Trường lớp, thầy tṛ, ngày xưa 

 Hoàng Quân

Tôi nhận được điện thư với tựa đề: Quang Ngai –  IVS (International Voluntary Services) English School –  Trường ông Dave. Tôi rất ngạc nhiên, nhưng thật vui. Tên người gởi là Nguyễn Văn Kông. Tôi nhớ ngay đến thầy giáo Kông của IVS Quảng Ngăi. Mở thư đính kèm, thấy ḿnh được hân hạnh trong vài chục người đầu tiên trong danh sách, cùng với em tôi. Tôi vội vàng chuyển thư đến anh chị của tôi, những người cũng một thời học tṛ “trường ông Dave”.

    Tôi ngỡ như ḿnh đang nhẩn nha xem cuốn phim đen trắng, ghi lại ngày tháng cách đây hơn ba thập niên.

    Tôi kết thúc chương tŕnh tiểu học với phần thưởng ưu hạng, tức là hạng nh́ của lớp 5B. Lên trung học, tôi đinh ninh ḿnh sẽ tiếp tục làm quà cho Ba Mạ với những bảng danh dự xanh đỏ. Nhưng, khi nh́n kết quả đệ nhất lục cá nguyệt của ḿnh trong năm đầu tiên ở trung học, tôi buồn và thất vọng năo nề. Mặc cho các môn toán, lư hóa có điểm khá, điểm thấp trong môn Anh Văn đă đẩy tôi ra khỏi top ten của lớp Sáu Bốn, Nữ Trung Học. Trong chương tŕnh “cứu nguy”, anh tôi lănh trọng trách dẫn tôi đến ghi danh ở “trường ông Đê”. Lúc đó, thầy Đặng Quỳ là hiệu trưởng của trường.

    Bây giờ, cũng lạ, tôi không hề nhớ đến một nam sinh nào trong lớp. H́nh như lớp của tôi đa số là nữ sinh, lại là nữ sinh mỹ nhân. Bông hoa rực rỡ nhất lớp trong mắt tôi thuở ấy là chị KH. Chị có vẻ rất à-la-mốt, để tóc “x́ tôn”. Cặp mắt to, đúng điệu mắt nai vàng ngơ ngác. Tôi không biết Tây Thi bên Tàu ngày xưa diễm lệ cỡ nào, mà làm cho “trầm ngư”, chớ chị KH ở IVS đă làm không biết bao nhiêu Quảng-Ngăi-công-tử “lạc nhạn”. Có lần, chàng nào từ Sài G̣n ra Quảng Ngăi, đem tặng chị trái táo. Có lẽ chị mắc cỡ, nên sẵn có nhăi ranh ngồi cạnh, bèn đưa cho nó luôn. Vậy là tôi được bổng lộc bất ngờ. Ngoài ra, có cô bắc kỳ nho nhỏ VTL cũng xinh xắn lắm. Nếu thời đó nhạc phẩm Tháng Sáu Trời Mưa đă ra đời, hẳn tôi đinh ninh nhạc sĩ đang ca tụng làn da của chị VTL,  Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng... Chị nói chuyện nhỏ nhẹ, dễ thương. Tôi “mết” chị và bí mật chấm điểm cao cho chị, chờ cơ hội thuận tiện làm mai cho ông anh của tôi. Tiếc là, anh tôi lại nhờ tôi g̣ chép mấy câu thơ của Nguyên Sa,  Gặp một bữa anh đă mừng một bữa, Gặp hai hôm thành nhị hỉ tâm hồn, rồi sai tôi đi “dâng” cho nàng thơ khác ở tiệm vải Phúc Thịnh gần chợ Quảng Ngăi. Tan trường, khi rời khỏi con hẻm nhỏ, bên cạnh nhà may cô Yến, tôi có thể quẹo phải, về tiệm sách Kim Mai ở Phan Bội Châu, hoặc quẹo trái về nhà, Café Uyên, ngoài ngă tư chính. Nhớ chị XM, có lần trời chạng vạng, tôi đứng gần chị trước cửa lớp chờ vào học. Chị nói: “Con nhỏ Thúy có cặp mắt t́nh ghê.” Chị XM lúc đó học giỏi có tiếng. Được người “nổi tiếng” khen, làm con nhỏ lật đật ghim vào tâm khảm, nhớ miết tới bây giờ.

    C̣n vài chuyện đáng nhớ nữa, nhưng chắc tại tôi hồi đó ưa “tôn thờ” mấy người lớn, nên cất kỹ trong đầu. Chớ mấy chị, chắc đâu ai c̣n vấn vương chi mấy chuyện lắt nhắt, lít nhít đó. Nói chung, trong lớp IVS đó, tôi không nhớ đến những bạn cùng trang lứa để mày tao, mà chỉ nhớ đến các chị.

    Thầy giáo chính của lớp chúng tôi là thầy Vương Đ́nh Quư. Thầy Quư phát âm giọng mũi, nghe rất Mỹ. Tôi nói vậy cho oai, chứ tới thời của tôi, tôi không có dịp nghe giọng Mỹ. V́ các thầy giáo người Mỹ lúc đó đă thôi không dạy ở trường nữa. Tôi c̣n nhớ bài đọc về con hươu cao cổ của thầy Quư,  The giraffe has long, thin legs and a very, very long neck.  Chữ giraffe thầy Quư phát âm nghe sang chi lạ.

    Những giờ học với thầy Vơ Thành Chương thật thoải mái. Thầy Chương rất hiền. Thầy chẳng rầy la ai bao giờ. Thầy nói rất nhỏ. Không chừng có thêm cái quạt mo, là thầy Chương có thể biểu diễn hoạt cảnh của nhạc phẩm Ngậm Ngùi, (các) em (học tṛ) ơi hăy ngủ, anh hầu quạt đây, ngủ đi, mộng vẫn b́nh thường... Mộng b́nh thường của tôi lúc đó là làm sao chống mắt cho kỹ, kẻo ngủ gục rồi không đọc theo tấm chart thầy Chương dạy, The musician is calm, the singers are talented...

    Vào mùa hè, thỉnh thoảng chúng tôi được các thầy “lăo thành”, những anh lớn đă vào đại học ở Huế, Sài G̣n, ghé qua dạy. Tôi c̣n nhớ rơ ngữ điệu của bài đàm thoại khi vào tiệm ăn:

        – Are you ready to order?

        – Yes, I'd like steak, please.

        – How do you want it? Well-done, medium or rare?

        – I'd like it rare, please.

        – …

    Nói riết thành phản xạ. Cứ hễ vô nhà hàng là ăn steak, mà ăn steak là ăn sống... Thầy Phạm Công Hiệu đọc trước, cả lớp đọc theo. V́ lẽ ǵ đó, lớp chúng tôi không lặp lại liền ngay sau khi thầy đọc, mà chúng tôi nghỉ chừng vài giây. Thầy bảo: “Mấy em làm tôi đau tim quá.” Rồi thầy kể câu chuyện vui. Có cậu sinh viên ở trọ trên căn gác. Một cụ già ở tầng dưới. Cậu sinh viên có tật về đến nhà là cởi giày ra, vứt xuống gầm giường cái rầm, gây tiếng động, làm bà cụ giật ḿnh. Bà đă đôi lần phàn nàn với cậu và yêu cầu để ư. Chiều đó, về đến pḥng, cậu sinh viên quen tay, ném ào một chiếc giày. Xong, cậu chợt nhớ lời bà cụ, nên nhè nhẹ cởi chiếc thứ hai để xuống cạnh giường. 10 phút sau, có tiếng bà cụ gơ cửa, cậu sinh viên chắc mẩm bà lên khen cậu tiến bộ. Ai dè, bà cụ mặt mày xanh mét, thều thào: “Cậu này! Sao cậu không ném chiếc giày thứ hai cho rồi. Già chờ năy giờ, hồi hộp quá, mệt cả tim.” Thầy Hiệu nói: “Đó! Mấy em thấy chưa! Mấy em đừng để tôi đau tim nghe”. Qua thầy Trần Văn Hải, tôi được biết những điều khái quát của thái dương hệ, giải ngân hà, được nghe đến những địa danh thật huyền bí, xa xôi. Có lẽ nhờ đôi giờ học hiếm hoi với các “cao nhân", mà mới đây, tôi đă giải đáp được câu đố mẹo (Thân mời quí Sư Huynh, and Sư Tỷ giải bài zăn sau đây:M V E M J S U N next alphabet (after N)???)

    Tính ra, tôi học với thầy Nguyễn Văn Kông nhiều giờ nhất. Thầy Kông cao, gầy, thư sinh bạch diện, nghiêm nghị lắm lắm. Thầy Kông đi dạy, hay mặc đồng phục của trường Trần Quốc Tuấn, áo trắng, quần xanh, rất chỉnh tề. Không biết sao, tôi lọt vào lớp rất nhiều chị lớn, nên tự nhiên thành hàng em út. Thuở đó, biết phận ḿnh chưa nhổ gị, tôi đâu dám... trèo cao. Nên tôi đành lủi thủi nghe mấy chị “mộng ngoài cửa lớp”: Nào là thầy Kông học giỏi, nói tiếng Anh hay và nhất là mái tóc thầy Kông, bềnh bồng dợn sóng. Ấy, chẳng phải là hàng nhân tạo như mái tóc uốn ép sấy gội nhuộm của các kép Minh Vương, Minh Phụng đâu. Tóc thầy Kông nghe đâu được cầu chứng tại ṭa là tóc “quen” tự nhiên. Nghe mấy chị rù ŕ với nhau, mấy chàng tóc quăn thương vợ lắm. Tôi chỉ nhớ được chừng đó thôi, nhưng tiếc không nhớ chị nào đă có lời bàn nào, để bây giờ “méc” lại với thầy Kông.

 

   Thầy Kông –  H́nh minh họa Nguyễn Đức Tuấn Đạt. 

 

Người xưa có dạy rằng, muốn... ḿnh hay chữ phải... yêu kính thầy. Mấy chị dành “thầu” phần yêu. C̣n tôi, hạng em út, vừa qua giai đoạn tḥ ḷ mũi xanh chưa lâu, phải “khoán” phần kính. Nếu thuở đó, Tom Cruise đă tiếng tăm ở Hồ Ly Vọng, trường phái Bút Tre đă lẫy lừng trên thi đàn, chắc mấy chị trong lớp đă ngâm nga:

   

    Thầy Kông thẩy rất nghiêm tràng (trang),

    Nhưng thầy đẹp trái (trai) ngang hàng Tôm Cui.

 

Mấy chị lại ưa màn “ghép đôi” thầy Kông với chị Liễu. Có lần, chị nào lén viết trên bảng Peacock + Willow. Thầy Kông vào lớp thấy vậy, mặt mày hầm hầm, vừa xóa bảng vừa “giũa te tua” đám học tṛ rắn mắt. Tôi, lúc đầu cũng thày lay, tính cười ké theo mấy chị. Đến khi thấy thầy nộ khí xung thiên, rét quá, im thin thít. Tôi nhớ, thầy Kông có dạy bài Phật Khóc rất hay. Trời lụt, một người đi đường nghe hai tượng Phật nói chuyện với nhau. Tượng Phật gỗ nói: “Tội nghiệp cho bạn quá! Bạn là đất, khi nước dâng lên, bạn sẽ vữa ra và tan biến mất. Tôi may mắn hơn bạn nhiều, tôi bằng gỗ, tôi sẽ nổi lên mặt nước và trôi đi t́m chỗ nào cao hơn, khô ráo.” Tượng Phật đất trả lời: “Không đâu bạn ạ, tôi mới là người may mắn. Tôi đến từ đất, tôi sẽ trở về đất. C̣n bạn, bạn sẽ bị trôi dạt đến nơi đâu bạn chẳng rơ, biết đâu bạn măi măi tha hương không có ngày trở về...”

    Ngoài những bài học anh văn, tôi c̣n rất “ngưỡng mộ” chữ viết của thầy Kông. Thầy Kông viết chữ rất đẹp. Chữ f thầy kéo đường ṿng. Trông từa tựa dáng con ve. Khi thầy viết chữ of, tôi nh́n, liên tưởng đến con ve đang cầm trái bong bóng. Hồi đó, tôi bắt chước thầy Kông cũng viết chữ f như vậy, mà không xin bản quyền. Chắc thầy Kông không kiện cáo ǵ, bắt tôi đáo tụng đ́nh v́ tội vi phạm copy right. Tiếc là thi ca tiếng Việt không có chữ f, hoặc rất hiếm, nếu có, chỉ là danh từ riêng, tên họ... cho nên tôi không có dịp “thư pháp” chữ f.

    Nói chung, lớp chúng tôi, hay đúng hơn là tôi, t́nh cờ có sự sắp xếp các thầy rất hợp lư cho tôi. Bởi, nếu, thầy nào cũng speak softly love như thầy Chương, tôi ngủ hoài trong lớp, làm sao về nhà c̣n ngủ được. C̣n, nếu thầy nào cũng khó đăm đăm như thầy Kông, th́ căng thẳng trường kỳ, e rối loạn hệ thần kinh năo tủy.    

    Tôi hơi tiếc là trường IVS phải đóng cửa, lúc tôi vẫn chưa đủ tuổi để xao xuyến, bâng khuâng khi học các ông thầy đẹp trai, học giỏi... Sau năm 1975, tôi mất liên lạc với thầy bạn cùng lớp của trường ông Dave. Măi đến năm 1979, tôi gặp lại chị KH trong khuôn viên Đại Học Sư Phạm Sài G̣n. Tôi là lính mới khoa Ngoại Ngữ. Chị là sĩ quan sắp ra trường khoa Hóa Sinh. Tôi thấy chị vẫn tươi thắm như xưa. C̣n chị nhận xét: “Ủa! con Thúy, chớ mấy năm rồi mà sao mày hỏng lớn thêm chút nào vậy?” Vào trường IVS thời gian ngắn, tiếng Anh của tôi tiến bộ thấy rơ. Từ lớp bảy cho đến lớp chín Nữ Trung Học tôi lấy lại phong độ và chỉ quẩn quanh trong top five cho đến năm 1975.

    Sau này, khi vào học Marie Curie Sài G̣n, tiếng Anh của tôi vẫn không chịu thua “thằng tây” nào, bất kể là đầm thiệt hoặc đầm dỏm. Có thể, nhờ căn bản tiếng Anh ban đầu, tôi luôn thấy niềm vui và dễ dàng khi học thêm ngoại ngữ mới. Bây giờ, trong công việc làm, tôi đă có dịp nói tiếng Anh ở những địa danh không hẳn xa, nhưng đôi khi rất lạ như Tel Aviv, Vilnius, Almaty, Kiew, Abu Dhabi, Ljubljana... Khi t́nh cờ bấm nhầm nút điện thoại, nghe giọng đọc của ḿnh trong máy, tôi không nín cười được. Trời đất! Nói tiếng Anh mà sao nghe như... ḥ Huế. Giọng đọc của tôi, dù với accent nước mắm, tôi vẫn luôn tự tin khi khi phát âm s, sh, th, z... Đó, chắc chắn có phần đóng góp dạy luyện giọng của các thầy qua các bài tập như She sees the seashell at the seashore, hoặc I know two boys...

    Mấy tháng nay, nhờ bầu nhiệt huyết và trái tim không ngủ yên của thầy Kông, những IVSer từ khắp năm châu bốn bể đă t́m gặp lại nhau sau nhiều thập niên thất lạc tin tức. Hội ngộ trên mạng, trên điện thoại, những họp mặt nho nhỏ, trung trung và đến hội ngộ lớn.

    Tôi bắt chước vài anh chị lớp lớn, xuất khẩu thành thơ... bút tre:  Brà-vô Ai-ví-Ét-Xờ/

Thầy Kông cồ-nét, ḿnh giờ gặp nhau.

    Người xưa có dạy, nhất tự vị sư, bán tự vị sư. Mấy chục năm trước, tôi học các thầy bao nhiêu là chữ. Các thầy vẫn là thầy, dù các thầy đă vui vẻ bảo, gọi anh cũng được. Bây giờ gặp lại nhau, thầy tṛ đa số đă bước qua ngưỡng cửa tri thiên mệnh, nhắc lại tích xưa, chốn cũ, người này, chuyện kia... Cũng là dịp cho tôi, hay cho những ai là đă từng là học tṛ của “trường làng xưa”, nói lời cám ơn đến thầy cô. Ư đă mang trong tâm mấy chục năm qua, nay nói được thành lời. Cám ơn trường lớp, thầy cô, bạn bè đă vẽ thêm những nét tuyệt vời trong bức tranh kỷ niệm thời niên thiếu của tôi.

 

 Hoàng Quân

Trở lại