
sẽ rơi vào trường hợp nêu ở trên.
Nếu chiếm lại được sân bay Đồng
Long ở phía bắc thành phố cũng sẽ không dùng
được nữa v́ nơi đó đă… và
sẽ trở thành mục tiêu tập trung pháo đă
được điều chỉnh từ trước.
Các loại phi cơ vận tải hay trực thăng
đáp xuống chỉ để bị banh xác mà thôi. Kế hoạch khả thi là nên đổ
quân Dù bằng trực thăng của KQVN hay KLHK ở
một băi đáp bí mật (a secret landing zone -or LZ)
ở phía đông nam thị xă. Toàn bộ quân Dù
sẽ an toàn khi đổ quân v́ tạo được
yếu tố bất ngờ, pháo binh địch sẽ
không đủ th́ giờ chỉnh tác xạ vào LZ
mật đó. Từ băi đáp an toàn nầy, Tiểu
đoàn 6 Nhảy Dù, đơn vị đổ quân
đầu tiên sẽ tức tốc di chuyển tấn
công chiếm lại Đồi Gió và Đồi 169
chừng 3 hay 4 km phía đông nam thị xă bị địch
chiếm trong trận đánh ngày hôm trước, là hai
cao điểm chế ngự toàn thành phố. Tiểu
đoàn 3 Pháo binh Dù sẽ đổ quân sau và vào
vị trí khi Tiểu đoàn 6 Dù chiếm xong hai
ngọn đồi nói trên. Hai tiểu đoàn này
sẽ do Trung tá Lê văn Ngọc, Lữ đoàn phó,
chỉ huy. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, Đại
đội Trinh sát, Tiều đoàn 5 và Tiểu đoàn
8 sẽ đổ quân tiếp theo trong ngày kế
tiếp.Report this ad Tiểu đoàn 5 sẽ yểm trợ
cho Tiểu đoàn 8 tiến vào đầu xa lộ (hay
QL-13) xuất phát từ phía nam thị xă, chạy
về hướng đồn điền cao-su Xa Cam cách
thị xă chừng 3, 4 km, về hướng nam. Khúc xa
lộ nầy mặt đường rộng trên dưới
20m, hai bên đường trước đó các
đơn vị Hoa Kỳ đă phát hoang sâu vào b́a
rừng, mỗi bên rộng chừng 800m đến 1,000
nên rất trống trải có thể mở làm
“một sân bay trực thăng tạm” rộng răi, các
loại trực thăng lớn nhỏ của KQVN và KLHK
đều có thể đáp xuống được. Sau
đó, Tiểu đoàn 8 Dù của Trung tá Văn Bá Ninh
sẽ trấn đóng ở khu vực này phụ trách
giữ an ninh và điều hành sân bay trực thăng
tạm để các đơn vị pḥng thù có
thể tản thương các thương bịnh binh và
tiếp nhận quân bổ sung thay thế. Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá
Nguyễn Chí Hiếu sẽ tiến về khu vực
gần ṿng đai tây nam tỉnh lỵ và trấn đóng
ở đó làm lực lượng trừ bị cho
Lữ đoàn và cho Tướng Hưng. Bộ Chỉ
huy Lữ đoàn được Đại đội
Trinh sát bảo vệ, sẽ đóng chung với Bộ
Chỉ huy Tiểu khu, nằm gần hai tiểu đoàn
nói trên. Đại tá LQL cho rằng, “nếu Lữ
đoàn Dù mở được sân bay trực thăng
tạm và bung rộng ra giữ được an ninh
ở khu vực đầu xa lộ nói trên, th́ lực
lượng pḥng thủ có thể tản thương và
thay quân, hay tiếp tế được, các đơn
vị sẽ có quân mới, khoẻ. Lực lượng
sẽ mạnh dần. Sau khi đánh không quân cắt
đứt đường tiếp vận của quân
CSBV vào thành phố và “cô lập” được cánh
quân nầy của chúng với các đơn vị
hậu cần TWC/MN ở bên ngoài th́ lực lượng
địch sẽ ṃn dần. Lực lượng pḥng
thủ An Lộc của Tướng Hưng chờ khi
bắt tay được với các cánh quân của SĐ21BB
từ Chơn Thành tiến lên sau khi giải tỏa
được các chốt chặn của địch quân
ở khu vực suối Tàu-Ô, lúc đó sẽ mở các
cuộc hành quân chiếm lại các khu phố ở phía
bắc thành phố và sân bay Đồng Long. Đó là
kế sách an toàn cho An Lộc chống giữ lâu dài và
quân CSBV sẽ ṃn mỏi dần khi họ bị tấn
công dồn dập bởi KQVN và KLHK –nhất là không
lực chiến lược với loại bom sát thương
rộng lớn và dữ dội B-52. Đó cũng là
ưu sách để chiến thắng. V́ chúng ta giữ
được thành và đánh được địch.” Dựa trên t́nh h́nh chiến sự
diễn ra lúc đó th́ quan niệm và kế hoạnh hành
quân của Đại tá LQL là tối ưu. Sau hơn
một giờ bàn luận với Tướng Lê văn
Hưng và được vị tư lệnh chiến
trường nầy hết ḷng yểm trợ, Đại
tá LQL lên trực thăng về Lai Khê tŕnh bày lại
với Tướng Nguyễn văn Minh. Kế hoạch
tức khắc được chấp thuận cho áp
dụng. Từ chiều ngày 14 đến ngày 15 tháng 4,
mọi cuộc đổ quân bằng trực thăng
vận của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đă gây
bất ngờ cho Bộ Tư lệnh TUW/MN cuả Tướng
Trần văn Trà. Toàn bộ các đơn vị Dù
trực thuộc vào An Lộc trong ngày 17, với tổn
thất tương đối nhẹ (chỉ dưới
4%) khi cánh quân lớn nầy vào trận địa
đang nóng bỏng lúc đó. Yếu tố bất
ngờ và sự chọn băi đổ quân (landing zone
–LZ) thận trọng nên không bị tổn thất khi
đổ quân. LZ là khu vực hương lộ 245 con
đường nhựa chạy ngang sóc Srok Ton Cui, hướng
tây nam và gần hai ngọn đồi Gió và 169 (xem
bản đồ đổ quân vào An Lộc của LĐ1ND).
Mọi chi tiết của kế hoạch do Đại tá
LQL cũng được thực hiện chu đáo. -Tiểu đoàn 6 Dù của Trung tá
Nguyễn văn Đỉnh, từ khu vực đổ
quân đă tiến vào mục tiêu và tấn công vào các
đơn vị quân CSBV trên hai ngọn đồi
ở khu vực đông nam thành phố này. Ngay trong
buổi chiều 14, chừng hơn một giờ sau khi
đổ quân, Tiểu đoàn đă chiếm xong hai
mục tiêu, Đồi Gió và Đồi 169. -Toàn bộ đại bộ phận
của Lữ đoàn 1 Dù gồm Bộ Chỉ huy
Lữ đoàn, Đại đội Trinh sát, Tiểu
đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 Dù đă đổ quân hoàn
tất vào khoảng 3 chiều ngày 15 tháng 4 ở băi
đáp gần đồi Gió. Cũng trong ngày này,
từ sáng sớm Bộ Tư lệnh Tiền phương
TWU/MN đă mở một cuộc tấn công chiến xa
và bộ binh vào các tuyến pḥng thủ của Tướng
Hưng sau khi đă dập hơn năm ngàn quả
đại pháo vào thành phố. Cuộc tấn công
nầy diễn ra có vẻ vội vă ở mặt tây và
tây bắc v́ chiến xa từ hướng nầy
tiến vào thành phố không có bộ binh tháp tùng.
Ở mặt đông bắc th́ áp lực tấn công
của lực lượng địch rất nặng.
Riêng ở mặt đông nam th́ địch không
thể tấn công v́ quân Dù đă chiếm trọn khu
vực hai ngọn đồi nói trên và ng̣ọn
đồi thấp hơn ở sóc Srok Ton Cui. Đặc
biệt ghi nhận là thiết giáp địch vào thành
phố chạy lạc lơng, lơ ngơ, không biết
đường lối hay mục tiêu tấn công, để
bị bắn hạ… dễ dàng. Có không ít đôi ba lư
do để giải thích. Nhưng nguyên nhân chính là ngày
hôm trước, tức ngày 14 tháng 4, nhằm mục
đích làm giảm áp lực địch và sự tăng
viện quân của chúng vào thành phố sau khi chúng
tấn công mạnh ở hướng tây bắc ngày hôm
trước và cũng để đánh lạc chú tâm
của địch, yểm trợ cho Dù đồ quân,
sau khi họp xong với Đại tá LQL, Tướng Hưng
chỉ thị cho tôi vẽ mười boxes B-52 (mỗi
boxe dài chừng hơn 2km và rộng 1km) chuyển cho
Đại tá Miller, yêu cầu Không Quân Chiến lược
Hoa Kỳ thực hiện; trong đó có hai boxes đánh
xuống Ấp Phú Lố cách thị xă chừng hơn
ba dậm, và Ấp Phú B́nh chỉ các ṿng đai pḥng
thủ của quân bạn ở hướng tây
chừng 800m. Xin thực hiện ngay trong ngày hôm đó.Report
this ad Buổi trưa trước khi Tiểu
đoàn 6 Dù đổ quân vào LZ ở đông nam
thị xă th́ KQ Chiến lược Hoa Kỳ đă
đánh xong hai boxes B-52 vào các ấp Phú Lố và Phú B́nh
ở tây thị xă. Tám boxes khác đánh xa hơn trên
trục chuyển quân của chúng. Cư dân ở hai
ấp nầy đă hoàn toàn di tản vào thành phố
ngay trong những ngày 7 và 8 tháng 4. Ở các nơi đó
chỉ c̣n vườn không nhà trống tuy nhiên vẫn
c̣n là nơi thích nghi cho các đơn vị CSBV với
các nước giếng ngọt, rau cải và cây trái,
nhà cửa. Chúng có thể tạm dừng trên lộ tŕnh
tiến quân, lo cơm nước, để chuẩn
bị tấn công vào thị xă. Sau này chúng tôi
được biết chính hai boxes B-52 ngày 14 tháng 4 này
ở hai ấp nói trên đă tiêu diệt trọn
Bộ chỉ huy Trung đoàn 271, hai tiểu đoàn
bộ binh của trung đoàn này và các đơn
vị pḥng-không tháp tùng, là cánh quân lớn của Sư
đoàn Công trường 9 TWU/MN, và là mũi tấn công
chính vào mặt tây và tây bắc An Lộc. Nhưng ngày
15/4, mũi nhọn chủ lực này đă… không bao
giờ vào thành phố mà đă phơi thây ở hai
ấp Phú Lố và Thanh B́nh rồi. Các chiến xa vào
thành phố trong ngày này đó không có bộ binh tháp tùng
đă chạy lang bang trên các con đường
phố, không biết bạn ở đâu, ví trị
của quân pḥng thủ ở đâu, th́ chỉ là
những con mồi ngon cho loại súng chống chiến
xa M-72 mà thôi. Trong ngày đó, 10 chiếc T-54 và PT-76 cùa
CSBV bị hạ trong thành phố). Cũng trong ngày 15 tháng 4 này, v́ giữ
được LZ nên Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 1
Nhảy Dù, các Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 Dù
cũng đă đổ quân an toàn ở băi đổ
quân vùng sóc Srok Ton Cui. Tuy nhiên v́ thành phố đang
bị tấn công nên Tướng Hưng liên lạc
chỉ thị cho Đại tá LQL tạm giữ lưc
lượng Dù ở khu vực vùng ba ngọn đồi
đông nam đó, chưa vào thành phố trong ngày hôm
đó. Ngày hôm sau Đại tá LQL chia quân Dù làm hai cánh
vào thành phố. Cánh thứ nhất, gồm có Tiểu
đoàn Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, các đại
đội Trinh sát và Công binh cùng với Tiểu đoàn
5 của Trung tá Nguyễn Chí Hiếu tiến vào ṿng
đai pḥng thủ của Tiểu khu theo ngă ấp Sóc G̣n.
Cánh quân thứ hai do Trung tá Văn Bá Ninh, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 8 Dù chỉ huy, tiến vào
mục tiêu chỉ định là đầu xa lộ phía
nam tỉnh lỵ, gần Bộ Chỉ huy Tiểu khu
theo ngă ấp Phú Ḥa chỉ cách ṿng đai pḥng thủ
thị xă chừng 1 km về hướng đông.
Ấp Sóc G̣n cách ấp Phú Ḥa hơn một km về hướng
đông bắc. Cả hai cánh quân nầy đều
chạm địch. Tuy cánh quân do Trung tá VBN chỉ huy là
TĐ8ND vào ấp Phú Hoà trước, chỉ chạm
nhẹ, nhưng đă đóng quân đêm 16/4 tại
ấp nầy để yểm trợ cho cánh quân
của Tiểu đoàn 5 và các đại đội
Trinh sát và Công binh Dù do chính Đại tá LQL chỉ
huy, chạm súng nặng với một trung đoàn
của SĐ5/CS trong suốt ngày và đêm 16 đó
ở ấp Sóc G̣n. Địch quân tấn công vị
trí dă chiến của Dù ở Sóc G̣n nhiều đợt,
rất mạnh. Chúng xung phong biển người
với cả bộ binh và chiến xa, nhưng đều
bị Dù đẩy lui. Kết quả cuộc chạm súng
nầy các đơn vị của Đại tá LQL
đă bắn hạ 4 T-54, tịch thu 7 súng cộng đồng,
20 súng AK-47, và địch quân bỏ lại tại
trận 85 xác chết. Lực lượng Dù có 3
tử thương và 13 bị thương. Điều đáng nêu lên là cả trong
ngày và đêm 16/4 đă có hơn 20 phi tuần yểm
trợ của KQVN cho đơn vị Dù của Đại
tá LQL. Đặc biệt là trong các đêm này lần
đầu tiên ghi nhận Không Quân Chiến Thuật Hoa
kỳ đă đưa một loại vũ khí mới
diệt chiến xa địch ban đêm vô cùng hữu
hiệu gọi là “Spectre” -tức là loại máy bay
C-130 cải biến thành chiến đấu cơ, trang
bị hồng ngoại tuyến, với các loại
sensors ḍ tiếng động của động cơ và
tự động điều khiển dàn súng đại
bác 105 ly không dật, cộng thêm 18 khẩu đại
liên 50 ly, đặt ở ba vị trí khác nhau mỗi nơi
6 khẩu, và hai dàn hỏa tiễn gồm 12 ống,
tuỳ theo loại mục tiêu di động hay gây
tiếng nổ trên mặt đất nhiều ít hay
nặng nhẹ đến mức độ nào các
loại vũ khí đó sẽ tác xạ thẳng tiêu
diệt mục tiêu, chính xác trăm lần như
một, không trật. Đây là loại vũ khí vô cùng
lợi hại, bao vùng và diệt chiến xa và các
loại xe chuyên chở pháo, hay các khẩu pháo di động
của CSBV nhiều nhất trong trận chiến An
Lộc -nhất là bên ngoài thành phố. Nên ghi nhận
rằng tại An Lộc và vùng bao quanh, từ khi
chiến trận diễn ra, toàn bộ chiến xa và các
loại xe của các đơn vị pḥng thủ hoàn
toàn không c̣n nữa, chỉ c̣n một ít xe jeep không
hề được sử dụng di chuyển trong
đêm, do đó khi tiếng động cơ nổ ban
đêm th́ chỉ là chiến xa và các loại xe chở
pháo và chở quân hay tiếp liệu của quân CSBV.
Hai động cơ nổ là hai máy điện của
BTL/SĐ5BB và của BCH/Tiểu khu B́nh Long, cố định
và có tọa điểm chính xác, nên các chiến đấu
cơ Spectres, thường gọi là Hoả Long
–xuất phát từ căn cứ Không quân Hoa Kỳ
Utapao ở Thái Lan– không thể bắn nhầm vào
vị trị của các đơn vị pḥng thủ. Hàng
nhiều chục chiến xa và các loại quân xa cuả
CSBV bị Hỏa Long bắn hạ trên các trục giao
thông ngoài An Lộc ở những ngày đêm sau đó,
đă triệt mất đường tiếp vận
của chúng.Report this ad Sáng ngày 17 tháng 4, các đơn vị
Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đă hoàn toàn vào các vị
trí đă dự trù đúng theo kế hoạch của
Đại tá Lê Quang Lưỡng. Tức là ngoài
Tiểu đoàn 6 Dù và mấy pháo đội của
Tiểu đoàn 3 Dù trấn đóng trên hai ngọn
đồi 169 và đồi Gió và Srok Ton Cui, do Trung tá Lê
văn Ngọc, Lữ đoàn phó chỉ huy, toàn bộ
thành phần lớn hơn của Lữ đoàn 1
Nhảy Dù do chính Đại tá Lê Quang Lưỡng
chỉ huy, đă vào các vị trí trong thành phố như
đă dự trù. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn và
Đại đội Trinh sát đóng chung với Bộ
Chỉ huy Tiểu khu, Tiểu đoàn 5 Dù làm trừ
bị đóng gần đó. Quan trọng nhất là
Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù, do Trung tá Văn Bá Ninh
chỉ huy, chiếm trọn khu vực rộng lớn
đầu xa lộ phía nam thành phố xuống đến
gần đồn điền Xa Cam trong buổi sáng ngày
18/4. Tại khu vực nầy Tiểu đoàn đă
chạm nặng với một đơn vị của SĐ
Công trường 7 của CSBV, địch bỏ lại
hơn 40 xác chết, nhiều súng cộng đồng và
cá nhân. Sau đó TĐ8NH và Đại đội Công
binh Dù đă tu bổ dọn trống thêm quăng xa lộ
sát liền với phía nam BCH Tiểu khu, làm thành băi
đáp tạm cho các loại trực thăng và chinooks
của KLHK và KQVN. Tiểu đoàn này đă giữ sân
bay trực thăng tạm nầy an toàn suốt
những trận tấn công sau đó của lực lượng
CSBV vào thành phố. Trực thăng của KQVN và HK
đă bay lên đáp xuống khá an toàn, dù không tránh
khỏi bị pháo kích, đă đưa được
hàng trăm thương bệnh binh các đơn vị
trú pḥng ra khỏi trận địa và mang vào quân
bổ sung, thực phẩm và trang bị nhẹ vào cho các
cánh quân đó, mặc dù tiếp tế thực
phẩm khô và đạn dược hay trang bị
nặng khác vẫn do KLHK tiếp tục thả dù như
trước đó. Trước đó, trong ngày 16 tháng 4, Liên
đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù Dù, chừng dưới
năm trăm quân do Trung tá Phan văn Huấn chỉ
huy, cũng được BTTM tăng viện cho Tướng
Minh và được đưa vào An Lộc bằng
trực thăng vận và đáp ở băi đáp bên
suối Rô, gần băi đổ quân sóc Srok Ton Cui
của Lữ đoàn Dù. Cuộc đổ quân an toàn và
hoàn tất vào khoảng hơn 5 giờ chiều. Trung tá
PVH bắt tay được với Trung tá LVN, Lữ
đoàn phó Dù. Sau đó tiếp xúc âm thoại
được với Tướng Hưng và nhận
chỉ thị tiến lên hướng bắc thành
phố theo lộ tŕnh cập theo đường
rầy xe lửa. Tuy nhiên v́ trời tối nên phải
đóng quân dă ngoại đêm đó; chỉ chạm súng
nhẹ. Sáng ngày, trên lộ tŕnh nầy Trung tá PVH đă
liên lạc được với hai đại đội
của Liên đoàn 3 BĐQ đă tách rời đơn
vị mẹ trong cuộc tấn công ngày 13/4. Buổi
chiều 17/4 cả Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù
vào thành phố. Ngay tối đêm đó, từng toán
quân nhỏ thiện chiến cuả Liên đoàn tấn
công và chiếm lại một vài khu vực quân CSBV
chiếm mấy ngày trước gần khu Chợ An
Lộc. Đến hết ngày 18/4 chiến sĩ Liên
đoàn đă hoàn toàn kiểm soát khu vực được
chỉ định và bung ra hơn trăm thước
về hướng bắc. LĐ81BCND sở trường
tấn công vị trí địch quân bằng những
toán quân nhỏ cấp tiểu đội hay bán
tiểu đội như vậy. Từ ngày đó LĐ81BCND trấn
giữ vị trí quan trọng nầy ở mặt
bắc thành phố đă gặt hái những thành
quả tốt đẹp mặc dù bị tổn
thất không ít v́ pháo kích, và lập được
kỳ công ghi vào quân sử với cái nghĩa trang
nhỏ chôn chiến sĩ hi sinh tại chỗ trong khu
vực đó, có hai câu đối khắc ghi trong tâm tưởng
của mọi người –mặc dù sau chiến tranh
nghĩa trang đó không c̣n nữa– nhưng bất
cứ một quân nhân QLVNCH nào cũng c̣n nhớ: “An
Lộc địa sử ghi chiến tích. Biệt Kích Dù
vị quốc vong thân”. Trên vách tường xây
gạch quét vôi của nghĩa trang người ta c̣n
đọc được hai câu thơ cuả Vương
Hăn được ghi lại bằng chữ lớn: “Túy
ngoạ sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi” (Ảnh # 3) Nét văn
hóa trên đây là chứng tích mă thượng không riêng
của người quân nhân BKD nhưng là nét hào hùng phóng
khoáng chung của mọi chiến sĩ trong QLVNCH. Họ
chiến đấu anh dũng với chính nghĩa cao
cả là bảo vệ quần chúng với tư tưởng
bao dung, ḷng vị tha, không thù hằn khát máu như
những cán binh Bộ đội Nhân Dân CSBV, mà chúng thường
tự cho là “Bộ đội Cụ Hồ”.
Những người cầm súng “sinh bắc tử
nam” đó đă từng giết người tập
thể dă man ở Huế Tết Mậu Thân, ở
khắp mọi chiến trường mà họ mở
những cuộc tấn công với chủ trương
tiêu diệt tất cả mọi người dù là
chiến sĩ hay thường dân, người già
cả, đàn bà và trẻ con trên mục tiêu mà họ
tấn công. Nghĩa là không chừa một ai trước
họng súng của chúng. Và đó là chủ trương
của Đảng Lao Động Việt Nam. An Lộc mùa
Hè này cũng lả một điển h́nh về
sự giết chóc vô tội vạ của “Bộ
đội cụ Hồ”.Report this ad An Lộc là một thành phố của
một tỉnh, không có hệ thống pḥng thủ kiên
cố như Điện Biên Phủ, như Khe Sanh. Trong
thành phố đó nếu tính theo tỷ lệ nhân
số th́ chỉ có một quân nhân trong năm hoặc
sáu cư dân. Vậy nếu An Lộc được
bảo vệ bằng bốn, năm, hay sáu ngh́n
chiến sĩ th́ có từ hai mươi ngh́n thường
dân hay nhiều hơn. Khi trận chiến khởi
diễn, mấy ngh́n cư dân, từng đoàn, chạy
theo xa lộ về Chơn Thành, hay B́nh Dương,
bị “Bộ đội cụ Hồ” bắn
thẳng bằng súng trường AK-47 hay pháo kích pháo,
thây chết đầy đoạn đường dài
mấy cây số quăng từ đồn điền cao
su Xa Cam trở về hướng nam. Ngày đầu tiên,
khi tấn công An Lộc từ hướng đông, chúng
đă lùa hàng trăm thường dân ở Quản
Lợi làm mộc che phía trước bộ đội
của chúng tiến theo ở phía sau. Hèn nhát và vô nhân.
Chúng tôi thà chịu đựng cuộc tấn công
đó một cách khó khăn và tránh làm thiệt
hại cho thường dân, tránh không sử dụng
hỏa lực tập thể của pháo binh hay không quân.
Ngược lại cũng trong ngày nầy, chúng pháo kích
vào nhà thương tỉnh lỵ, và nhiều lần khác
trong các ngày sau, quần chúng bị thương hàng
mấy trăm người đến đó, bị
chết gần hết. Rồi thây người chết
bị chúng dập thêm pháo, tan xác, mất đầu,
cụt tay chân. Rồi đợt pháo khác nữa… thây
người biến thành những đống thịt
nhầy nhụa hay văng văi tứ tung khắp trong ngoài
bệnh viện. Đại tá Bùi Đức Điềm,
Tham mưu trưởng hành quân của Tướng Hưng
phải tự ḿnh lái xe xúc đất buldozer đào các
đường rănh sâu dài nhiều chục thước
và rộng trên ba thước rồi chiến sĩ
Đại đội 5 Trinh sát phụ chôn xác tập
thể dưới các đường rănh đó, như
nói trên. Những ngày tiếp theo chúng pháo kích liên
tục và vô cùng dữ dội, mỗi ngày hàng ngh́n
quả đạn. Chiến sĩ chết đă đành,
nhưng hàng ngh́n thường dân chết theo với
một thành phố sụp đổ gần như toàn
diện. Không một ngôi nhà nào đứng vững, không
một bức tường nào, con đường nào,
hay thân cây nào không mang dấu vết mảnh đạn
lớn nhỏ của các loại trọng pháo, đại
pháo, lớn nhỏ của bộ đội cụ
Hồ. Xin nhớ… An Lộc chỉ là một thành
phố nhỏ, không phải là một hế thống
chiến lũy, chiến hào. Đó là nơi cư trú
của thường dân không phải là nơi để
chúng dập thành b́nh địa như những công
sự chiến đấu của binh sĩ. Sự hiện diện của hai
đơn vị Dù thiện chiến nầy vào An
Lộc làm cho tinh thần binh sĩ trú pḥng của SĐ5BB,
LĐ3BĐQ và quân dân thuộc Tiểu Khu B́nh Long lên
tinh thần thấy rơ. Lực lượng pḥng thủ
đă lên đến hơn bảy ngh́n chiến sĩ.
Các đơn vị pḥng thủ lo củng cố thêm
vị trí của ḿnh, thực ra là binh sĩ trú pḥng
chỉ đào sâu thêm và rộng hơn hố chiến
đấu cá nhân để dễ bề xoay trở trường
hợp bị pháo kích mà không hề có công sự chắc
chắn nào che chở khi bị tấn công. Chính kỹ
thuật chiến đấu cá nhân, sự trông cậy
vào loại M-72, vũ khí chống chiến xa rất
hữu hiệu mới được Hoa Kỳ
đưa vào chiến trường miền Nam làm cho
binh sĩ tin tưởng cũng như niềm tin tưởng
vào sự quyết tâm của các cấp chỉ huy,
nhất là lệnh tử chiến của tướng tư
lệnh mặt trận Lê văn Hưng, nên họ
quyết tâm và dũng cảm chiến đấu. Trong
trận tấn công ngày 13/4 vừa qua họ đă thành
công bắn hạ được nhiều chiến xa
của CSBV, giữ vững được An Lộc.
Cuộc tấn công đó kéo dài đến hết ngày
17/4. Ngày 18/4, TWC/MN mở cuộc tấn công
thứ hai vào An Lộc. Chính trong ngày này các đơn
vị CSBV tấn công thành phố bị thiệt
hại nhiều nhất. Sư tăng cường
cuả những đơn vị tinh nhuệ nhứt
của QLVNCH, làm cho niềm tin cùa quân trú pḥng càng
được củng cố mạnh mẽ hơn trong
thời gian sau đó. Phải công nhận là kế
hoạch đổ quân tiếp viện Dù ở một
băi đổ quân an toàn và thiết lập một phi trường
trực thăng tạm ở khu xa lộ phía nam thành
phố An Lộc của Đại tá LQL là ưu
việt. Tải được thương binh về các
bệnh viện ở hậu cứ, nhận được
thêm quân, dù ít dù nhiều, đă làm thay đổi
cả bộ mặt chiến trường. Các đơn
vị mạnh hơn, nhẹ nhàng hơn và cơ động
hơn trong chiến đấu.Report this ad Suốt thời gian hơn 3 tuần
lễ, từ ngày 18/4 cho đến ngày 11/5 –là ngày
CSBV mở đợt tấn công thứ ba vào An
Lộc– diễn ra hai sự kiện quan trọng làm
ảnh hưởng đến uy tín và con đường
binh nghiệp của Tướng Lê văn Hưng. Hai
việc này đă nói sơ ở phần trên. Xin ghi rơ
hơn: Sự kiện thứ nhất: V́ băi
trực thăng tạm do TĐ8ND do Trung tá Văn Bá Ninh
chỉ huy thiết lập và bảo vệ hữu
hiệu, các đơn vị pḥng thủ tản thương
được, nhận thêm quân, và tiếp tế
được các nhu yếu phẩm cần thiết,
tuy với số lượng ít. Niềm tin mới
lớn dần. Vậy mà, trong khi chiến sĩ của
từng đơn vị pḥng thủ lên tinh thần và
sẵn sàng chờ một cuộc tấn công sắp
tới của CSBV, th́ một ngày vào khoảng cuối
tháng 4, 1972, một cấp chỉ huy mang cấp bậc
đại tá băng bó vết thương rất
nhẹ, đă được điều trị lành
rồi, và một thiếu tá pháo binh, cùng ra sân bay
trực thăng tạm và định leo lên một
trực thăng tản thương để mong thoát
ra khỏi An Lộc. Binh sĩ Dù của Trung tá VNB
giữ băi trực thăng thấy ông thương binh
nầy mang cấp bậc đại tá trên cổ áo, không
dám cản, nhưng báo cáo cho Trung tá Văn Bá Ninh. Ông
Ninh báo cáo ngay cho Đại tá Lê Quang Lưỡng,
Lữ đoàn trưởng. Đại tá L. ra tận nơi,
nh́n dải băng trên vai ông đại tá nọ và
hỏi ông ta ở đơn vị nào và bị thương
ra sao?.. Ông đại tá xưng tên là Mạch văn Trường,
Trung Đoàn trưởng Trung đoàn 8, SĐ5BB. Đại
tá LQL chỉ nói một câu nhẹ nhàng: -“Thương
tích nhẹ như vậy mà muốn được
tản thương hay sao?” Ông tức khắc gọi
cho Tướng Hưng tŕnh sự việc. Tôi lại
được Tướng Hưng ra lệnh đem xe
Jeep ra gặp Đại tá LQL đế “nhận
lại” ông đại tá và ông thiếu tá “thương
binh” trở về Bộ TLHQ/SĐ. Lẽ dĩ nhiên ông
đại tá và ông thiếu tá nầy bị Tướng
Hưng xát muối. Th́ ra Đại tá MVT trước
đó một hôm bị Tướng Hưng ra lệnh
cho về chỉ huy lại đơn vị của ḿnh
sau khi nằm hơn tuần lễ trong căn hầm
của tư lệnh chỉ với vết thương
nhẹ trên vai. Ai ngờ bị “lạnh cẳng” v́
những trận pháo dồn dập của quân CSBV khi
trở lại đơn vị, ông ta ra sân trực thăng
định “chuồn” về hậu cứ… Và v́
“việc phải làm” này, Tướng Hưng đă
chạm vào con gà cưng của tướng Tư
lệnh Quân Đoàn. Đó là lần thứ nhất.
Việc “giả thương binh định chuồn
về hậu cứ” này chẳng những tôi biết
mà c̣n rất nhiều người biết. Nhưng người
biết rơ nhất có lẽ là Đại tá VBN,
Tiểu đoàn trưởng TĐ8ND lúc đó; hiên nay
ông đang sống tại Hoa Kỳ. Sau nầy, c̣n
một chuyện quan trọng hơn cũng liên quan
tới “con gà đó” nên Tướng Hưng bị Tướng
Nguyễn văn Minh dáng cho những đ̣n nặng chí
tử ảnh hưởng lâu dài đến binh
nghiệp của Ông. Sự kiện thứ hai: Như tôi tŕnh
bày ở phần trên, chỉ xin ghi thêm cho rơ hơn.
Từ ngày 7/4 sau khi BTL Hành Quân của SĐ chuyển
sang hầm ngầm ở khu đất trống cạnh
building Toà Hành Chánh Tỉnh, Tướng Hưng chưa
hề ở trong căn hầm ngầm đành riêng cho tư
lệnh cho đến tuần lễ cuối cùng của
tháng 4/1972. Nơi đó có một chiếc giường
sắt, một tủ lạnh, một chiếc bàn
nhỏ và một ghế ngồi, v́ suốt buổi
chiều và đêm 7/4, Ông cùng Đại tá Miller
bận họp bàn kế hoạch hành quân ở
chiếc bàn thấp nhỏ đặt giữa hai
chiếc ghế bố của hai vị nầy mà, bên
cạnh ghế bố của Đại tá Miller là hai
chiếc ghế bố của hai sĩ quan cố vấn
cấp tá, mộ̣t của Trung tá Ed Benedit, phụ tá
cho Miller, một của Thiếu tá Alan Borsdorf, phụ tránh
hành quân của toán cố vấn. Nếu từ trên
mặt đất bước xuống mươi
bậc, nh́n vào vách hầm đối diện là
thấy ngay, nghĩa là ở khu chính của hầm.
Từ cửa hầm bước chừng năm sáu bước
sang phía trái là chiếc bàn dài đặt hệ
thống máy truyền tin. V́ vậy có thể gọi khu
nầy là Trung tâm Hành Quân của BCH/HQ/SĐ. Từ
cửa hầm, nếu theo địa đạo đi
về phía phải, chừng hai mươi bước, là
căn hầm của tư lệnh. Từ ngày 8/4, khi
Đại tá MVT, Trung đoàn trưởng Trung đoàn
8 bị vết thương ở vai, Tướng Hưng
đă nhường căn hầm riêng này cho ông này
nằm điều trị và dưỡng thương trước
trận tấn công thứ nhất cuả quân CSBV (trước
ngày 13/4) cho đến tuần lễ cuối của tháng
4 đó. Tại chiếc bàn nhỏ giữa hai chiếc
ghế bố của hai giởi chức quan trọng
nhất ở An Lộc là Tướng Tư lệnh
Chiến trường Lê văn Hưng và Đại tá
Cố vấn trưởng William Miller đă xảy ra
nhiều trận căi vả to tiếng giữa hai mgười,
như đă nói.Report this ad Lư do chính là v́ Đại tá Miller
thấy An Lộc được tăng cường
Lữ đoàn 1 ND và Liên đoàn 81 BCKD, nên đưa ra
kế hoạch tái chiếm lại phần thành phố
trong khu vực thương măi phía bắc An Lộc và Sân
bay Đồng Long –đă bị các đơn vị
của CSBV chiếm trong đợt tấn công đầu
tiên của chúng từ ngày 13 đến ngày 18 tháng 4.
Nếu có một cuộc phản công như vậy ông
(Đại tá Miller) sẽ yêu cầu Không Quân Chiến
Lược và Không Quân Chiến Thuật lập kế
hoạch không yểm tối đa cho Tướng Hưng.
Ông ta yêu cầu nên sử dụng Lữ đoàn 1
Nhảy Dù, Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Liên
đoàn 3 BĐQ làm nỗ lực tấn công chính,
những đơn vị c̣n lại sẵn sàng ứng
chiến tại chỗ. Ông ta ước tính là lực
lượng pḥng thủ của Tướng Hưng có
thể điều động được chừng
3,000 quân cho kế hoạch phản công tái chiếm
phần thành phố bị mất đó, mà ông cho sân
bay Đồng Long là quan trọng cho việc tiếp
tế và tải thương hơn là hàng ngày phải
tiếp tế bằng thả dù của Không lực Hoa
Kỳ. Ông cũng cho rằng các loại trực thăng
KQVN hay Hoa Kỳ đáp vào băi đáp tạm do TĐ8ND
ở đầu xa lộ là rất nguy hiểm. Đề
nghị nầy của Đại tá Cố vấn Miller
có vẻ hợp lư nhưng chưa đúng lúc. Theo lời khai của tù binh, là một sĩ
quan CSBV bị TĐ 3/7 bắt được trong
trận tấn công vào An Lộc lần thứ nhất
ngày 17/4 và lời khai của một sĩ quan CSBV
hồi chánh khác, cho biết là Trung đoàn 271 của SĐ-9/CS
gần như hoàn toàn bị B-52 tiêu diệt ở
ấp Phú Lố và ấp Phú B́nh mấy ngày trước
nên nỗ lực chính của Sư đoàn nầy coi như
thất bại ở hướng tây bắc, mặc dù
hướng đông bắc Trung đoàn 272 của chúng
chiếm được sân bay Đồng Long và mấy
khu phố phía bắc An Lộc. Tuy nhiên cuộc tấn
công lần thứ nhất nầy của CSBV vào An
Lộc được TWC/MN ghi nhận là thất
bại. Các tù binh nầy cho rằng TWC/MN đă
chuẩn bị một trận tấn công lớn khác vào
An Lộc và lần nầy nỗ lực chính sẽ do SĐ-5/CS
đảm trách ở hướng đông bắc. Hướng
tây và tây nam do SĐ-9/CS đảm nhận, nhưng
chỉ là nổ lực phụ. Các đơn vị
chiến xa, pháo binh, pḥng không và đặc công cấp
trung đoàn sẽ tăng cường cho hai đơn
vị lớn nói trên. Hồi chánh viên này cũng cho
rằng SĐ-7/CSBV sẽ tăng cường từ phía
nam lên cho SĐ-5/CS một trung đoàn nguyên vẹn
để tấn công ở mặt đông nam An Lộc
v́ nơi nầy đă có sư hiện diện của
quân Nhảy Dù. Trước những tin tức và t́nh
huống trận chiến có thể diễn ra lớn lao
được ước tính là nguy hiểm như
vậy, Tướng Hưng tất nhiên phải rất
dè dặt và v́ vậy nên sinh ra cuộc căi vả
dữ dội về quan niệm chiến thuật
giữa ông và Đại tá Cố vấn Miller, kéo dài
cả nhiều ngày liền, ngay cả khi trận
tấn công lần hai của CSBV (18-21/4) vừa chấm
dứt. Thấy t́nh trạng khá gay cấn nên có
một đêm tôi vào căn hầm riêng và hỏi
chuyện Tướng Hưng. Ông Hưng nói với tôi
rằng ông coi Miller như một chiến sĩ ưu tú
nhưng không đủ hiểu biết về chiến
tranh Việt Nam. Ông chỉ cần Miller v́ cần sự
trợ chiến về không yểm và tiếp tế
của Lực lượng Không Quân Chiến lược
và Chiến Thuật Hoa Kỳ mà không cần đến
quan điểm chiến thuật của ông Miller. Tướng
Hưng nói với Miller rằng, nếu trận tấn công
khác diễn ra th́ lực lượng CSBV mà TWC/MN sử
dụng sẽ lên đến hơn 20,000 quân, hay hơn
nữa, các loại bộ, pháo, các đơn vị
đặc biệt khác, và chiến xa… tổng cộng
lực lượng đó sẽ lên đến hơn ba
sư đoàn… Giả thử nếu ngay lúc đó mà
đề nghị phản công để chiếm
lại mặt bắc thành phố và sân bay Đồng
Long của Đại tá Miller được thực
hiện th́ tổn thất của các cánh quân phản công
sẽ rất lớn. Và, nếu chiếm lại
được các khu vực bị mất trước
đó th́ lực lượng bạn sẽ phải phân
tán để giữ các vị trí vừa tái chiếm,
hệ thống pḥng thủ sẽ mỏng hơn v́ không
đủ quân. Hiện tại trong thành phố An
Lộc quân pḥng thủ chỉ chừng 7,000 người
có thể tác chiến được. Một kế
hoạch phản công tái chiếm các khu bị mất có
thể thành công tạm bợ nhưng An Lộc sẽ
bị tiêu diệt trong trận tấn công dữ
dội hơn của CSBV. V́ ngay trong tuần lễ khi An
Lộc được tăng cường hai đơn
vị Dù th́ t́nh h́nh ở khu vực phía đông nam An
Lộc trở nên vô cùng sôi động.Report this ad Trong trận tấn công An Lộc lần
thứ hai, bắt đầu từ ngày 18/4, CSBV đă
dội trọng pháo mỗi ngày hơn một ngh́n
quả pháo vào các đơn vị pḥng thủ An
Lộc và đạn nổ tập trung nhiều nhất
là các khu đóng quân của các đơn vị
thuộc TĐ6ND, nhất là hai ngọn Đồi Gió,
Đồi 169 và ấp Srok Ton Cui. TĐ5ND đóng ở
đông nam, cách BCH/Tiểu khu một cây số, cũng
bị pháo kích và tấn công dữ dội. SĐ-7/CSBV,
mặc dù vẫn “đóng chốt” chặt chẽ
ở khu vực Suối Tàu-Ô, nhưng vẫn nhận
được lệnh cuả TWC/MN đưa bớt
Trung đoàn 141 về vùng đông nam An Lộc để
gây áp lực mạnh cho cánh quân Dù của Đại tá
LQL ở khu vực cao điềm nầy. Điều làm
cho Tướng Hưng quan tâm hơn là tin tức
của Đại Đội Kỹ Thuật/SĐ ghi
nhận hai Trung đoàn F-6 và 275 của SĐ-5/CS sau khi
bổ sung quân ở vùng Trị Tâm đă quay lại
chiến trường An Lộc và hiện diện trong
khu trọng yếu đó, chưa kể Trung đoàn
Đặc công 469 và hai Trung đoàn 208 Trọng pháo và
271 Pḥng không của SĐ70 Pháo/TUW/MN cũng từ vùng
đồn điền Quản Lợi kéo xuống các
ấp Sóc Trào, Hương Thanh hướng đông
bắc Đồi Gió chừng 6 đến 8 cây số.
SĐ-5/CS vẫn giữ Trung đoàn 174, tức
đơn vị cấp trung đoàn thứ ba của chúng
ở vùng đồn điền và sân bay Quản
Lợi, h́nh như để làm lực lượng pḥng
ngừa một cuộc đổ quân bất ngờ
của QLVNCH tái chiếm sân bay quan trọng nhất này
của B́nh Long, chỉ cách An Lộc chừng 5 hay 6 cây
số ở phía đông. Trước tin tức về
cuộc tập trung quân CSBV lớn ở đông và
đông nam An Lộc, cộng thêm những yếu tố
khác nói ở trên, dĩ nhiên Tướng Hưng không
thể chấp thuận kế hoạch tái chiếm các
khu phố phía bắc tỉnh lỵ và sân bay Đồng
Long của Đại tá William Miller. CSBV tập trung
lực lượng lớn ở khu vực nầy rơ ràng
là chúng có ư định tấn công và tiêu diệt
đơn vị Nhảy Dù thiện chiến nầy
của QLVNCH trước, hoặc trong trận đánh
quyết định. Cuộc căi nhau “về chiến
thuật” này đă tăng thêm sự rạn vỡ
giữa hai cấp chỉ huy cao cấp nầy ở
mặt trận An Lộc. Dĩ nhiên, Tướng Hưng
đă báo cáo đầy đủ lên Tướng Minh.
Về phần Đại tá Miller có lẽ cũng
vậy. Sư ghét bỏ Tướng Hưng của
Đại tá Miller dù muốn che đậy qua vẻ
lịch sự thường nhật của người
phương Tây, nhưng ông đă không tự kềm
chế được lúc đó –và sau nầy
nữa– khi về lại Hoa Kỳ, Miller đă tạo
nên một luồng dư luận lớn tấn công vào
uy tín của Tướng Hưng và Bộ Tham mưu Hành
Quân cuả SĐ5BB là bất lực, thụ động,
không làm được việc ǵ, “kể cả công
việc tham mưu hành quân hoàn toàn do toán cố vấn
Hoa Kỳ của ông ta đảm trách suốt trận
đánh An Lộc.” Ông ta c̣n cung cấp tài liệu
thiếu chính xác mà nhiều bịa đặt nói trên
cho Trung úy James H. Willbanks, trong toán cố vấn của
Chiến đoàn 52 của SĐ18BB tăng phái, mà, sau này
về Mỹ đi học lại, đă dựa vào
để viết, tŕnh, luận án Tiến sĩ (sau
đó in thành sách với tựa đề “The Battle of
AnLoc”, Indiana University Press, 2005), như nói phần trên. Tài
liệu này của Willbanks và các cuộc hội thảo
khác về Trận An Lộc của Đại tá William
Miller đă biếm nhẽ và hạ thấp uy tín
của Tướng Lê văn Hưng đến mức
cao nhất trong Quân lực Hoa Kỳ. Trở lại
thời điểm đó, nh́n rơ cục diện
chiến trường mới thấy rằng sự
hiểu biết của William Miller là nông cạn, đúng
như Tướng Hưng nhận xét. Ngày 19/4, ngày thứ nh́ TWC/MN tấn công
An Lộc lần hai, CSBV pháo kích dữ dội vào thành
phố, vào vị trí đóng quân của các đơn
vị Dù, nhất là vị trí của TĐ6ND và TĐ3
Pháo binh Dù ở Đồi 169, Đồi Gíó và Srok Ton
Cui. Ngay trong đêm đó, 6 khẩu đại bác 105ly
của TĐ3 Pháo Dù bị pháo CSBV dập nát không
sử dụng được nữa và kho đạn
trọng pháo trên Đồi Gió, hơn 1,000 quả đạn,
cũng bị nổ tung. Sáng ngày 20/4, toàn khu vực
đông nam này bị uy hiếp trầm trọng bởi
hai trung đoàn CSBV, Trung đoàn 275 của SĐ-5/CS và
Trung đoàn 141 của SĐ-7/CSBV phối hợp với
chiến xa. Đồi Gió bị tấn công ác liệt
nhất trong đêm đó sau nhiều đợt pháo
gần như san bằng ngọn đồi cao 150m
nầy, tiếp theo là những đợt tấn công
biển người với bộ binh và chiến xa.
Mặc dù chiến sĩ TĐ6ND trên đồi đă
chống trả mănh liệt, hạ 2 trong 4 chiến xa, và
đẩy lui nhiều đợt xung kích, nhưng đến
gần sáng th́ bị tràn ngập. Thiếu tá Phạm
Kim Bằng, Tiếu đoàn phó và số quân Dù c̣n
lại đă tập trung về được với
Bộ Chỉ huy nhẹ của Trung tá Lê văn
Ngọc, Lữ đoàn phó, trên Đồi 169. Một cánh
quân khác của TĐ6ND, gồm hơn hai đại
đội do Trung tá Nguyễn văn Đỉnh chỉ
huy ở Srok Ton Cui cũng bị tấn công dữ
dội, phải đánh mở đường máu rút
về hướng đông nam trên hữu ngạn Sông Bé.
Sau nhiều lần bị phục kích và tấn công trên
lộ tŕnh rút lui, nhiều toán binh sĩ của cánh quân
này thất lạc, tuy nhiên Trung tá NVĐ vẫn giữ
được liên lạc với Bộ Chỉ huy
Lữ đoàn, nên buổi chiều ngày 21/4 được
trực thăng bốc về Lai Khê. Chỉ c̣n hơn
một trăm chiến sĩ phần lớn đều
bị thương tích. Các ngày kế tiếp một
số chiến sĩ của Tiểu đoàn thất
lạc cũng t́m về được với các
đơn vị bạn thuộc SĐ21BB vùng phía
bắc Chơn Thành. Tổn thất của TĐ6ND
rất nặng. Bị mất hơn một nửa quân
số tham chiến, trên hai trăm người chết và
mất tích, với hàng trăm thương binh. TĐ 3
Pháo binh Dù mất toàn bộ các khẩu pháo binh dă
chiến, tổn thất lớn về quân số. Cũng
trong đêm 20 rạng sáng 21/4, dưới áp lực quá
nặng nề của hơn hai trung đoàn quân CSBV, cánh
quân của Trung tá LVN trên Đồi 169, chỉ c̣n
chừng 150 người, kể cả chiến sĩ
của TĐ6ND, cũng được lệnh bỏ
ngọn đồi nầy rút vào An Lộc theo lộ tŕnh
của TĐ8ND mấy ngày trước, và tập trung
lại với Bộ Chỉ huy Lữ đoàn pḥng
thủ mặt đông nam thành phố.Report this ad Như vậy, cả khu vực cao điểm
đông nam An Lộc lại hoàn toàn bị quân CSBV
kiểm soát. Tuy nhiên chúng cũng không đủ
mạnh để có thể đánh bật được
toàn bộ Lữ đoàn Dù ra khỏi khu xa lộ phía
nam Tiểu khu. Dưới sự chỉ huy sáng suốt
và nhiều kinh nghiệm trận mạc của Đại
tá LQL và cấp chỉ huy tài giỏi như các Trung tá
LVN, VBN và NCH, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vẫn bảo
vệ được sân trực thăng xa lộ và các
loại trực thăng và Chinook Hoa Kỳ và KQVN
tiếp tế và tải thương cho các đơn
vị pḥng thù cho đến ngày trận chiến An
Lộc chấm dứt. Thế nhưng nếu rút quân
Nhảy Dù đi khỏi khu vực đó hợp lực
với một số đơn vị khác mà mở
cuộc phản công chiếm lại phía bắc thành
phố và sân bay Đồng Long như chủ trương
của Đại tá Cố vấn William Miller là thứ
chiến thuật không tưởng, hạng bét. Vậy
mà không hiểu tại sao Đại tá Miller không
hiểu rơ t́nh thế lúc đó vẫn tiếp tục
thôi thúc và căi với Tướng Hưng về
việc này cho măi đến cuối tháng 4/ 1972. Về
câu chuyện thôi thúc phản công chiếm lại phía
bắc thành phố Willbanks ghi lại ở trang 112 trong
quyển sách nói trên của ông như sau “Colonel Miller
had once again frustrated with General Hung. After the jubilation of
blunting the attack on 19-20 April had failed, Miller urged Hung to put his
troops on the offensive te retake the northern part of the city. However, no
amount of pleading was able to force Hung to give such an order”. Không biết khi viết luận án
Tiến sĩ Willbanks có biết trong ngày 19-20 Aprilquân
CSBV tấn công dữ dội TĐ6NDở Đồi Gió
và Srok Ton Cui và ngày 20 April hai nơi nầy bị tràn
ngập đưa đến việc làm cho tiểu
đoàn này và mấy đại đội pháo binh Dù
tan ră… sau khi đánh mở đường máu rút
về căn cứ Tiểu khu và trên bờ Sông Bé
rồi cả vùng cao điểm đông nam An Lộc
đă bị địch quân tái chiếm hay không mà
viết những câu vô lư như ghi trên. Ông ta có
biết chăng Tướng Hưng đang chịu
sức ép rất lớn của địch quân lúc
đó ở mặt đông nam này và Lữ đoàn 1
Nhảy Dù đă mất gần 1/3 lực lượng
trong hai ngày đó hay không? Nếu biết tại sao ông
không nêu lên? Hay v́ ông ta muốn bênh vực cho quan điểm
chiến thuậ̣t của Đại tá Miller mà quên,
hay bỏ qua, sự kiện vô cùng quan trọng nói trên.
Hoặc giả ông ta biết và mặc dù khi trở
vể Hoa Kỳ thăng đến cấp tá và có
bằng cấp cao nhưng vẫn chưa lột hết
cái dốt về chiến thuật của một trung uư,
cấp trung đội trưởng, c̣n quá ngu ngơ
về trận mạc nên đă tâng bốc quan điểm
hạ đẳng của một sĩ quan cấp tá
“sorti-du-rang” như Miller, không biết ǵ về
chiến tranh Viêt Nam? Luận điểm sau nầy có
lẽ đúng hơn. Trở lại thời điểm đó,
một đêm vào cuối tháng 4/1972, vào khoảng
gần giữa khuya, khi tôi đang ngồi ở
chiếc bàn trực hành quân vuông –thay thế chiếc
bàn thấp cũ– th́ Đại tá Miller đến
gặp tôi và nói với tôi là ông cần gặp Tướng
Hưng –lúc đó đă vào ở trong căn hầm riêng
của tư lệnh, sau khi Đại tá MVT bị
đưa về đơn vi. Ông nói với tôi là ông
sẽ gởi điện xin TRAC (Third Regional Assistance
Command – Bộ Tư lệnh Yểm Trợ Vùng 3
Chiến Thuật) “rescue” toán cố vấn sư
đoàn –division combat assistance team– ra khỏi An Lộc.
Ông ta trao cho tôi xem bút tự của ông viết trên
mẫu giấy công điện hành quân màu vàng. Tôi
đọc xong bản văn ngắn đó –mà ngày nay
tôi không c̣n nhớ rơ chi tiết từng chữ– và
chỉ hỏi ông một câu rất ngắn: -“Đại
tá có chút cảm t́nh nào với các chiến sĩ
của sư đoàn này hay không? Ông ta trả lời
rằng: –“Có, lúc nào tôi cũng có và tôi quí
trọng họ, nhưng tôi phải ra đi…” Tôi yêu
cầu Đại tá Miller ngồi chờ và đi vào
hầm tư lệnh với bản điện văn
của ông ta. Tướng Hưng cười nhưng không
dấu được nỗi tức giận:
–“Cứ để cho hắn đi.” Tôi nói: –“Không
được, anh phải ra gặp hắn.” Tôi đến
tủ lạnh, cắt mấy khoanh chả lụa để
vào một cái dĩa và mang mấy chai bia ra hầm hành
quân đặt trên bàn trực hành quân. Tôi nói với
Đại tá Miller là Tướng Hưng sẽ ra ngay,
rồi bỏ về chỗ nằm của tôi (nếu ngày
nay Đại tá Miller có đọc được
những ǵ tôi viết trên đây, hẳn sẽ
nhớ rơ việc nầy và sẽ nhớ lại tôi là
ai). Chỉ mấy phút sau Tướng Hưng từ
hầm riêng bước ra, quân phục tác chiến
chỉnh tề, với ngôi sao tướng màu đen thêu
trên bâu áo. Ông cười bắt tay Đại tá Miller
và hai người ngồi vào bàn, nói chuyện thản
nhiên như không có chuyện quan trọng xảy ra.
Họ nói với nhau những ǵ không ai dám đến
gần nghe, nhưng rơ ràng là không căi nhau như
những ngày trước…Report this ad Sau đêm đó, từ sáng ngày hôm sau,
Pḥng 3 và Pḥng 2 của Bộ Tư lệnh Hành quân không
nhận được một chỉ thị nào của
Tướng Hưng để thiết lập kế
hoạch hành quân giải toả các phu phố mặt
bắc thành phố vào sân bay Đồng Long. Chỉ
biết là trong khu vực tránh nhiệm của Liên đoàn
81 Biệt Cách Nhảy Dù, các đơn vị của
Trung tá Phan văn Huấn, với lối đánh trong
đêm tối đặc biệt đă tiệm tiến
chiếm lại được từng căn phố,
từng dăy phố, tiêu diệt từng nhóm nhỏ
của địch, nên khu vực pḥng thủ đă
nới rộng lần lên phía bắc thành phố. Hàng
đêm, Hoả Long của Không lực Hoa Kỳ vẫn
tiếp tục bao vùng trên toàn thành phố và các khu
vực ngoại vi, bắn thêm nhiều chiến xa và quân
xa của CSBV. Ngược lại, hằng ngày và
hằng đêm, tiếng đạn đại pháo địch
vẫn tiếp tục rít lên nổ ầm ầm không
dứt trên mọi tuyến pḥng thủ, gây tổn
thất không ít cho các đơn vị và cư dân. Lượng
đạn chúng “dập” vào thành phố không dưới
1,000 quả mỗi ngày đêm. Mọi người đều
biết rằng ḿnh đang mong đợi những cánh
quân bạn từ phía nam lên, biết rằng một
trận tấn công lớn khác sắp diễn ra, và cũng
biết rằng tính mạng của ḿnh treo trên
những sợi chỉ mành v́ bất cứ một
mảnh đạn pháo vô t́nh nào, một viên đạn
bắn thẳng nào, hay… kể cả những cánh dù
tiếp tế, không bung kịp, từ trên trời rơi
xuống vùi lấp cả chiếc hầm cá nhân
lẫn những con người…trong đó. Họ
biết thân phận ḿnh như những chàng… Kinh Kha…
đang chờ Cao Tiệm Ly trên bờ Dịch Thủy.
Vậy mà họ vẫn giữ trong ḷng niềm tin mănh
liệt là họ sẵn sàng chết để tử
thủ An Lộc như lời tuyên bố của vị
tư lệnh chiến trường. Chỉ cần
vị tư lệnh chịu chết theo thành th́ họ
cũng sẽ chịu chết để giữ thành. Người
ngoại quốc làm sao hiểu được thứ tâm
lư của binh sĩ ở chiến trường Việt
Nam!.. Ngược lại họ đă viết nhiều
điều sai sự thực. V́ vậy, nên sau nầy có
nhiều người có lương tâm đă xin lỗi
về những ǵ ḿnh viết hay nói về Viêt Nam trước
đó. Những vị nầy là những người có
lương tri… Một ngày đầu tháng 5/1972, tôi không
nhớ rơ, một chiếc dù tiếp tế không
kịp mở, đă rơi đúng vào căn nhà ngói,
trần dầy, tường béton-armé, nền gạch
cao… của Pḥng 2/ Hành quân, nơi làm việc tôi và
gần hai mươi sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ,
làm cho nóc nhà sập, và chiếc dù với khối
tiếp tế khổng lồ khoét một hố sâu trên
4m dưới nền nhà, nhưng nhà không sập, tường
không đổ, chỉ mất nóc và trần nhà…(Ảnh
# 5) và cũng không ai bị đè chết v́ lúc đó
tôi đang ở dưới hầm hành quân với hai
đại úy của tôi phụ tránh “nhật kư hành
quân”, c̣n các sĩ quan và nhân viên khác đều
nằm ở hố cá nhân ngoài tuyến. Chiếc
hầm bất đắc dĩ nầy mà sau đó
vẫn hữu dụng –thành nơi sinh hoạt an toàn
của chúng tôi. Chừng hơn một tuần hay mươi
ngày sau, khi tôi vừa ăn xong bữa trưa gạo
xấy và mấy hộp thịt ration với anh em ở
trong cái hầm đó định bước lên để
trở lại hầm hành quân th́ thấy một đại
tá Hoa Kỳ đứng cạnh Đại tá Bùi Đức
Điềm, Tham mưu trưởng Hành quân của Tướng
Hưng bên ngoài cửa… nh́n vào chiếc hầm. Tôi bước
lên hầm chào. Ông bắt tay tôi và cho biết là ông
mới đến thay thế Đại tá Miller và
muốn gặp tôi để biết thêm về địch
t́nh và cung từ của người tù binh mới
bị bắt mấy ngày trước. Tôi tiếp ông
ở trong hầm hành quân chừng mười phút.
Đó là một ngày mà chúng tôi đang chuẩn bị
đón đợi một đợt tấn công mới
của quân CSBV vào An Lộc tháng 5/1972. Ông cố
vấn trưởng Hoa Kỳ mới của Tướng
Lê văn Hưng là Đại tá Walter F. Ulmer. Ông ngoài
bốn mươi, không phải dạng cao lớn nhưng
tầm thước, khỏe mạnh, đẹp người.
Trông ông có vẻ trầm tĩnh đặc biệt,
rất ít nói và rất hiểu biết. Như vậy là
Đại tá Miller đă âm thầm rời Bộ Tư
lệnh Hành quân của SĐ5BB ở An Lộc trong
đêm trước đó. Các sĩ quan phụ tá
của ông vẫn c̣n ở lại làm việc với
Đại tá Ulmer. Ông cố
vấn mới và ông tư lệnh cũ của sư
đoàn hoạt động với nhau h́nh như thích
hợp. Sự yểm trợ hành quân của Không
lực Hoa Kỳ nhanh chóng và hữu hiệu trong
trận đánh nhau dữ dội hơn sau đó. C̣n
Đại tá Miller, tôi không biết thuyên chuyển
đi đâu. Giả thử lúc đó ông có gửi
bản văn của công điện xin “rescue” toán
cố vấn Hoa Kỳ ra khỏi An Lộc –mà ông cho tôi
và Tướng Hưng xem– th́ thượng cấp
của ông cũng làm đến mức là chỉ
“bốc” riêng ông đi khỏi chiến trường
nầy mà thôi. Làm
sao mà Washington bỏ An Lộc được trong
thời điểm đó? Ông tướng Hoa Kỳ nào
ở Việt Nam lúc đó dám làm cái việc dại
dột mà Miller đă xin làm: “bốc toán cố
vấn sư đoàn ra khỏi chiến trường An
Lộc”? Dĩ nhiên chỉ có chính Miller bị
thiệt tḥi mà thôi. Trước trận An Lộc, chúng
tôi được biết là ông sẽ được
bổ nhậm làm tư lệnh một lữ đoàn,
tức là có khả năng thăng cấp tướng.
Nhưng từ khi về HK cho đến sau này giải
ngũ ông vẫn mang cấp đại tá, mặc dù
nghe đâu đă được nhận chức vụ
chỉ huy dự trù. Có lẽ v́ vậy nên nỗi
hận Tướng Lê văn Hưng của Đại tá
Miller dâng cao ngùn ngụt… Tuy nhiên có điều đáng
mừng cho ông là đă có một người con
tốt nghiệp ở một trường vơ bị danh
tiếng Hoa Kỳ, sau này đánh nhau nổi tiếng
ở chiến trường Irac và thăng đến
cấp tướng ba sao (lieutenant general). Đó là
niềm an ủi lớn nhất của ông. Trong khi đó
người bị thiệt tḥi nhiều nhất là Tướng
Lê văn Hưng bởi cả hai sự việc vừa
kể trên. Văn Nguyên Dưỡng |