Trở về trên chuyến tài Việt Nam Thương Tín Nguyễn
Ngọc Dung |
Mùa
Xuân đang về, thời tiết lư tưởng,
với chồi non, nụ thắm... dễ làm người
ta yêu đời hơn. Ngày
dài hơn, nắng vàng của những ngày đầu
mùa Xuân làm cho tôi ngồi vào bàn, viết lại
một quăng thời gian đầy biến động
và thay đổi cho cả gia đ́nh ḿnh. Một công
việc đă âm ỉ trong ḷng, chưa được
viết ra, như một gửi gấm đến các
con cháu ḿnh những ǵ đến với cuộc đời
của tôi, và phần nào muốn chia sẻ với các
bạn, như một lời tâm t́nh của một thành
viên bé nhỏ trong cái tập thể “vợ những
người tù cải tạo” quanh đây.
30
Tháng Tư, 1975, lịch sử Việt Nam sang một
trang mới. Tôi lấy chồng trong những ngày
cuộc chiến cao độ (1970), chàng là một người
lính Hải Quân, nay đây mai đó, lúc ở căn
cứ hải quân măi tận Phú Quốc, lúc đi tàu
biển, rồi có khi về ngay bộ tư lệnh
Hải Quân Sài G̣n và đơn vị cuối cùng, là
giang đoàn ở Đồng Tâm, Mỹ Tho. Tôi
đi học, đi làm và không theo chân anh đi các vùng
xa xôi như thế. Ngày 27 Tháng Tư, 1975, anh về thăm
tôi 1 chút rồi trở về Long An, lúc đó là nơi
anh được huy động về tiếp tay
với các bạn giữ vùng 4 sông ng̣i. Anh và tôi xa
nhau, gặp nhau như chuyện thường ngày
của các gia đ́nh quân đội - nhất là
hải quân - trong thời chiến, nào có biết
rằng cũng là lần cuối gặp nhau mang h́nh
ảnh anh trong bộ quần áo tác chiến hải quân. Chúng
tôi mất liên lạc từ đó, vài ngày sau,
với lời tuyên bố đầu hàng sáng 30 Tháng Tư,
1975, tôi biết cuộc đời ḿnh sẽ có
những thay đổi rất lớn, mà chẳng
biết nó sẽ như thế nào. Tôi chờ anh
trở về Sài G̣n, chờ anh về nhà, tuy biết
là không thể trở về với chiếc tàu, để
đón gia đ́nh hai bên và tôi. Về sau này, tôi
mới biết, giang đoàn của anh được
biệt phái từ Đồng Tâm, tới Nhà Bè,
rồi về Long An, nằm trong Lực Lượng
Đặc Nhiệm 99, gồm rất nhiều tàu bè,
một mũi nhọn xung kích mạnh mẽ nhất
của Hải Quân miền Nam lúc bấy giờ. Lực
Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành
lập để bảo vệ an ninh thủy tŕnh sông
Soài Rạp và sông Ḷng Tào, và bảo vệ chính
phủ rút về miền Tây, khi t́nh thế xấu. Bến
Bạch Đằng quen thuộc, gần nhà bố
mẹ tôi, nay đă chẳng c̣n một chiếc tàu nào
mang lá cờ xưa. Chiều
tối hôm 29 Tháng Tư, 1975, tôi cùng đoàn người
gần nhà ra bến Bạch Đằng, mong có một
cơ may nào lên được sà lan, tàu buôn hay
cả ghe nhỏ để cứ đi vào một
bến bờ vô định. Đi như trong giấc
ngủ vật vờ, đêm xuống, bờ sông
hỗn loạn, hàng kẽm gai kéo ngang, họng súng
gờm sẵn sàng nhả đạn. Tên anh cũng
chẳng ích ǵ trong việc xin 1 chỗ cho ḿnh tôi lên
tàu hải quân, ai thoát được, cứ lạnh
lùng bỏ đi. Thôi
rồi, số phận ḿnh ra sao, anh ở đâu và có
an toàn?
Ngày
qua ngày, qua lời 1 anh lính cận kề với anh
ở giang đoàn, anh ta về nhà nhưng không
muốn gặp mặt tôi, tôi biết anh đă
dẫn đoàn ghe ra cửa biển, đón tàu khác
để di tản. Tôi
vẫn phải đi làm, sáng ra phải dự các
buổi gọi là “giao ban,” gặp tất cả các
bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ và ban quân
quản bệnh viện. Không khí căm thù bàng
bạc suốt buổi, nhiều đe dọa, chúng tôi
chỉ biết nh́n nhau, im lặng, v́ quanh ḿnh
chẳng biết ai là bạn ai là thù. Bên
cạnh đó, những buổi học tập tại
chỗ, những bài tự khai thật nặng nề,
những câu hỏi mơ hồ khiến câu trả
lời nào của chúng tôi cũng không thỏa măn
được họ. Nhất là với tôi, khi tôi
khai ông chồng tôi...mất tích... Th́ đúng là
mất tích chứ sao bây giờ, khi Tháng Năm, Sáu,
Bảy, Tám 1975 không biết anh ở đâu. Họ
đâu có chịu cho tôi yên với hai chữ mất tích
kia, cái mất tích hàm nhiều ư nghĩa...có thể là
đă chết, di tản, vô bưng hoạt động
chống lại họ, hay trốn ở đâu. Họ
bắt tôi lên họp, chỉ một với một,
họ hạch hỏi quanh chữ “mất tích.” Tôi
cũng hoang mang lắm, không biết anh sống
chết thế nào. Bức
màn sắt đă trùm xuống toàn miền Nam, toàn vùng
chỉ là đêm đen giữa ban ngày. Chỉ có
một đường radio VOA, BBC để biết
tin nước ngoài, được nghe trong sự
trốn tránh che giấu. Sáng đi làm, nh́n những lá
cờ đỏ trên đường, rùng ḿnh như màu
máu đang rút dần ra khỏi cơ thể tôi,
ngủ dậy mới thấy đă qua được
1 ngày yên ấm, chưa bị bắt như các người
lớn trong bệnh viện, nay ông bác sĩ bệnh
viện trưởng, mai ông phụ tá hành chánh,
mốt ông điều dưỡng trưởng. Không
khí trong bệnh viện đầy đe dọa, ḍ xét,
ngay cả hộp đồ ăn trưa cũng
được bà trưởng pḥng về tiếp
quản, đổ ra ngoài xem có dấu ǵ trong đó,
hay xem bọn “ngụy” ăn uống cao lương
mỹ vị ǵ. Đến
khoảng Tháng Tám 1975, tôi nhận được 1
điện tín gửi từ Pháp, như sau: sẽ
hồi hương, cho biết ư kiến. Bức
điện tín ngắn gọn, mà thật là khó
giải quyết. Tôi xin ư hai bên cha mẹ. Bố
mẹ anh không biết nên bảo anh về lại
Việt Nam hay bảo anh qua Mỹ, được sung sướng
cho anh, th́ lại khổ cho con dâu mà ông bà rất yêu
quư. Bố mẹ tôi bảo anh trở về, th́ thương
anh bị ở tù khổ cực lắm. Ngay bản thân
tôi, cũng chẳng biết sao là đúng. Biết là
anh đang rất cần câu trả lời để có
quyết định, về hay ở? Sau
cùng, chúng tôi đành đánh điện tín qua: “Tùy
ư quyết định.” Những ngày tháng sau đó,
tôi sống như một người có tội,
tội đẩy anh vào nơi lao lư, biết có ngày
về ? Sau
đó các đài phát thanh, VOA, BBC báo tin cho biết
sẽ có một chuyến tàu mang tên Việt Nam Thương
Tín sẽ đưa một số người muốn
hồi hương, khoảng Tháng Mười sẽ
trở về. Thuở ấy, sau bức màn sắt là
một thế giới khác, bít bùng, mọi tin tức
đều không thể đến với người
dân. Tôi đi làm, ḷng đầy hoang mang, anh có
về, nếu anh về, th́ có phải ở tù không?
Người ở đây, c̣n vào tù, huống ǵ người
đă đi, nay trở lại, mang theo những câu nghi
ngờ về các anh, có phải đă mang về
những công việc dọ thám, đánh phá chế
độ... Rồi
được tin nghe lén, chiếc tàu mang tên Việt
Nam Thương Tín (VNTT) đă chở người di
tản dạo 30 Tháng Tư, 1975, nay được dùng
để đưa đoàn người hồi hương.
Tôi tự hỏi, liệu có anh trong đó, nếu có
th́ anh sẽ ra sao. Ngay bản thân tôi ở Sài G̣n, c̣n
bị đe dọa đi kinh tế mới, v́ đă
được đặt tên là vợ của ngụy
quân, tội ác đầy ḿnh, cần phải cải
tạo cái đầu tư sản bằng con
đường lao động. Hai
bàn tay một Nha Sĩ như tôi, thay v́ điêu
khắc lên miếng trám cho thật đẹp,
thật giống những h́nh dáng thật của răng,
nay có lúc phải cầm cuốc đi trồng dứa
(thơm) ở nông trường, cầm cuốc
trồng khoai ḿ sau khi đă cuốc hết sân cỏ
xanh mướt tốn công biết bao, ở sân trước
bệnh viện Chợ Rẫy nổi tiếng ở Sài
G̣n. Có
lần chúng tôi phải đi đào kinh, giẫm chân
trên ḍng kinh lúp xúp nước, chuyền những
miếng đất được các vị bác sĩ,
các giáo sư đại học Y Khoa Sài G̣n trao cho,
để tạo con kênh dẫn nước phèn vào
ruộng. Ḍng nước váng lên những phèn, cây nào
sống nổi. Sau những lần khổ cực như
thế, số bác sĩ quyết chí rời bỏ nước
lại càng tăng lên. Họ đă không trọng
vọng nhân tài, yêu quí những vị “cứu nhân,
độ thế.” Qua
những sự việc hàng ngày như thế, tôi
đă có thể h́nh dung cuộc sống trong tù
“cải tạo” của các quân nhân chế độ
cũ, và nhất là các anh đă về theo chuyến tàu
VNTT sẽ khổ như thế nào. Lá thư
anh gửi từ trại tù Tuy Ḥa đă xác định,
anh đă trở về.
Bây
giờ họ đem chồng tôi để “dụ”
tôi vào một công tác mới. Họ hỏi, tôi có
muốn đi thăm nuôi anh, có muốn gặp anh? Dĩ
nhiên là tôi muốn lắm chứ, nhưng tôi cũng
biết dè chừng cái thâm ư của họ. Đằng
sau cái đề nghị ngọt ngào đó, hẳn là
sẽ có điều kiện ǵ đây? Th́
ra, họ muốn tôi làm một thứ “ăng ten”
để t́m hiểu về một nhân vật trong
bệnh viện mà họ muốn bắt. Tôi tuy c̣n non
trẻ, nhưng cũng đă biết lưu ư kịp
thời, để không mắc mưu họ, giữ an
toàn cho người ấy và cả cho ḿnh. Cuộc
sống bấy giờ, là một sự đối phó,
là những cẩn thận và căng thẳng. Rồi
cũng qua ngày, tôi t́m quên trong công việc. Trong
bệnh viện, ngày ngày có tin người này đi
thoát, bạn khác bị bắt. Tôi đă t́m cho ḿnh
một hướng đi, dứt khoát ở lại
với anh. Chúng tôi chưa có con, tưởng như không
có điều chi ràng buộc, nhưng t́nh nghĩa
vợ chồng sâu nặng, nhất là sự trở
về của anh, th́ sự dứt khoát kia trở thành
một điều không lay chuyển. Chuyến
tàu VNTT về đến hải phận Vũng Tàu
từ Tháng Mười, 1975, thế mà chúng tôi chỉ
biết đến tin nhau qua vài lá thư, thư đầu
tiên từ Tuy Ḥa, ngày gửi là Tháng Hai, 1976, thư
thứ hai từ Nghệ Tĩnh. Anh đă bị c̣ng
tay, giải đi thật xa, đến một nơi
nghèo nhất nước, để đói khát,
bệnh tật sẽ giết lần ṃn nhóm sĩ quan
ưu tú của quân đội. Những lá thư
được rập khuôn, vài ba chữ hỏi thăm
là đă hết, anh chẳng đả động ǵ
đến chuyện đi thăm, sự cô lập
trong rừng sâu, sự cô lập với dân quanh vùng và
ghê sợ hơn cả là sự cách chia với gia
đ́nh. Anh
sống thế nào nhỉ? Sự
chờ đợi mỏi ṃn cho đến cuối năm
1978, anh mới báo tin cho tôi đi thăm nuôi. Hai
chữ “thăm nuôi” thật giản dị mà đầy
ư nghĩa. Nghĩa
là có hai việc trong lần được gặp này:
thăm và nuôi. Anh viết thư về, danh sách các
thứ “nuôi” dài thậm thượt, với
một người gọi là “khảnh ăn” như
anh, mà phải liệt kê bao nhiêu món như thế,
chắc chắn anh thiếu thốn ghê gớm. Quăng
đường Hà Nội vào Vinh bằng tàu chợ
đă là một ám ảnh tôi cho đến bây
giờ, xe lửa cho những con buôn đanh đá,
cảnh hỗn loạn cho những tay cướp
hoạt động, nơi những tay anh chị và
đồng bọn hoành hành với những luật chơi
riêng của họ. Những chị đi thăm nuôi
cứ chết dí, né tránh và chịu đựng. Nói
sao cho hết những nhục nhằn chịu đựng
trên đường thăm nuôi.
Vợ
chồng nh́n nhau qua 1 chiếc bàn lớn, xa cách như
tội nhân. Chúng tôi tội t́nh ǵ nhỉ, muốn nói
bao điều, mà chỉ nói bằng ánh mắt.
Giờ được thăm loáng cái đă hết,
chúng tôi bịn rịn, anh ngay đây mà như một
người xa lạ, gặp nhau và chia tay, chỉ yên
tâm là chúng tôi vẫn c̣n sống, ngày mai sẽ ra sao,
chẳng ai biết. Anh
quay vào trại, sống kiếp tù đày, tôi trở
về lại Hà Nội đợi máy bay vào Sài G̣n.
Ra đến Hà Nội mới biết các chuyến bay
tạm ngưng v́ chiến tranh Tháng Mười Hai,
1978 giữa Việt Nam và Cambodia, tôi kẹt ở
lại, tôi đánh điện tín về bệnh
viện xin nghỉ, họ không tin, cứ nghĩ tôi
đă vượt biên. Sau khi có máy bay trở lại,
tôi đi làm và đă bị làm khó dễ không ít
với sự việc này. Đất nước đă
được rêu rao là “thống nhất,” là
hạnh phúc, mà sao vẫn sợ dân ḿnh bỏ nước
ra đi? Cuộc
sống ngay cả ngoài tù c̣n đầy rẫy khó khăn,
đói ăn, thiếu mặc, thiếu tự do.
Thử hỏi trong tù, nhất là người tù luôn kèm
theo bốn chữ Việt Nam Thương Tín, th́
khổ thế nào. Bốn chữ ấy có nghĩa là
luôn nằm trong sự nghi ngờ của chính
quyền, sự thương cảm của bạn bè,
sự tiếc nuối có khi tức giận của
những người đang t́m đường vượt
biên. Riêng tôi, bị nh́n như nguyên nhân chính của
sự trở về của anh. Tôi
tự giận ḿnh, quyết định để anh
trở về, như đang ở thiên đường
mà lại xuống địa ngục. Nhiều khi tôi
phải tự t́m ra câu trả lời, là, quyết
định lúc nào, là đúng nhất vào lúc ấy,
không ân hận và không tiếc ǵ. Hỏi rằng có
ai can đảm như anh, biết trở về là tù
đày mà chỉ nghĩ đến một ngày sẽ
trở về với gia đ́nh và tôi. Nhiều
bạn anh lúc c̣n ở Guam, đă ngăn anh trở
về, nhưng các bạn mạnh miệng v́ họ
đang ở trong sự đầy đủ của
vợ, con, cha mẹ. Anh tâm sự, có những buổi
chiều ở Guam, ngồi ở băi biển, nh́n đôi
chim bay cùng nhau trong nắng xế, nh́n người ta bên
cạnh vợ con, tuy chưa biết ngày mai nhưng
vẫn ánh lên hạnh phúc vui vầy. Anh đă về
v́ chẳng có ai trong gia đ́nh anh, gia đ́nh tôi di
tản được. Măi
đến bây giờ, 40 năm sau ngày đau thương
ấy, chúng tôi vẫn thấy quyết định
quay về là đúng. Chúng tôi hănh diện khi có người
hỏi, có phải anh đă trở về trên
chuyến tàu định mệnh, VNTT. Chúng tôi
ngẩng cao đầu với niềm tự hào,
với sự can đảm khó có của anh, vui
với một kết thúc “có hậu” như bây
giờ. Anh
ra khỏi tù Tháng Mười, 1982, từ xứ
Nghệ Tĩnh rất xa, vào đến miền Nam là
cả một ḷng thương yêu của dân chúng,
họ giúp đỡ, trên đường di chuyển
về Sài G̣n. Hai năm sau, chúng tôi có đứa con
trai đầu tiên và 3 năm sau, một đứa con
trai thứ ra đời khi tôi đă ở tuổi 40.
Bạn bè của anh thường lui tới thăm
hỏi, nựng nịu hai cháu nhỏ nhất khóa. Chúng
tôi muốn sống yên b́nh, nhưng thấy luôn luôn có
những phân biệt, ngăn cản bước
tiến của con ḿnh từ phía chính quyền
mới. Và năm 1991 bốn người chúng tôi ra
đi định cư ở Mỹ trong chương tŕnh
H.O., chúng tôi phải làm lại từ đầu,
bắt đầu một cuộc đời mới
ở một xứ sở mới đă dang tay đón
nhận chúng tôi. Chúng
tôi với tuổi thanh xuân, với thời điểm
đẹp nhất cho việc tạo dựng một
cuộc đời tốt đẹp, lúc ấy, đă
bị cướp đi, phải bắt đầu
một cuộc đời mới bằng hai bàn tay
trắng. Những mất mát ấy, chẳng cách ǵ
lấy lại được. Thật là nhiều thua
thiệt, chỉ c̣n những an ủi là những ngày
tháng cuối đời được sống b́nh an
nơi xứ sở này, nơi chúng tôi xin nhận làm
quê hương. Anh
đă từ Mỹ, trở về Việt Nam, trải
qua 7 năm gian khổ, và 9 năm sau gia đ́nh chúng tôi
đă cùng nhau trở lại “thiên đường”
tưởng đă đánh mất, sau 19 năm tuổi
trẻ, đă qua đi vô ích, tuổi đẹp
nhất của một đời người. Qua
những gian khó ban đầu ai cũng phải
sống như thế, chúng tôi đă hội nhập
được với “ḍng chính,” các cháu học hành
nên người, cuộc sống không đến
nỗi kham khổ. Để đến bây giờ, chúng tôi vẫn hănh diện trả lời, “Vâng, chúng tôi là người của chuyến tàu VNTT, con tàu mang tên Định Mệnh, từ Guam trở về Việt Nam Tháng Mười, 1975.” |