H34
trên Đồi 31 Vĩnh Chánh |
Mến
tặng và nhớ đến những chiến sĩ QĐ
VNCH, nhất là thuộc binh chủng Nhảy Dù, đă
tham dự Hành Quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào. Sau một thời gian nằm chờ ở Khe Sanh, vào đầu một ngày N tháng 2, 1971, trong đợt trực thăng vận đầu tiên, Tr. úy Phạm Đồng dẫn đầu trung đội 2 của Đại Đội 33 thuộc TĐ3ND, nhảy xuống một ngọn đồi trọc vô danh mang ám số 31 trên bản đồ, mở đầu cho cuộc Hành Quân Lam Sơn 719. Nhiệm vụ: lập đầu cầu, mở rộng ṿng đai an toàn cho các đơn vị kế tiếp đến sau: Bộ Chỉ Huy TĐ3ND của Tr. tá Lê Văn Phát, gồm luôn cả Tr. tá Phan Hy Mai, LĐoàn Phó LĐ3ND cùng ĐĐ 30 chỉ huy công vụ, Pháo Đội B3 của Đ. úy. Nguyễn Văn Đương, và cuối cùng là BCH của Lữ Đoàn 3ND với Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng với ban tham mưu. Mấy ngày đầu tiên, t́nh h́nh êm ru, nhưng qua mấy ngày sau, địch bắt đầu pháo kích lai rai, không chính xác, ḍ dẫm.
Trước
khi được không vận ra Khe Sanh, TĐ3ND của
Tr. úy Đồng vừa xong cuộc hành quân ở Tây
Ninh. Thời gian nghỉ ngơi ở hậu cứ chưa
được bao lâu th́ đơn vị anh lại có
mặt nơi này. Từ ngày Đồng t́nh nguyện vào
ND cuối tháng 9, 1968, trong nhóm 8 Chuẩn úy cùng khoá
Thủ Đức bổ sung vào TĐ3ND, nay chỉ c̣n
một ḿnh anh. Đồng cầm trung đội 2
của đại đội 33 từ lúc đầu quân
vào TĐ3ND cho đến giờ phút này, đă xuôi ngược
từ Nam ra Bắc, rồi lại Đông sang Tây, đă
qua bao nhiêu miền đất nước, đă trăn
trở trước sự hoang tàn của quê hương
và thấm thía bụi đường của nổi
niềm người chinh nhân. Đôi
khi Đồng muốn mơ về một ngày yên b́nh
trở lại nhưng vẫn không thể hiểu nên
khởi điểm giấc mơ từ nơi đâu -
Ở ngay trên chiến trường vừa kịp tan khói
súng? Ở trên làng mạc đổ nát c̣n mang tàn tích
của chiến tranh? Hay ở ngay Huế của Đồng,
nơi mà anh rời sau Mậu Thân 68 với những ám
ảnh kinh hoàng chưa tan, những vành khăn tang chưa
nguôi, những đau thương mất mát chết
lịm trong tim? Giờ đây, với 25 năm tuổi
đời và gần 3 năm kinh nghiệm chiến trường,
Đồng cùng 26 mống của trung đội 2
của anh đang có mặt tại Đồi 31 này, nào
là Thượng sĩ trung đội phó Đàng, các
hạ sĩ quan Biên, Sâm, Muôn, Yến..và các binh sĩ
Thông, Chính, Kiều, Chí, Sỹ, Nam, Phi, Quá, Dũng, Vân,
Hải, Măo, Ngạt, Xuất, Thuận, Vượng,
Kỳ, Phú, Yên… Trong cương vị chỉ huy
một đơn vị tác chiến nhỏ nhoi, anh
thầm đoán cuộc hành quân này sẽ rất gay go
và tự hỏi rồi đây, những ai trong đám
người này sẽ để thân xác lại nơi
đây và những ai sẽ c̣n cơ hội trở
về lại bên kia biên giới?! Trong
khoảng thời gian ấy, ở một nơi xa hơn,
có một Th. Úy Không Quân Bùi Tá Khánh đóng quân
tại sân bay Đà Nẳng. Là một hoa tiêu trực
thăng, anh phục vụ phi đoàn 219 Long Mă, Không
Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 Không Quân. Phi đoàn
219, hậu thân của Biệt Đoàn 83 trước
đây khi c̣n trực thuộc vào Pḥng 7 Nha Kỷ
Thuật của Bộ Tổng Tham Mưu, có trách
nhiệm thả người, đưa đón và
yểm trợ những toán biệt kích Lôi Hổ,
những đơn vị tiền thám đi sâu vào ḷng
địch, tận trong các mật khu biên giới hay
ngay cả phía Bắc vĩ tuyến, để lấy
tin tức, gây rối và phá hoại các căn cứ
hậu cần của địch. V́ vậy, mọi phi
cơ của phi đoàn 219, và nhất là loại
trực thăng H34, đều sơn một màu xanh
đen, không mang phù hiệu hay bất cứ một
dấu vết nào để giữ sự an toàn và bí
mật. Th.
Úy KQ Khánh vốn gốc Hà Nội, di cư vào Nam sau
1954 cùng với gia đ́nh. Anh gia nhập Không Quân sau khi
hoàn tất trung học và được gởi đi
huấn luyện phi hành trực thăng tại Hoa
Kỳ. Một tuần sau khi tốt nghiệp và trở
về lại Việt Nam, Khánh tŕnh diện Bộ Tư
Lệnh Không Quân và được đưa về
phục vụ Phi Đoàn 219 từ cuối năm 1969. Như
bao nhiêu bạn KQ khác thường xuyên đảm
nhận những phi vụ nguy hiểm, anh sớm có khái
niệm về chiến tranh rất rỏ ràng, và luôn
cố gắng sống đúng với tinh thần làm
trai thời loạn. Với ánh mắt cương
nghị, vẻ mặt khí khái của một đấng
nam nhi sớm si mê sự rộng lớn của không gian
và màu xanh thẳm của bầu trời, cao ráo trong
bộ đồ phi hành màu đen, anh b́nh thản đi
vào cuộc chiến bảo vệ quê hương
với tấm ḷng tràn đầy nhiệt huyết
của một thanh niên khi tổ quốc lâm nguy. Vào tháng
2, 1971, phi đoàn 219 của anh ứng chiến cho
cuộc Hành Quân Lam Sơn 719, anh vừa tṛn 22 tuổi,
và là phi công phụ trong chiếc trực thăng H34. Những
ngày đầu và cả tuần sau khi đặt chân lên
Đồi 31, trung đội 2 của Đồng lo
đào hầm, cũng cố vị trí chiến đấu
cho đơn vị của ḿnh, và cùng với Đại
Đội 33 đảm nhận bảo vệ an ninh, pḥng
thủ ṿng đai lớn cho Đồi 31, bảo vệ
băi đáp trực thăng trên yên ngựa cho những
chuyến chuyên chở liên tục của các trực thăng
Chinook lặc lè đạn pháo, rồi những khẩu
pháo 105 cùng các pháo thủ, xe ủi đất hoàn
tất các hầm kiên cố chỉ huy cho Bộ Chỉ
Huy LĐ3ND, cho Bộ Chỉ Huy TĐ3ND và cho 6 vị trí
đặt súng 105 ly của pháo đội B3. Ngày
N + 9, sau khi bàn giao nhiệm vụ bảo vệ và pḥng
thủ Đồi 31 lại cho ĐĐ 32 của Đ.
Úy Thiếp cùng với Đại Đội Công Vụ
30 của Đ. Úy Toán, trung đội 2 của Đồng
cùng ĐĐ 33 dưới quyền chỉ huy của
Đ. Úy Lê Thành Bôn, được điều động
bung ra 2-3 cây số bên ngoài về hướng Bắc
của Đồi 31. Trong khi ấy, ĐĐ 31 của
Đ. Úy Ngô Tùng Châu bung về hướng Đông và
ĐĐ 34 của Đ. Úy Trương Văn Vân
về phía Nam. Nhiệm vụ: lục soát, tảo thanh,
sẳn sàng giao tranh và đánh phá lực lượng
địch. Trước khi rời Đồi 31, Đồng
e dè cân nhắc nhiệm vụ của từng binh sĩ,
từng toán khinh binh, xung kích, yểm trợ hay hỏa
lực, để có sự hữu hiệu tối đa
của từng cây súng M16 cá nhân hay M60 cộng đồng,
phóng lựu M79 hay hỏa tiển cầm tay M72 khi
cần xung phong, lúc cần bổ xung cho nhau, xé nhỏ các
đội h́nh, coi lại trang bị... Và chính anh
sẽ dẫn đầu một trong 2 toán khinh binh đi
mở đường. “Đang
chông chênh bên triền núi cách trục chính chừng năm
mươi mét, khoảng cách đủ tầm quan sát trên
địa thế hẹp và rậm rạp cỏ tranh,
sim rừng: …Ầmmmm…
toctoctoc…toctoctoc…toctoctoc Ngay
trên nếp gấp khúc của địa h́nh, chúng tôi
chạm địch ở hướng chính, loạt
đạn đầu tiên của họ là một
sự phối hợp nhịp nhàng của B40 và AK47, sau
đó là âm thanh ồm ồm của trọng liên, trên
máy tôi nghe On báo cáo đă có thương vong. Biên và Chính
vẫy tôi từ sau một ụ mối, khom người
chạy lên theo hướng tay của Chính tôi thấy
cụm hỏa lực của họ, khẩu 12ly8 đặt
ngay ngă ba của hai dăy đồi gặp nhau khống
chế trọn vẹn hướng tiến quân của
chúng tôi trên yên ngựa hẹp. Trung đội ba
hứng toàn bộ áp lực đó và rất khó xoay
sở. Tôi báo lên đại đội vị trí
của chúng tôi, t́nh h́nh địch, nhận định
và đề nghị của ḿnh về trận thế.
Họ chưa phát hiện chúng tôi ở bên cánh trái, không
có lằn đạn nào quạt xuống sườn
đồi, toàn bộ hỏa lực của một
chốt mạnh, bắn xối xả dọc theo lườn
xâu táo và sườn phải, nơi Trung đội
một và ba cũng đang bắn trả dữ dội,
tôi ra thủ hiệu cho toàn trung đội nằm im
bất động, tránh sự phát hiện của địch.
Quá gần để xin sự yểm trợ của phi
pháo, và cũng không thể rút lui để dăn
khoảng cách, khi mà các chiến sĩ khinh binh của
trung đội ba đang nằm trọn trong tầm
khống chế của hỏa lực đối phương.
Đại đội trưởng quyết định
chuyển hướng tấn công chính qua trung đội
tôi, hai trung đội c̣n lại tung hết hỏa
lực, thu hút sự chú ư của địch. Trao
đổi chớp nhoáng với Biên, Chính, Muôn và Thượng
sĩ Đàng, chúng tôi đồng loạt khai hỏa tám
trái hỏa tiễn M72 và cắp súng lao lên. Muôn dũng
mănh như một con hổ dữ, cây M60 trên tay anh
đẩy dồn địch vào thế bất ngờ
hoảng hốt sau một chùm tiếng nổ uy hiếp
của M72, địch quay ngoắt ṇng 12ly8 sang trái
kết hợp với cây RPD cố gắng kháng cự,
chúng tôi lại gặp hên, có lẽ họ không tiên
liệu được trên sườn dốc dựng
đứng lại có một cánh quân đang hành
tiến một cách kín đáo, họ đă để
trống hỏa lực, và có lẽ các xạ thủ này
quen bắn máy bay hơn là đối kháng với
bộ binh, nên đến khi Muôn xông lên gần tới,
ṇng 12 ly8 quay vội vàng, lại phải chúc mũi
bắn xuống, không đạt được hiệu
quả tác xạ. Họ cũng can đảm không kém
khi phải đứng lên trước làn đạn
điêu luyện của Muôn và tốc độ xung
phong dũng mănh của các chiến sĩ khinh binh
với sự dẫn dắt của Biên, Chính, Thông, Chí.
Cây trung liên nồi RPD cũng lâm vào t́nh thế tương
tự. Họ không c̣n cơ hội để sửa
chữa sai lầm tai hại đó. M60 trên tay Muôn đốn
gục tổ xạ thủ, trọng liên của địch,
cùng lúc Chính thẩy chính xác một trái lựu đạn
M67 vào ngay ổ RPD, cơ phận địch sống sót
nhốn nháo rút lui gặp ngay sự truy kích của Trung
đội ba đang “ thừa thắng xông lên”,
chốt đă bị bứng gọn, Trung đội ba
lại được dương về phía trước
áng ngữ mặt tiền trận địa và chúng tôi
tổ chức pḥng thủ tạm thời, để pḥng
địch phản kích, để tải thương và
chuyển chiến lợi phẩm về căn cứ. Không
có chiến thắng nào lại không đổi bằng
máu xương người lính, và ṿng nguyệt
quế nào lại không man mác chia ly, Biên bế Chí trên
tay ràn rụa nước mắt, máu anh thấm đẫm
áo hai người, Chí ngă xuống khi đang cùng
với Thông cố chiêu hàng người lính địch
bị thương, anh ta ôm gh́ khẩu AK trong hầm
chiến đấu, Chí chĩa súng thủ thế và ra
lệnh: -
Bỏ súng xuống, tôi sẽ đưa anh lên băng bó! Đáp
lại ṿng tay đầy t́nh người của Chí là
một băng đạn AK hất ngược anh
trở lại. Chí chết khi hai mắt vẫn c̣n
mở lớn. Nếu muốn giết anh ta trong cơn
thất thế, Chí đă làm việc đó dễ dàng,
hà cớ ǵ lại phải phơi người trước
mũi súng, Chí ơi, Chí làm sao hiểu được
tại sao những chiến binh bên kia lại quá
nhiều căm thù?” Tôi
buồn bă nh́n đống chiến lợi phẩm, Biên
thẩy xuống trước mặt tôi cây 12ly8 bên
cạnh khẩu súng cối 82 và RPD,B40…ánh mắt anh
thoáng nhiều trách móc, Chí là em kết nghĩa của
Biên, đă nhiều lần Biên nói với tôi để
Chí đoạn hậu, hay thử M60 cũng được,
hai anh em tôi một đứa khinh binh được
rồi, tôi lại rất ngại phải xáo trộn
đội h́nh khi phải đưa người này lên
đưa người kia xuống, đă đành không
phải ở Tiểu đội hỏa lực là an toàn
hơn ở Tiểu đội Khinh Binh, tỷ lệ thương
vong ở hai vị trí này khi lâm trận là một chín
một mười, có khi địch tập trung hỏa
lực khống chế cây M60 nếu họ phát
hiện, th́ cũng gian nguy không kém, và hai Tiểu đội
hỏa lực cũng phải xung phong theo đội h́nh
Trung đội khi tấn công, chứ không phải
chỉ thuần túy yểm trợ. Tấm ḷng người
anh của Biên muốn thu xếp cho người em
một chỗ ít nguy hiểm hơn ḿnh đă không
được toại nguyện, Chí đă vĩnh
viển ra đi, sự hi sinh của anh khắng định
tính cách của người lính bên này chiến
tuyến. Chúng tôi chiến đấu không hận thù và
cuộc chiến đấu của chúng tôi mang đầy
nhân tính. (1) Theo
lệnh của Pḥng 3 Quân Đoàn 1, Phi Đoàn 219
được đặt dưới sự trưng
dụng của Sư Đoàn ND trong suốt cuộc hành
quân Lam Sơn 719. Ngoài những phi vụ thường
lệ hàng ngày, nay Phi Đoàn 219 đảm nhiệm thêm
việc yểm trợ trực tiếp cho Nhảy Dù,
từ các phi vụ đặc biệt nhảy toán cho
đến các phi vụ tiếp tế lương
thực súng đạn hoặc tản thương cho các
đơn vị tác chiến ND hành quân bên ngoài các căn
cứ hỏa lực 29, 30 và 31. Do đó, mỗi ngày Phi
Đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2
hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến ban ngày
tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh tiền phương
của Sư Đoàn ND, và cứ đến chiều th́
bay về nghỉ đêm tại Phú Bài. Có lẻ
“hot” nhất vẫn là các phi vụ tản thương
các binh sĩ ND bị thương khi hành quân lục soát
xung quanh các căn cứ hỏa lực và đụng
độ với cọng quân. V́ chuyện bay tiếp
tế hoặc tải thương này vẫn xẩy ra
hầu như hàng ngày, nên Khánh coi như pha, b́nh
thảng đi vào những ṿm trời đầy nguy
hiểm. Phi đội của anh cứ luân phiên
trực chiến ở Khe Sanh/ Phú Bài 4 ngày rồi
trở về Đà Nẳng. (2)
Ngay
sau lần chạm địch đầu tiên vào
buổi sáng, ĐĐ 33 tiếp tục tiến bước,
vượt qua tuyến đầu của địch,
đến mục tiêu kế tiếp, trong thế các
trung đội sẳn sàng yểm trợ cho nhau. Cùng lúc,
hàng loạt đạn pháo từ pháo đội B3 trên
Đồi 31 liên tục nhả đạn bắn vào
ngọn đồi trước mặt. “Đợt
pháo kích theo lời yêu cầu vừa chấm dứt,
hai chiếc HU1A của KQVNCH nối đuôi bay quành
trở lại, phối hợp nhau gởi xuống
mục tiêu những quả rocket dài ngoằn xé gió. Chúng
tôi biết ḿnh phải làm ǵ sau đợt không kích
đó.Tôi đọc thấy thoáng âu lo trên khuôn
mặt từng chiến sĩ. Kể cả tôi, cũng
không thể trốn tránh thực tại hết sức
căng thẳng của trận chiến. Vừa vượt
qua cái chết buổi sáng đă phân vân với số
mệnh buổi trưa. Ai đă đi qua chiến tranh,
đă đánh chừng mươi trận mà vẫn c̣n
sống để chờ đợi trận đánh
thứ mười một chưa biết mất c̣n,
mới chia xẻ được cái cảm giác hồi
hộp, nặng nề của người lính trước
trận đánh. Huống chi quanh đây, không kể hai
tân binh mới ra trận lần đầu chưa
biết ḥn tên mũi đạn, từ quan tới lính,
người nào cũng dự vài ba chục trận, vài
ba chục lần quẳng cái bản chất thằng người
tham sanh úy tử xuống đất, ôm súng lao lên theo
tiếng thét xung phong của đồng đội. Có
muốn hèn cũng không thể hèn được, có
muốn dừng lại cũng không thể dừng
lại được. Cái cảm giác xung trận nó vô
cùng kỳ lạ, nó cuốn hút người ta lao vào
bất kể tới đâu… Cứ phỉnh phờ cái
lo lắng, cứ giả vờ hồn nhiên cười
cợt, mà sao trong những đôi mắt kia chợt
tối nỗi bâng khuâng. Có
phải Biên đang nghĩ đến đàn con quây
quần trong ánh đèn vàng vọt, căn nhà nhỏ
trong trong trại gia binh có ai đang thao thức
nguyện cầu, có phải Muôn đang nhớ về người
t́nh chơn chất, lời hẹn thề chưa ngút
một tuần trăng. Có phải Chính đang rối
bời mẹ già tóc bạc, phận làm con biền
biệt chốn biên cương. Ô ḱa ông Đàng! Mười
hai năm quân ngũ đă hằn lên vết tích,
tuổi thanh xuân qua trên khổ lụy quê nhà có làm anh
ít nói, hay đang lặng im trên chính về nỗi ước
mơ c̣n xa vời vợi, mảnh vườn quê chim hót
nắng mai. Và Sĩ, Thông, và Kiều, và…hai mươi
sáu cái nón sắt rằn ri màu lá, che kín hai mươi
sáu cơi riêng tư. Đă điên đâu mà vui mừng hăng
hái, có phải là đồ tể đâu mà say máu
bắn giết, chẳng qua, họ đă dấy động
can qua th́ chúng tôi phải chiến đấu để
tự vệ, để dành cái quyền sống làm người
theo cách đă chọn lựa… Ngay
khi các toán trinh sát xuất phát chừng một trăm mét,
trận địa đang im lắng bỗng rộ lên hàng
loạt tiếng súng cối và tiếng đạn đi
xé gió, khoảng năm hoặc sáu khẩu 82 ly của
địch xa về hướng Tây, tác xạ tập
trung vào vị trí đại đội, dù không chính xác
cho lắm, nhưng pháo kích kiểu văi đậu như
thế này, quả thật cũng làm chúng tôi lúng túng.
Phía trước mặt, hỏa lực bắn thẳng
của họ cũng bắt đầu lên tiếng, ḥng
chặn đứng mũi tiền kích đang cố
gắng bám vị trí. Trong
khi chúng tôi chật vật v́ súng cối địch, th́
vị trí của họ cũng tả tơi dưới
hàng loạt đạn pháo của B3 từ Đồi
31 và từ Pháo đội C3 của Căn cứ
hoả lực ở Đồi 30 trong tầm hiệu
quả, đang bắn yểm trợ. -
Lỡ rồi! Chơi luôn Một Hai Ba! Biên
đă bắt tay được với Chính, Thông,
Sỹ tôi vắn tắt lịnh tấn công sau đợt
pháo chuyển làn tác xạ, cần phải nhanh chóng
giải quyết trận địa nếu không muốn
làm bia cho địch pháo kích. Đúng
lúc những loạt đại bác dồn lên sườn
đồi bên kia, chúng tôi đánh ép xuống thung lũng
với ṇng súng cắm lưỡi lê sẵn sàng
cận chiến.Từ triền dốc thoai thoải, Biên
và Chính phối hợp nhau dẫn đồng đội
tiến lên từng điểm ẩn nấp dưới
làn đạn địch, Thông băng thật nhanh lên
phía trước, bắn gh́m sát mặt đất
vừa dứt một băng đạn lá đă
tấp vào được một gốc cây ven b́a
suối, ống quần rách toạc v́ vướng gai
buổi sáng chưa kịp thay, ḷng thong miếng vải
phất lên phất xuống không đủ che cái mông
ốm nhách, xám xịt, anh chàng quay lại toét miệng
định cười, đă vội nằm hụp
xuống, tay giữ nón sắt, co gọn người tránh
làn đạn vuốt cỏ cây ngă rạp bên cạnh,
anh rút chốt trái lựu đạn ném về phía trước,
bắn rẽ quạt cho Chính, Sỹ và Tiểu đội
Khinh binh tiến lên hàng ngang, bám được b́a
rừng là nắm chắc tám mươi phần trăm
chiến thắng, là hạn chế tối đa thương
vong. Và địch cũng hiểu như vậy nên
họ tổ chức phản kích dữ dội, liệu
thế đơn vị chốt tại bờ suối không
chống đở nỗi, khoảng chừng một
Trung Đội địch từ trên đỉnh đồi
tràn xuống cứu viện, quyết không cho chúng tôi vượt
qua. Đến
đây tôi chợt hiểu, chúng tôi đă được
chỉ huy và theo dơi chu đáo từ Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, khi cánh quân địch
nhớn nhác tràn xuống chưa tới lưng chừng
đồi đă phải khựng lại rồi tan tác
dưới từng loạt pháo nổ chụp thần
sầu của B3. Từng mảnh người tung lên
rồi đổ gục. Ha ha chưa biết ai chơi
“Công đồn đă viện” thiện nghệ hơn
ai đấy nghe ông bạn. Liêu Thăng, Mộc
Thạnh đă bị chém đầu th́ Vương Thông
c̣n hơi sức đâu mà đấm đá. Hàng ngũ
địch hoảng loạn, hỏa lực của
họ tức khắc rối bời không che phủ nhau
được như trước. -
Xung phong! Tiếng
thét rền vang vách núi, đoàn quân băng băng trên
triền dốc lao xuống, vượt qua lửa đạn,
vượt lên chông gai xông tới, tiếng quân reo át
tiếng đạn thù. Xung phong! Xung phong, đạn
xủi mặt đất, đạn xuyên tàng lá, đạn
nổ bùng lửa đỏ, đan veo véo bên tai, người
trước ngă người sau xông tới, khản
cổ theo tiếng reo đồng đội, tim đập
muốn vỡ tung lồng ngực. Hây Sỹ, sao nằm
đó? Ê Kiều! Mày cũng nằm đó sao? Tụi nó
chết rồi! Hây! Phi? Bị thương rồi
hả? Đưa máy đây! Xung phong. Xung phong. Tôi quàng
vội chiếc máy truyền tin, dặn Phi nằm đó,
Trung đội 4 sẽ lên kéo về. Hai nghe Hai nghe! Lên
luôn nhận năm, được 3 hầm có cả
cối! Nằm xuống Trung Úy! Chính húc luôn cái nón
sắt vào mặt xô tôi ngă rạp đúng lúc làn đạn
cắt lá rụng tả tơi trước mặt, không
hề ǵ, cái hầm này nằm dưới đám
rễ cây, nảy giờ chơi đủ… Vậy
thôi, chiến tranh không c̣n chỗ cho sự khoan nhượng
khi mà giọt máu của Chí c̣n nóng hổi trên trận
địa, không c̣n thời gian để lưỡng
lự khi cái chết và sự sống gần nhau trong
gang tấc. Thêm Sỹ và Kiều, trong một ngày
mất luôn 3 mạng người không thể thay
thế, không thể so sánh khi đă cùng nhau miệt mài
trên những nẻo đường đất nước.
Các sĩ quan ở Tổng cục chiến tranh chính
trị và Pḥng 5 Bộ Tổng Tham Mưu có thể xoa
tay hài ḷng trước sự chênh lệch về tỷ
số thương vong của hai phía, đếm xác
địch và ta để thống kê chiến
thắng. Vâng, mười hai xác địch tại
trận địa, vắt vẻo trên miệng hầm
trong một tuyệt vọng thoát thân, chôn vùi trong
hố chiến đấu bị bắn sập trong
cố gắng kháng cự, tan xác dưới hố
đạn pháo binh…So với hai Chiến sĩ ta tử
trận. Tỷ lệ chênh lệch lớn lao đó cũng
không thể xoa dịu nỗi đớn đau của
người lính bên xác đồng đội. Bên
những khuôn mặt mới đây c̣n nói nói cười
cười, c̣n chia nhau mẩu thuốc quân tiếp
vụ cong queo trong túi áo…hay thậm chí mới đây
c̣n…đm thằng này thằng nọ. Tôi
giở poncho nh́n mặt Kiều và Sỹ lần
cuối, máu người chết trận sủng thâm màu
áo lính, hai người lănh nguyên mấy mảnh cối
82 nổ trên tán cây, chụp xuống khẩu đại
liên đang mải mê nhả đạn... Chúng
tôi phải bố trí lại hỏa lực khi cây đại
liên của Kiều đă bị hỏng chưa kịp
thay thế. Trung đội 1 không có thương vong,
Trung đội 3 lại dính thêm một chết, hai
bị thương, vị chi từ sáng tới giờ,
hắn ba, tôi ba, đổi lại trên hai mươi xác
địch với từng đó súng ống, chưa
kể súng cộng đồng. (1) Cho
lệnh trung đội nằm dưỡng tại
chổ 15 phút, Đồng lo tản thương 2 người
lính bị thương của ḿnh cùng 3 thi thể Chí,
Kiều và Sỹ cho trung đội 4 chuyễn về phía
sau. Cổ họng khô gắt khiến hơi thuốc hít
vào trở nên đắng nghét, Đồng thả điếu
thuốc xuống đất và dí dôi giày trận lên tàn
thuốc, rồi cầm bi đông nước hớp vài
hớp nhỏ cầm chừng. Giờ đây, trung đội
2 c̣n 23 người, kể cả Đồng, bố trí
rải rác sau các thân cây xung quanh anh. “Hai
giờ chiều, mặt trời đă ngả về Tây,
cơn nắng chói khô khốc chợt rộ lên
luồng gió nóng, ngay sau khi căn hầm cuối cùng
tại bờ suối bị Thông và Muôn tiêu diệt,
Trung đội cấp tốc tiến lên phía trước,
di chuyển thật nhanh trên một địa h́nh
trống trải dưới hỏa lực vỗ
mặt của địch, tuyến tấn công phải
mở rộng hai cánh. Chúng tôi cũng chẳng phải
Tề thiên Đại Thánh hay ḿnh đồng da sắt
ǵ để khơi khơi xông thẳng vào lửa
đạn, từng khoảng cách rút ngắn giữa
địch và ta cũng đồng nghĩa với
từng phút giây bọt bèo sống sót. Là từng giây
phóng ḿnh thật nhanh từ điểm ẩn nấp này
lao qua điểm ẩn nấp khác, g̣ mối, gốc cây,
bụi cỏ, tảng đá, hay thậm chí chỉ là
một nhánh lá mong manh. Đạn địch xủi dưới
gót chân, đạn vỡ tung vỏ cây trước
mặt…Là bắn, là bắn, bắn hết khả năng
của vũ khí, để tiếng đạn ḿnh át
tiếng súng thù, để chỉ c̣n bên tai tiếng
nổ ḍn của M16, tiếng gà ṇi ấm cũng
của M60…Cọc cùm…cọc cùm M79 gơ nhịp. Lưng
chừng đồi cỏ cây ngă rạp, vỏn vẹn
chừng một trăm mét nữa là xong, là phận ai
nấy biết, nhưng không tài nào, tiến lên
được nữa. Chúng tôi bị chận đứng
ngay trên vị trí một Trung đội của họ
bị tiêu diệt trước đó, xác người
rải rác chung quanh những vết nổ của đạn
pháo. Bây
giờ đến lượt pháo địch nổ
giữa chúng tôi, cộng với hỏa lực dày đặc
từ đỉnh đồi bắn xuống không ngóc
đầu lên được chứ đừng nói
nhổm người dậy. Tôi rủa thầm, ở
đâu ra mà nhiểu 12ly8 bắn rán mặt, đụng
sơ sơ từ sáng tới giờ, cả 3 tuyến
đều có pḥng không. Gió lại trổi mạnh, cũng
may, nhờ thế mà những trái 82 ly bị đẩy
dạt khỏi mục tiêu, dù không xa, nhưng cũng
hạn chế được ít nhiều thiệt
hại, cũng có thể họ chưa tính hết
sức gió trong yếu tố tác xạ. Giờ này mà có
vài phi tuần gơ xuống đỉnh đồi
chừng chục trái năm trăm pounds, bới tung
hầm hố nó lên th́ đỡ vất vả biết
bao? -Một,
Hai, Ba đây Phú Bổn! Một nghe đích thân! Hai nghe
đích thân! Ba nghe đích thân! -Cho
cóc nhái sẵn sàng! Các Đích thân gặp Phú Bổn
ngay. Tôi
ngạc nhiên, đang đánh chác thế này co về
thủ sao được trên một vị trí quá nguy
hiểm mà ổng lại ra lệnh sẵn sàng ḿn và
chiếu sáng? Phân vân th́ phân vân, cũng phải t́m
gặp ổng rồi mới tính. Giao máy cho Thượng
sĩ Đàng chỉ huy trung đội, tôi lần ṃ
trở lại chừng hai mươi mét. Cả bộ
chỉ huy đại đội mặt mày đen thui v́
khói, than, chẳng hơn ǵ chúng tôi. -Vắn
tắt cho các anh rơ! Lệnh Sư đoàn phải
nuốt xong cục xương này mới được
nghỉ. Tập trung ḿn chiếu sáng lên phía trước,
theo lệnh trên máy, đồng loạt ném và xung phong
ngay, các anh thấy gió chuyển hướng mạnh
về phái tụi nó chứ? -Phải
làm nhanh, gió đổi hướng lại chạy không
kịp đó! Rơ chưa? -Về
làm nhanh! Trước
khi quay về Trung đội, tôi liếc nh́n cuộn
poncho gói xác, đưa mắt hỏi Thượng sĩ
nhất Xá: Ai đó? Trung sĩ Tâm, Pháo binh Đề lô. Lẩm
nhẩm một lời cầu nguyện vô bổ,
chết chi trẻ quá Tâm ơi! Tôi băng ḿnh trở
lại tuyến chiến đấu, chuyển đạt
nhanh chóng mệnh lệnh tác chiến. -Một,
Hai, Ba, đây Phú Bổn! Xong chưa? Một xong! Hai xong!
Ba xong! -Đánh! Trận đánh thật đẹp và hùng
tráng, trong bối cảnh ráng chiều chưa tắt, ánh
nắng xuyên qua khói lửa rải xuống chiến trường
những giải vàng lóng lánh, thấp thoáng bóng quân ta
dọc ngang đỉnh đồi, như thấp thoáng
hồn sông núi cựa ḿnh muốn vượt qua định
mệnh. Tiếc quá, không có một phóng viên chiến
trường nào ghi lại được trên băng
nhựa phút giây ngất trời ngạo nghễ đó,
để mai này, trên những kư sự truyền h́nh
được chiếu ra rả từ hai phía suốt
mấy chục năm năm, cuộc chiến trên quê hương
đau đớn chúng ta không phải chỉ là cuộc
chiến của người Mỹ và phía bên kia. Lửa cháy để lộ nguyên một đỉnh đồi với hầm hào chi chit của cấp đại đội cọng. Thế mà trước đó, khi hai chiếc HU 1 A bay ḷng ṿng trên đầu, họ vẫn ém kỹ hỏa lực mạnh mẽ này không khai hỏa, măi cho đến khi chống đỡ dưới áp lực công kích của chúng tôi, mới lên tiếng. Dưới hỏa lực pháo kích ngày càng dữ dội, Đại đội nhanh chóng chuyển tất cả thương binh tử sĩ về phía sau cùng với súng ống của địch, không đủ thời gian thu nhặt, nên ngoài những vũ khí cộng đồng bắt buộc phải chuyển về như cối 12ly8 và 82 ly không giật mà địch c̣n để lại nguyên vẹn, các vũ khí cá nhân AK, B40, phải tháo gỡ tùng bộ phận, ṇng súng liệng một nơi, cơ bẫm quẳng một ngă. Trong số địch tử thương,
có hai người là cấp chỉ huy, trong căn
hầm bị Trung sĩ Yến, Tiểu đội trưởng
Tiểu đội hỏa lực số hai bắn
sập bằng M72, có cả máy truyền tin Trung
cộng, hai xác chết đeo hai cây K59 c̣n mới. Và thật đau đớn, ngay khi
nhận được lệnh di chuyển khỏi
vị trí, chúng tôi vĩnh viễn mất người
chỉ huy thân thiết, tài giỏi. Thượng sĩ
nhất Xá băng ngược đội h́nh, chạy lên
t́m tôi: -Trung úy! Đại úy chết rồi! -
Sao? Sao? Tai tôi lùng bùng, không tin điều ḿnh
đang nghe. Tôi theo ông Xá chạy quành về Bộ
chỉ huy Đại đội, trên vết nổ c̣n
bốc khói của một trái 82, Đại úy Lê Thành
Bôn, Đại đội trưởng Đại đội
33 Tiểu đoàn 3 ND đă anh dũng hi sinh, hai tay ông c̣n
nắm chặt ống liên hợp trên hai chiếc máy
truyền tin vỡ nát, bên cạnh hai người lính
truyền tin hy sinh cùng lúc. Tôi biết, trong những
mệnh lệnh mà ông truyền đạt trên máy,
yếu tố hạn chế thiệt hại cho thuộc
cấp là ưu tư hàng đầu của người
sĩ quan nhân hậu, đằm thắm và tài ba
nhất tiểu đoàn. Nếu không có ông, mấy ai
đă nghĩ ra trận hỏa công thần sầu đem
chiến thắng về cho đơn vị với
thiệt hại tối thiểu”. (1) Trong buổi chiều cùng ngày, ĐĐ
33, bấy giờ do Tr. úy Đồng tạm thời
nắm chức vụ đại đội trưởng,
được lệnh cấp tốc rút về lại
Đồi 31. Lư do: dành khoảng trống mục tiêu
cho 1 pass B52 thả trước nữa đêm vào khu
vừa giao tranh. Cuộc rút quân hoàn thành tốt đẹp
qua những nghi binh phù phép biến ảo bởi sương
mù đang dần xuống, dù địch bám sát
trận địa và liên tục pháo vào những
vị trí vừa bị mất, nghĩ rằng quân ND
vẫn c̣n cố thủ tại đó. Trong cùng thời
gian, pháo đội B3 ND vẫn tiếp tục phản
pháo chính xác và bắn cận pḥng cho ĐĐ 33. Sau khi toán tiền thám do Th. Sĩ Đàng
về lại Đồi 31 bằng một con đường
khác và ngắn hơn đường đă xữ
dụng trong ngày, đă lục soát kỹ và không có
dấu vết của địch ẩn núp chờ đợi
phục kích, bấy giờ Tr. úy Đồng mới cho
phép từng trung đội một từ từ rời
vị trí chiến đấu và rút về căn cứ
hỏa lực 31. Khi toàn đại đội 33 đă
rút trọn vẹn về vị trí an toàn, địch
vẫn liên tục pháo kích vào vị trí “không người”
măi tới sáng hôm sau. Trong đêm, độ chấn động
của những trái bom năm trăm pounds được
rải xuống từ B 52 chỉ đủ làm rung
nhẹ cánh vơng… Nghĩa là cách xa Đồi 31 ít
nhất cũng trên mười cây số. Chứ không
chỉ 2 hoặc 3 cây số là nơi ĐĐ 33
vừa giao tranh và địch đang có ư đồ tái
chiếm. Để rồi mấy ngày sau nữa, khi
nhận thấy có những nguy cơ xuất phát từ
đó uy hiếp Đồi 31, Bộ tư lệnh hành
quân đă cho đổ bộ hai đại đội
của TĐ6ND xuống những ngọn đồi mà
trước đây ĐĐ 33 đă chiếm được
và đă triệt thoái, với t́nh thế khác hẳn.
Ở đó, địch đă trở lại với quân
số nhiều hơn và đă dọn sẵn một
trận dịa pháo kích tập trung, chính xác. Chúng tôi
ở trên đồi 31, quan sát cuộc đổ bộ
của đơn vị bạn bằng mắt thường,
ḷng xót xa theo những cụm khói bốc lên của
đạn pháo địch…Mở đầu cho
những thách thức cam go trong những ngày tới. Bản thân Đồi 31 là một “căn
cứ hỏa lực dă chiến”, có giá trị
chiến thuật trong một giai đoạn ngắn. Thường
thường trong mỗi một cuộc hành quân, đôi
khi LĐND lập hai hoặc ba căn cứ như
thế, bỏ căn cứ này lại lập căn
cứ khác tùy theo nhu cầu chiến thuật. Do đó
về phần công sự, là những vật liệu
tại chỗ, không có lấy một cuộn kẽm
gai, không có băi ḿn ngoài những trái claymore, như
những vị trí đóng quân đêm b́nh thường,
lực lượng pḥng thủ không bao giờ vượt
qua một Đại đội (không kể Đại
đội chỉ huy công vụ của Tiểu đoàn
có một phần quân số trong căn cứ, nhưng
không có trách nhiệm pḥng thủ). Đại đội 33, TĐ3ND, lui về
đảm trách pḥng thủ căn cứ sau khi đă
bị tiêu hao phần nào trong trận đánh ở
ngoại vi Đồi 31. Với dưới bảy mươi
tay súng nay pḥng thủ một tuyến rộng lớn
bao gồm vị trí của Pháo đội B3 TĐ3PBND
của Pháo đội trưởng Đ.úy Nguyễn Văn
Đương, với 6 ụ pháo 105ly, đồng
thời phải bảo vệ Bộ chỉ huy TĐ3ND và
Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3ND đang trú đóng
trong căn cứ. Đó là tất cả lực lượng
cố thủ đồi 31. Các đại đội 31,
32 và 34 đang hành quân lục soát bên ngoài, cách xa
chừng hai đến ba cây số. ĐĐ 3 Trinh Sát
Nhảy Dù bố trí ở một vị trí khác bên ngoài
ṿng đai. Riêng Trung đội của Đồng,
ngoài tuyến pḥng thủ, được giao ở
mặt Bắc nh́n xuống một triền đồi
thoai thoải, c̣n có nhiệm vụ bảo vệ băi
trực thăng nằm chếch bên ngoài cứ điểm. Là một đơn vị tinh nhuệ
ND, ĐĐ 33 tự tin ở khả năng chiến
đấu của đơn vị, và đủ sức
cố thủ cứ điểm trong thời gian cần
thiết, chứ không phải lâu dài, trước các
cuộc tấn công cổ điển tiền pháo
kết hợp với đặc công đột kích,
nếu được yểm trợ đầy đủ,
hữu hiệu và kịp thời, từ không quân VNCH,
không quân Đồng Minh, hỏa lực từ Đồi
30, Căn Cứ Hỏa Lực A Lưới và quan
trọng nhất là ngay chính từ Đồi 31: Pháo
đội B3 . Trận chiến đấu trên đồi
31, phải nói cho đúng, trước hết là
trận chiến của các chiến sĩ PB Nhảy Dù.
Pḥng tuyến của trung đội 2 của Đồng
rất gần những vị trí pháo, và cũng rất
gần với Bộ chỉ huy Pháo đội, chỉ cách
nhau một con đường nhỏ bao quanh vị trí,
con đường gập gềnh cát bụi nối
với băi tiếp tế bằng những chuyến xe
GMC tới lui chở đạn và thực phẩm.
Chiếc xe đó giờ đă nằm im bên sườn
đồi, ḿnh lỗ chỗ vết đạn… H́nh ảnh những chiến sĩ Pháo
binh tả xung hữu đột giữa trận đối
pháo mang khí phách của một chàng dũng sĩ
giữa trùng vây quân địch, ṇng súng vừa
thoắt bên Đông đă hiệu chỉnh về Tây, vươn
cao mạn Bắc rồi nhanh chóng gh́m xuống phương
Nam, quành quả tới lui tất bật giữa mưa
pháo quân thù, lực bất ṭng tâm, trần thân trong
nắng lửa vẫn kiên cường trong trận xa luân
chiến không cân sức, dù trên ḿnh đă mang nhiều
thương tích. Không một ngôn từ nào diễn
đạt được hết nét kiêu hùng bất
khuất đó của các pháo thủ Pháo đội B3.
Nón sắt trên đầu, áo giáp che thân, những khuôn
mặt căm đanh uất hận vươn theo ṇng
pháo, mà tiếng đạn rời ṇng nào có khác
tiếng gầm phẫn nộ của một chúa sơn
lâm giữa bầy sói lang. Mức độ pháo kích của địch
càng ngày càng dồn dập. Không kể những
khẩu đội 82 ly tập trung dày đặc xung
quanh căn cứ thay phiên nhau suốt ngày th́ thụt, mà
pháo binh tầm xa của địch như 122ly, 130ly cơ
động, thay đổi vị trí nhanh chóng và
hầu hết đều nằm ngoài tầm tác xạ
tối đa của 105ly cũng như 155ly của phe ta.
Pháo địch bắn như trống múa lân, sáng trưa,
chiều tối, không kể giờ giấc, bắn không
e dè sự phát hiện vị trí như trước. Pháo
đội B3 đă phải quần thảo với địch
gần như hai mươi bốn giờ trên hai mươi
bốn giờ không nghỉ, suốt trong thời gian
địch bắt đầu tạo áp lực lên căn
cứ, cho đến khi kết thúc trận chiến. Việc tải thương, tiếp
tế cũng là một vấn đề nan giải, khi
tuyến pḥng thủ đă quá mỏng, và càng mỏng
hơn nữa khi quân số tiêu hao dần v́ pháo địch.
Không lần nào không có thương vong v́ súng cối
địch, và ít nhất cũng đă có hai chiếc
trực thăng vĩnh viễn nằm lại băi đáp
v́ trúng đạn pḥng không khi gần đến
vị trí, và một phi hành đoàn đang c̣n kẹt
lại. Đó là những phi vụ trực thăng gan
dạ, khi mà lưới lửa pḥng không đă
phục sẵn trên các đường tiếp cận
nhằm mục đích khóa chặt nẻo vào từ
mọi hướng, th́ chuyến bay các trực thăng
của phe ta quả thật là vô cùng mạo hiểm,
“một đi không trở lại” tựa như tráng
sĩ Kinh Kha, đă bao nhiêu lần những chiếc
trực thăng đột ngột cất lên từ
một lũng núi mù mù sương sớm, hoặc lướt
nhanh trên ngọn cây qua một đỉnh rừng, hay
bay nghi binh thật xa để rồi luồn theo khe núi,
đáp thật nhanh xuống băi, mang đến cho Đồi
31 tất cả nhu cầu không thể thiếu của
mặt trận, thậm chí luôn cả báo chí và thư
riêng. Như một chút hương yên b́nh quư báu
từ hậu phương trên đất Mẹ. Đây là thư đầu tiên của
Phượng mà Đồng nhận kể từ HQ Lam Sơn
713. Đồng gặp nàng trên ghế trường
Luật Sài G̣n khi tên Phượng đă vô t́nh
nhắc nhở Đồng về màu đỏ thắm
quyến rũ của phượng vĩ xứ Huế.
Là màu đỏ anh luôn tha thiết nhớ thương.
Đó cũng là màu chiếc beret hiên ngang trên đầu
anh. “Tôi soi ngọn đèn pin ḷ ḍ từng
chữ và chợt buồn nhận ra, em vẫn không
hiểu ǵ về tôi trong khi mỏi ṃn một nhịp
cầu Ô Thước. Lá thư Phượng thật dài
nhưng chẳng có ǵ để đọc. Kể cho tôi
làm ǵ những ồn ào phố thị, kể cho tôi làm
ǵ những khúc luân vũ đă làm mắt em say. Sài g̣n
của em vẫn thế và giảng đường
của em vẫn thế. Em không nói bên chiếc ghế
tôi ngồi đă có ai quấn quưt? Nhưng tôi biêt
đó không c̣n là thế giới của tôi, và
chiến tranh dường như chưa bao giờ lai văng
dưới những tàng cây bốn mùa dim mát. Không
biết những tin tức từ mặt trận có làm
sân trường đại học bớt tươi màu
áo, mà sao những vô t́nh của em và bạn bè đối
với cuộc chiến càng làm tôi xa cách vô cùng. Tôi không
định trả lời thư cho Phượng,
biết có c̣n trở về để thêm chi nhiều vương
vấn, những giọt nước mắt chính danh
đă lan tràn trên đất nước, c̣n khơi thêm
làm ǵ chút sầu muộn người dưng. N + 15, phi hành đoàn H34 của Tr. úy
Chung Tử Bữu và Th. úy Bùi Tá Khánh cùng với Mê Vô
Em vào phiên trực cho phi đội của anh. 2
chiếc H34 nhận lệnh cất cánh từ phi trường
ĐN bay thẳng đến Khe Sanh. Chiếc H34 thứ
hai do anh Yên làm phi công chính. “Đúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ
làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ
phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề
và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực
chỉ Đông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa th́
chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi,
không màng ăn trưa v́ nóng ḷng muốn cứu đồng
đội nên chúng tôi quyết định phải vào
ngay Đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn
được. Trong khi anh Bửu vào tŕnh diện
với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SĐ Dù để
đặt kế hoạch cho chuyến bay th́ tôi và Mêvô
Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn c̣n đầy
b́nh trước, dư sức bay không cần phải
refuel. Một lát sau từ pḥng briefing ra, anh
Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ
quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở
theo Th.úy Vinh và một tiểu đội Tác chiến
Điện tử Dù của anh ta cùng với 18 chiếc
máy “sensor” vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để
phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước
phi hành đoàn của Tr. úy Nguyễn Thanh Giang về. 15
phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn
dọn đường mở một hành lang dọc theo
quốc lộ 9, dập vào những địa điểm
được ghi nhận có pḥng không địch v́ t́nh
h́nh lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên
đến cấp tiểu đoàn pḥng không gồm
đủ loại từ 37 mm, 12ly8 và lần đầu
tiên c̣n nghe đâu có cả SA7 nữa. Về không trợ th́ có 2 chiếc
Gunship của phi đoàn 213 do Tr. uư Thục bay lead trước
mở đường. Trước đó trong lúc briefing, anh
Bửu đă được nói chuyện trực
tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và
được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang
đă dùng chiến thuật “lá vàng rơi”, từ trên
cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng v́ pḥng
không địch quá dày đặc nên khi gần đến
đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt
xuống găy đuôi nằm bên cạnh ṿng rào pḥng
thủ ngoài cùng của Lữ Đoàn 3 Dù. Phi hành đoàn
vô sự, chỉ có copilot là Th. úy Vơ văn On bị xây
xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát
được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước
khi bỏ phi cơ, Mêvô Trần Hùng Sơn không quên vác
theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm
tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ c̣n cách
mặt đất độ 15 thước th́ trúng
một tràng đạn pḥng không, phi cơ phát hoả,
bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, MêVô
Em la khẩn cấp trong máy - Đáp xuống, đáp
xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy. Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo
động cho chiếc wing đang bay cũng gần
đó -Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng
xuống nữa - trong khi vẫn b́nh tĩnh đáp
xuống. May mắn là đạn trúng vào b́nh xăng
phụ đă hết xăng, chỉ c̣n ít hơi đốt,
nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại
uư An ở Bù Đốp hôm nào. Vừa chạm đất,
theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió,
xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ.
Mọi người chạy ngược lên đồi
về phía hàng rào pḥng thủ thứ nhất của
Đại Đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước.
Tôi c̣n tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào
trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương
tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù
bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa
chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy
“sensor” vẫn c̣n nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp
vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi
theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù - trên
đây nè thiếu uư, tụi tôi bắn yểm trợ
cho - Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ
lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở
như ḅ rống. Không quân mà hành quân dưới đất
th́ phải biết là mệt đến đâu. Tôi
nhớ măi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971. Một lát sau, theo chỉ dẫn của
anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần
về đến bộ chỉ huy Lữ Đoàn 3 Dù.
Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng
tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi
được giới thiệu với các sĩ quan
trong ban tham mưu Lữ Đoàn 3. Đầu tiên là Đại
tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 3, Th.tá
Đức trưởng ban 3, Đ.úy Trụ phụ tá ban
3, Đ.úy Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, Tr. úy Chính sĩ
quan Không trợ Dù, Th.úy Long phụ tá ban 2. Về phía
pháo binh th́ có Tr.tá Châu Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3PB
Dù và Đ.úy Đào Văn Thương trưởng Ban
3 TĐ3PB Dù. Đại tá Thọ mừng anh em “mới
đến” mỗi người một điếu
Havatampa và một shot Hennessy để lấy lại tinh
thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc,
nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà
mấy “ông” Nhảy Dù vẫn thản nhiên hút ś-gà
Cuba và uống cognac như máy! Quả các xếp ăn
chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng ch́
thật. (4) N + 15: Địch vẫn pháo kích không
ngừng, ngoại trừ khi có phản lực hoặc
trực thăng chiến đấu trên vùng. Hầu như
mọi nơi trên Đồi 31 đều trúng pháo, có
nơi trúng ba bốn lần, đất cày sâu, loang
lổ, đá bụi văng tứ phía. Thật không
rỏ v́ sao có người th́ chết ngay khi lănh
trọn một quả vào ngay hầm ḿnh, người
th́ bị thương chưa kịp cứu th́ bị
trúng thêm, kẻ khác th́ cuộn ḿnh lại như con
cuốn chiếu, ôm đầu che tai, đôi khi che luôn
cả mặt khi pháo rớt lia chia xung quang hầm,
thầm nghĩ không biết khi nào đến phiên ḿnh. “Ngày tháng cứ qua theo tầm bay
lửa đạn, cả trăm trái pháo mỗi ngày băm
nát ngọn đồi vô danh bỗng chốc trở thành
cơi chết, cái chết cứ lần hồi gậm
nhấm từ Đông qua Tây, từ Nam lên Bắc,
từ những hầm hố kiên cố ở trung tâm
cứ điểm đến dăy chiến hào chỗ sâu
chỗ cạn bao bọc ngoại vi, tất cả
bỗng trở nên b́nh đẳng trước sức công
phá dữ dội của đạn pháo, mặt trận
bỗng nhiên nghiêng hẳn về một phía, chúng tôi
ngồi đây, ngày và đêm thúc thủ trước
tiếng súng địch. Hàng ngũ cứ thưa
dần, thà rằng cứ lao thẳng vào mũi súng, thà
rằng đối mặt với quân thù, thà rằng
chết trong tiếng ḥ reo xung trận, có đâu cứ
len lỏi măi dưới hầm hào mà cũng chỉ
đợi chờ cái chết… Chiều nay, Đồng đă nh́n
thấy địch quân điều quân lui tới, qua
lại thấp thoáng dưới bóng cây bên những
triền núi xa xa, và biết đâu chừng đă mon
men gần căn cứ, tuy các Đại đội
bạn ở bên ngoài vẫn chưa có phát hiện nào
về sự xuất hiện của địch. Mọi
việc vẫn phải làm thật nhanh và thận
trọng, xuất phát, lục soát, rải quân… Công
việc quá b́nh thường của một Trung đội
tác chiến mà sao giờ này lại quá nặng nề.
Mà không nặng nề làm sao được khi quân
số tiêu hao ngày một trông thấy. Rời Sài G̣n
Đồng dẫn theo hai mươi sáu thanh niên,
mặt mày tươi như trên đường đi
học, rồi lại c̣n được bổ sung thêm
qua trực thăng tiếp liệu hai chàng lục
tỉnh mới cáu cạnh, và Nghĩa, một Chuẩn
úy mới ra trường, vị chi là hai mươi chín
mống. Nghĩa, người Sài gon, nhà ở
đâu miệt Khánh Hội, Hàm Tử, cũng có mẹ
già và em gái, cũng mang cái hồn nhiên của tuổi
trẻ vào mặt trận như ngày Đồng mới
ra trường. Hồi đó, Đồng c̣n được
may mắn học nghề với Trung úy Dũng tại
ven đô, hành quân an nhàn quanh hảng bột ngọt An
Phú Đông, Tân Thới Hiệp, Nhị B́nh, sáng lai rai
cà phê và pháo, chiều về c̣n cóc với ổi
đưa cay. Có đâu như Nghĩa, giày trận c̣n
bóng nếp quân trường, đă được ném
ngay vào cơi chiến trường dữ dội.Tôi đă
không c̣n dịp bàn giao Trung đội cho Nghĩa như
ngày nào Trung úy Dũng đă giao trách nhiệm cho tôi.
Nghĩa đă hy sinh không lâu sau đó. Chưa tới nữa tháng, Trung đội
chỉ c̣n lại mười tám ngoe, kể cả tôi.
Đă thêm hai cái chết đau đớn của Binh
nhất Măo và tân binh Xuất cứ dai dẳng ám
ảnh tôi. Gom góp, nhặt nhạnh lại không đầy
cái nón sắt, đó là xác Măo sau khi căn hầm
của anh hứng gọn một trái công phá. C̣n
Xuất th́ cứ trào ra những bụm cơm sấy
trộn lẫn máu trong cơn hấp hối, máu và cơm,
cơm và máu lẫn với những bọt khí ào theo
vết thương vỡ banh lồng ngực, mảnh
đạn như một lưỡi ŕu phạt ngang người,
khi anh ngồi bên miệng hầm nh́n bâng quơ
những đỉnh núi, tay bốc từng bụm
gạo sấy thẩy vào miệng. Tôi cũng ngồi cách
Xuất năm vị trí trong cùng một phiên gác
chiều, và chỉ kịp la lên “Xuống hầm! Pháo
kích!” nhưng không c̣n kịp nữa, có lẽ
tiếng gạo sấy khô khan vỡ rao rào trong
miệng đă làm Xuất không nghe được
tiếng pháo địch rời ṇng, viên đạn quá
tầm rơi ngoài sườn đồi lại tai quái
gởi ngược về một mảnh lớn
nhất. Khi chúng tôi đến th́ Xuất đă như
thế, môi anh c̣n mấp máy điều ǵ, tôi đă
cố cúi sát người để chỉ nghe thều
thào h́nh như tiếng “Mẹ ơi”…và Xuất
đi hẳn. Số bị thương mỗi ngày gia
tăng. Giàn Hạ sĩ quan chỉ c̣n lại thượng
sĩ Đàng và trung sĩ Yến, tôi kể như
giảm cấp số làm Tiểu đội trưởng,
chỉ huy một Tiểu đội Khinh binh và một
tiểu đội hỏa lực. Mà nào phải chỉ
Trung đội chúng tôi? Hai trung đội kia cũng lâm
vào t́nh trạng tương tự, giật gấu vai cũng
không đủ quân để trải kín tuyến pḥng
thủ vốn dĩ được thiết lập cho
một Đại đội mạnh, đầy đủ
quân số. Một tuyến dài như thế, lại
phải duy tŕ ba vọng gác đêm, hai vọng gác ngày,
chia đều chi mỗi người cũng ôm hơn năm
tiếng mỗi ngày trực gác.Kể cả tôi cũng
chia xẻ ba giờ đốc canh ca thứ nhứt,
trong t́nh trạng căng thẳng kéo dài, mặt mày ai
nấy hốc hác thấy rơ. Đồng không dám nói thay những người
lính của ḿnh, nhưng anh hiểu họ, hiểu
nỗi lo âu căng thẳng mà tất cả cùng chia
sẽ, như anh chàng Ngọt đó, giữa lúc đạn
pháo ầm ỳ trải lên trận tuyến, bỗng
nhiên hắn ta nhảy vọt lên nóc hầm tuột phăng
quần chỉa cu ra phía trước, miệng la lớn
một hơi dài như tiếng hú của một con thú
bị thương… “Con c…”Yến phải liều
mạng nhảy lên cặp cổ lôi xuống. Chúng tôi
gần như ai cũng đang “chạm giây” như
thế mà có lẽ sự nổ bùng của chiến
trận là liều thuốc cuối cùng để
giải thoát, sự giải thoát tận cùng trên hai nghĩa
trắng đen trần trụi. Mọi người đều biết
được lực lượng của địch không
c̣n xa căn cứ, và có lẽ họ đang ở
lại tuyến xuất phát để chờ đợi
giờ “G”, khi mà mọi tần số trên máy
truyền tin đều tràn ngập ngôn ngữ xa lạ
của quân thù. Trước mặt Đồi 31 có
một hẻm núi, từ trên đồi nh́n xuống
chỉ nhận biết con người nhờ sự di
động, nếu anh ta đứng yên th́ không thể
nh́n thấy, hẻm núi có một khoảng trống
giữa hai lùm cây rậm rạp, thế là địch
chơi tṛ cân năo. Không kể ban đêm là lúc chúng tôi
không thể quan sát, c̣n ban ngày có mặt trời lên là
có người băng qua khoảng trống đó,
mặc kệ không biết bao nhiêu bom đạn
được điều chỉnh chính xác xuống
mục tiêu, dứt tiếng súng là có người băng
qua, ḍng ngưới cứ tưởng như bất
tận, rồi đêm đêm, từng vệt đèn và
tiếng động ầm ỳ của chiến xa
dội lên căn cứ, dội lên mỗi người
lính nỗi lo âu thật sự về khả năng
chống chiến xa của đơn vị, khi mà
những trái M72 chưa một lần chứng minh
hiệu quả trước vỏ thép xe tăng, và khi mà
cả căn cứ đă trần trụi, ngon lành như
một đùi thịt nướng sau các trận pháo kích
liên tục của đối phương. Chúng tôi không
có lấy một chướng ngại vật, không có
lấy một hàng rào kẽm gai, hay một trái ḿn
chống chiến xa để an ḷng phần nào lực
lượng pḥng thủ. Và chúng tôi cũng chẳng phải
chờ đợi lâu hơn nữa. Mấy ngày sau,
cuộc tấn công thật sự đă bùng lên trước
khi ngày chưa đứng bóng.” (3) N + 15. Phi Đoàn 219 đă được
báo cáo đầy đủ về chiếc H34 thứ
hai của Tr. úy Bửu cùng chung số phận với
chiếc H34 đầu tiên của Tr. úy Giang rớt trên
Đồi 31 với 2 phi hành đoàn nằm ụ
tại nơi này. “Buổi chiều cùng ngày, vùng rừng
núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm
bữa cơm dă chiến với ban tham mưu Lữ Đoàn
rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được
ngủ chung một hầm với anh Nguyễn Quốc
Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường
Vơ Bị Đà Lạt. Anh cũng là anh ruột của Tr.
uư Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi
đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày
một căng thẳng hơn v́ đối với
cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện
của căn cứ 31 trên hệ thống đường
ṃn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào
yết hầu của chúng. V́ thế cộng quân
đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên
căn cứ 31 với ư định đánh bật căn
cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng. Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay
tiếp tế nào vào được v́ địch quân
luôn di động dàn pḥng không của chúng khiến
KQVN và HK không phát huy được ưu thế
của ḿnh. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến
ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và
thỉnh thoảng mới có một đợt B52
rải thảm ́ ầm xa xa vọng đến rồi
mọi sự lại ch́m vào rừng núi trùng điệp.
Ngược lại, quân Bắc Việt tập trung bao vây,
tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm
quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù”
(4) N + 18. Hôm nay là ngày 25 tháng 2, 1971. Cuộc tấn công của địch
bắt đầu từ rạng sáng. Địch pháo kích
như điên vào căn cứ, cùng lúc tung hàng đợt
quân từ hướng Bắc đánh vào Đồi 31.
Tiếng súng nổ rân, khói lửa mịt mù. Tiếng
la hét trong máy thật hổn loạn. 3 toán tiền
đồn của ĐĐ 34 bị tràn ngập bởi
bộ binh địch, cùng lúc phía ĐĐ 32 cũng
đang bị xe tăng địch tấn công hàng ngang
ngay trước vị trí. “Các Đại Đội ngoại vi thúc
thủ trước quân số quá đông đảo
của đối phương trong khi c̣n phải
chật vật đối phó với chiến xa đang
tràn lên như chỗ không người, nên Đại
Đội 32 được lệnh rút nhanh về căn
cứ 31 để bảo toàn lực lượng, riêng
Đại Đội 34 rút về chân đồi phía
Đông. Thế nhưng, trước khi ĐĐ
32 về đến căn cứ th́ chiến xa địch
đă lổm ngổm ḅ lên vị trí của Muôn, và
phần việc của trung đội 2/ ĐĐội
33 của Đồng đă tới. Tôi nh́n thấy
tổ tiên đồn bắn trúng đích một
chiếc, cụm lửa vàng khè lóe lên, phủ trùm khói
đen trên mục tiêu. Khói tan, chúng tôi tưởng như
nằm mơ, chiếc xe tăng vẫn chậm răi
tiến tới, ṇng đại bác trên chiến xa
vẫn khạc lửa dữ dội vào tuyến pḥng
thủ căn cứ. Muôn cố gắng bắn thêm hai
trái nữa vẫn vô hiệu, anh xách súng dẫn đồng
đội lăn xuống triền đồi khi thêm sáu
chiếc tăng nữa cùng với bộ binh địch
ḥ hét áp đảo tràn lên vị trí, chúng tôi hướng
tất cả hỏa lực bắn che cho Muôn và một
vài toán của Đại đội 32 rút về căn
cứ, cùng lúc đó hai chiến đấu cơ A 4
Skyhawk và một phi tuần trực thăng vơ trang Cobra
của Mỹ xuất hiện, oanh tạc mạnh mẽ
vào đội h́nh tấn công của địch. Tất cả hỏa lực của
đơn vị của tôi, cùng với một khẩu
đội B3 trực xạ cận pḥng và các tuyến
tiên liệu được các pháo đội khác
ở căn cứ A Lưới, Đồi 30 bắn
yểm trợ đă tạo nên một hàng rào lửa
vững chắc, chặn hết lực lượng xung
kích của Bộ Binh địch ngay tại vị trí cũ
của Muôn, xác địch ngă trên triền đồi,
lăn xuống vực thẳm, ngổn ngang như
những khúc gỗ từ một khu rừng vừa
đốn vội, chưa bao giờ chúng tôi phải
bắn nhiều như thế, hai khẩu M60 đă thay ṇng
liên tục, quạt từng giây đạn quét phủ
lên mặt trận, phải nói Yến bắn đại
liên thật tài, chân hai càng được xếp
gọn, ṇng súng tựa hờ lên công sự tạo
một tầm chuyển dịch rộng lớn và
dễ dàng cho xạ trường, để từ đó
phủ gọn tuyến tiếp cận của địch
dưới tầm khống chế của con gà ṇi dũng
mănh. Mất sự hướng dẫn của
Bộ Binh, chiến xa địch khựng lại, như
muốn chỉnh lại đội h́nh cho một đợt
xung phong khác với hơn mười chiếc đă
ở trong tầm quan sát của chúng tôi. Ngay lúc đó
hai chiếc Skyhaw nối đuôi sà xuống sau trái khói
chỉ điểm, từng trái napal hừng hực xé
gió quăng xuống mục tiêu chính xác, dũng
cảm, mặc cho hỏa lực pḥng không đạn
chi chit phủ kín đường bay. Trận địa
địch bùng lên trong cánh rừng xăng đặc,
hai chiếc xe tăng tiền kích ngập trong khói
lửa bốc cháy dữ dội, lính xe tăng nhảy
ra khỏi xe, người cháy phừng như ngọn
đuốc, lăn lộn, quơ quào rồi ngă gục
theo tiếng nổ bung của chiến xa trúng đạn.
Lên tinh thần, Khinh binh Thông cùng với ba chiến sĩ
khác băng vọt ra khỏi chiến hào, chạy nhanh
xuống lưng chừng đồi, cơng về
được hai thương binh của ĐĐ 32 và
một của trung đội ḿnh từ tổ tiền
đồn rút về, nửa đường th́ bị
trúng đạn. Hạ sĩ Nhất Muôn đă tử
trận tại vị trí đó. (3) N + 18, Từ sáng, tất cả hai nhóm
phi hành đoàn 6 người của cả hai chiếc
H34 được lệnh ra nằm sẳn tại các
giao thông hào gần băi đáp chờ nguyên cả
một phi đội gồm 3 chiếc H34 của phi
đoàn 219 mang tiếp liệu vào đồng thời
tải thương binh Dù và bốc luôn cả 6 người
cùng một lúc. “Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, Tôi và anh
Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với
nhau trong một hầm trú ẩn. Đến trưa khi chúng
tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ xa xa th́ cũng
là lúc địch khởi đầu trận “tiền
pháo” dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai
từ trong hầm cứu thương nh́n qua bên kia
đồi đối diện, cách nhau một cái yên
ngựa, tôi thây rơ hai chiếc xe tăng T-54 của
cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân
tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh
đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia
lửa từ ṇng súng phụt ra, tôi và anh Bửu
thụp đầu xuống cùng nh́n nhau như nhắc
nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói
với nhau mỗi khi lên đường hành quân
“Trời kêu ai nấy dạ!”. Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ
Dù chống trả mănh liệt, nhất là những pháo
thủ pháo đội B trên Căn Cứ 31, với
những khẩu pháo đă bị hỏng bộ máy
nhắm v́ pháo kích của địch, họ phải
hạ ṇng đại bác để bắn trực
xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi
và trong những loạt đạn đầu tiên đă
hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để
trả giá cho hành động dũng cảm này,
nhiều binh sĩ Dù đă nằm xuống, có người
nằm chết vắt trên những khẩu pháo của
họ.” (4) Trở về lại với trung đội
2, ĐĐ 33, các binh sĩ ND vẫn c̣n chiến đấu
tại tuyến pḥng thủ. T́nh h́nh tồi tệ,
tuyến pḥng thủ thưa dần. Trước mặt
là một lực lượng địch nhiều hơn
gấp mấy chục lần, có luôn cả chiến xa
dẫn đường. “Trung đội đă chiến đấu,
trước hết và duy nhất chỉ là v́ sự
sống c̣n của bản thân, phải lấy hết
sức ḿnh đương cự lại những bước
chân của tử thần đang lần lượt
gọi tên từng mạng sống, không c̣n con
đường nào khác, không ai là anh hùng, không ai là dũng
sĩ, không ai muốn “anh dũng hy sinh” mà vẫn
phải chết như rơm như rạ. Trận chiến vô cùng ác liệt,
tất cả các sự kiện đă, đang và
tiếp tục được mô tả, gần như
diễn ra cùng một lúc, dồn dập, chồng chéo lên
nhau, đan chặt vào nhau rồi như bị một
sức mạnh vô h́nh xé bung ra trăm ngàn mảnh, mà
Đồng, dù đă tận mắt chứng kiến,
đang là một chiến binh trực tiếp chiến
đấu trong những giờ phút gian nguy đó,
vẫn không tài nào lột tả hết được
tất cả mọi diễn biến hung bạo, tàn
khốc của chiến trận.. Lợi dụng lúc thưa tiếng súng,
tôi nhổm dậy luồn theo giao thông chạy dọc
tuyến Trung đội, kiểm điểm lại
lực lượng. Toán tiền đồn sáu người
chỉ về được ba, hai người chết
tại vị trí, Muôn đă để nỗi ước
mơ b́nh thường của ḿnh vỡ vụn từ
sau lưng ra trước ngực trên đường
về. Rồi ngay tại tuyến, một vị trí khác
lại bị trúng đạn từ chiến xa địch
khiến một chết; cái chết của người
lính tử trận giống nhau từ thiên cổ, không
phân biệt bên này hay bên kia chiến tuyến, cũng
đen điu đau đớn, cũng co quắp
quằn quại, tay bấu chặt lấy mặt đất
như không đành ĺa nỗi bọt bèo của
cuộc sống… Trong khi phía chúng tôi, áp lực địch
tạm thời giảm nhẹ tuy họ vẫn c̣n
ở đó, th́ phía bên kia, tuyến pḥng thủ
của Trung đội 3 lại vô cùng nguy khốn. Toán
tiền đồn năm người của trung đội,
do một binh nhất khinh binh chỉ huy, tại một
chỏm đồi thấp hướng Tây Nam căn
cứ vừa bị tràn ngập, sau khi đă chiến
đấu đến người lính cuối cùng, ngoan
cường, đẩy lui bốn đợt xung phong
của địch, tôi đă nghe trong máy tiếng gào khàn
khàn tuyệt vọng lồng trong tiếng súng vang
trời của những người quyết tử
của truyền thống một đổi năm, mười
nếu chẳng may thất thế. Không cường
điệu chút nào khi tuyên dương họ như
những anh hùng đă chết trong vinh quang, danh dự
khi địch tràn lên vị trí bằng không biết
bao nhiêu xương máu đánh đổi. Ngay tại vị trí này, địch
nhanh chóng bố trí một cụm hỏa lực
mạnh mẽ gồm 2 cây 82 ly không giật và một
12ly8 vừa pḥng không, vừa bắn trực diện,
khống chế trọn vẹn vị trí của Trung
đội 3. On la chói lói trên máy để xin lệnh
Đại Đội…nó bắn quá chịu hông
nổi, sập bốn hầm chết hết rồi.
Đại đội lại gọi tôi, hỏi có tăng
cường cho 3 được không? Tố báo cáo t́nh
h́nh trên tuyến của ḿnh và đoán chắc hướng
tấn công chính là ngay tại nơi đây, khi phía trước
mặt không phải là năm hay sáu chiến xa, con
số đă trên mười chiếc đếm
được và vô số bộ binh địch đang
lúc nhúc dưới những cành lá ngụy trang. Pháo địch vẫn rót tràn đều
lên vị trí, san bằng, sạt phẳng mọi
thứ. Có điều bây giờ chúng tôi không c̣n lo
lắng, v́ không c̣n phân biệt được đâu
là pháo phe ta, đâu là “cà nông” phe địch
trừ khi nó nổ , mà đă nổ rồi th́ phận
ai nấy biết, đỉnh đồi trở nên
bằng phẳng, và h́nh như đă thấp hơn
phần nào so với khi chúng tôi vừa mới đến,
nhờ thế chỉ cần quay lưng nh́n về phía
thằng 3, chúng tôi cũng nhận rơ vị trí lợi
hại của cụm hỏa lực đó, một vài
trái bắn hụt lao vèo qua phía chúng tôi rồi mất
hút nổ xa xa, họ bắn liên tục nên họ quên
một điều là cùng chiến đấu với chúng
tôi c̣n có pháo đội B3. Tôi khom người chạy
lên vị trí khẩu trọng pháo, chỉ cho trung Sĩ
Nhất khẩu đội trưởng vị trí 82 không
giật của địch. Và ṇng pháo từ từ
hiệu chỉnh, tôi nín thở theo cái gục đầu
chầm chậm của khẩu pháo 105 ly hướng
về mục tiêu…và “Bắn”. Người hạ sĩ
pháo thủ giật c̣, viên đạn rời ṇng
trực chỉ khâu đội địch Ầm…chúng
tôi nhảy lên reo ḥ sung sướng khi nh́n thấy rơ
ràng khẩu 82 ly không giật của địch tung
bắn lên trời sau tiếng nổ chính xác. Chỉ
một viên đạn thôi, các chiến sĩ pháo binh
đă triệt tiêu hiểm họa đó. Tuyến của chúng tôi nằm cách xa
Bộ chỉ huy Đại Đội, nên gần như
độc lập tác chiến, tôi chỉ kịp thông báo
cho Đại Đội là địch bắt đầu
tấn công trở lại, rồi nằm hụp
xuống nghe lằn đạn veo véo trên đầu,
đội h́nh địch từ triền núi bên kia
xuất hiện đông đảo trên đỉnh đồi
rồi chia nhau tràn xuống, lấp ló trồi sụt dưới
mưa bom bảo pháo, pháo địch bắn ta, nếu
quá tầm cũng nổ trên đầu địch, bom
đồng minh yểm trợ, lạng lách thế nào không
biết, cũng roi ngọt xớt xuống đầu
ta, bêu đầu sứt trán, la hét om ṣm tiếng Đức,
tiếng Mỹ, thây kệ mẹ nó, đằng nào cũng
phiêu diêu miền cực lạc. Bắn phá một hồi, hai chiếc
Shyhaw rời vùng và nhanh chóng mất hút cuối chân
trời, c̣n lại hai Cobra đảo lui đảo
tới ạch đùng ạch đùng mấy dây hỏa
tiễn trúng ngay vào đám xe tank cũng chẳng
thấy hề hấn ǵ, trực thăng bắn cứ
bắn, chiến xa địch vẫn tiến trong đội
h́nh tấn công dưới sự che chở của
hỏa lực pḥng không. Lần này họ thay đổi
chiến thuật sau khi đă nướng khá nhiều
bộ binh trong đợt xung phong trước, thiết
giáp xung kích mở đường, bộ binh lom khom
lấp ló theo sau, không c̣n ḥ hét ngậu xị. Hai chiếc phản lực khác vào vùng
lần này là Phantom F4C, trong khi hỏa lực pḥng không
cũng đă áp sát chân đồi, OV10 lảng vảng
trên cao bắn trái khói chỉ điểm cho Phantom lao
xuống mục tiêu. Điều không may cho chúng tôi là
trong đợt tấn công đầu tiên của phi
tuần này, trái bom lửa vừa phủ lên chiến
xa, th́ đồng thời chiếc F4 cũng bị
bắn tung đuôi trong khi ngóc đầu lên sau đợt
oanh kích. Múi dù sặc sỡ mở bung trước khi
con tàu bốc cháy, lảo đảo đâm vào vách núi
nổ vụn. Thế là tất cả máy bay có mặt
trong khu vực, kể cả hai chiếc Skyhaw mới vào
vùng chưa bắn một phát đạn, bảo về
cho phi công lâm nạn chờ trực thăng cấp
cứu. Chúng tôi không rơ họ có cứu được
đồng đội hay không, nhưng từ giây phút
đó, chiến trường gần như bơ ngơ cho
chiến xa lồng lên áp đảo. Xe tăng địch lập tức ào
ạt xung phong, hai…ba…năm bảy mười một
chiếc tất cả cùng lao xuống, bỏ lại
bộ binh phía sau, một chiếc ḅ ngang chông chênh bên
sườn đồi, lănh nguyên trái pháo 105 ly trực
xạ hất nhào xuống vực thẳm, chúng vừa
bắn vừa tiến và đă chiếm được
băi trực thăng. Mọi người đă thấy
khả năng diệt tăng của M72 không nhiều và
không thể bắn ở khoảng cách quá xa nên
phải chờ đợi. Tất cả hỏa lực
của chúng tôi chỉ có thể tạm thời tŕ hoăn
tốc độ tiến quân của bộ binh địch
trong trời gian ngắn, khi chiến xa chưa tiếp
cận vị trí và tách chúng ra. Hạ sĩ Nhất Chính và Tiểu
đội Khinh binh lănh nhiệm vụ đón đánh
đợt đầu tiên khi xe tăng vượt qua băi
đáp, tiến vào yên ngựa hẹp trước khi bám
vào căn cứ, đây là địa thế duy
nhất có thể khống chế đội h́nh địch,
bắt buộc chúng phải lần lượt từng
chiếc một theo hàng dọc tiến lên. Chính dẫn
theo B́nh, Tám và Ngôn, mỗi người một cây M72,
luồn theo giao thông hào, chận ngang con đường
xuống băi tiếp tế. Chuẩn Úy Nghĩa muốn
theo Chính, tôi nh́n anh ái ngại, thôi Nghĩa à! Cần ǵ
phải vội, anh ở đây chờ thay tôi là
tốt nhất, ai cũng sẽ có phần…Tôi nghĩ
thầm nhưng không nói với Nghĩa đă thấm cái
đau xót trước những thân xác đồng đội
ngay từ mặt trận đầu tiên của đời
quân ngũ, mặt anh hừng hực, mắt long lên như
con thú bị thương. Tâm lư chung của những
kẻ đang không c̣n đường trở lại, và
thế là phải vượt lên phía trước, vượt
qua cái hèn bản chất của chính ḿnh, không c̣n
một khái niệm ǵ giữa cuộc sống và cái
chết, mà có khi chết c̣n thanh thản hơn
sống. Chúng tôi hồi hộp nh́n theo hai
chiếc xe tăng dẫn đầu đang ḅ theo con
dốc hẹp, đám bộ binh đă bị hai cây
đại liên gài chéo cánh sẻ, cùng với tốc
đội bắn nhanh của M16 đè đầu,
nằm dán xuống đất lănh pháo, ḅ lui ḅ tới
không theo kịp chiến xa, kể như thiết giáp
đă bị mù nên nó cũng thận trọng xử
dụng tối đa cây đại bác dọn đường. Chính chờ chiếc đi trước
bắt đầu ghếch mũi súng lên đầu
dốc, phơi toàn bộ cái ức xám xịt trước
mũi súng, khoảng cách chừng hai mươi mét, anh
b́nh tĩnh bóp c̣, trái đạn đen thui vẽ
một đường thẳng chớp nhoáng lao vào
mục tiêu, nổ bùng vào cái mặt ù lỳ dị
hợm, tưởng như mọi thứ phải tan tành
hay bốc cháy trước sức công phá trực
diện của trái hỏa tiễn, thế nhưng
chiếc chiến xa chỉ khẽ khựng lại, như
có vẻ giật ḿnh chút đỉnh, rồi lại
tiếp tục tiến lên, không cháy, không nổ, không
hề suy suyển. Thấy nguy, Tám bồi thêm một trái
trúng ngay hông pháo tháp khi nó vừa vượt ngang
tầm, vẫn khỗng hề hấn ǵ, thế là
cả toán đành dạt ra, ném tới tấp lựu
đạn vào gầm xe, trong khi chiếc xe đi sau cũng
vừa bám theo được và tác xạ đại liên
tới tấp vào vị trí của Chính, tên xạ
thủ 12ly8 chưa bắn được bao nhiêu đă
lănh nguyên một tràng M16 gục xuống, xác hắn
vắt vẻo trên thành xe. Trung đội 2 bất lực để
cho chiếc số 1 tiến thẳng vào căn cứ,
chiếc số 2 vừa nối theo th́ Chuẩn Úy Nghĩa
nhảy phắt lên, thẩy gọn một trái M26 vào
trong ḷng pháo tháp, anh chưa kịp nhảy xuống th́
trúng đạn, gục chồng lên xác địch
thủ cùng lúc với tiếng nổ “bụp”
tức tối, khói từ trong chiếc chiến xa
bốc lên, sao nó vẫn chạy, vẫn tiến lên phía
trước? nó chạy quờ quạng thêm một
đoạn ngắn rồi nổ tan ra thành hai mảnh,
pháo tháp bật ngược ra sau cùng với xác của
Nghĩa. Được chiếc số một
mở đường, cả đám xe tăng cùng ào
ạt tiến lên kéo bộ binh đông như kiến
cỏ, lúp xa lúp xúp, một chiếc trờ tới
ủi chiếc bị cháy xuống sườn núi,
lấy đường tiến lên, trong lúc chiếc
số 1 đă vào hẳn vị trí trung tâm, bắn phá
Bộ Chỉ Huy Pháo Đội và mon men t́m tới
Lữ Đoàn. Đồng và lính của anh cố
gắng dùng hết hỏa lực tŕ hoăn bước
tiến của xe tăng địch, nhưng vô ích. Không
có một trái M72 nào có khả năng công phá vỏ thép
chiến xa dù các chiến binh đă thừa gan góc
tiếp cận từ mọi hướng, trước,
sau, hông, bụng, pháo tháp, bánh xích. Chúng đóng kín pháo
tháp, chỉ xử dụng đại bác và đại
liên song hành càn lên hầm hố, công sự, giao thông hào.
Mũi xung kích của địch càn lên chiếc hào, xé
Trung Đội 2 của Đồng ra làm hai mảnh,
với t́nh thế đó, bắt buộc phải ra
khỏi vị trí cố thủ, đánh cận
chiến với…xe tăng. (5) Toán phi hành của Th. úy Khánh vẫn c̣n
núp trong giao thông hào khi chiến xa địch bất
chấp tổn thương vẫn tiếp tục ḅ
dần đến vị trí của anh, theo sau lưng lúc
nhúc cả trăm lính tùng thiết. Tiếng nổ
của đạn nhỏ đạn lớn, tiếng
đạn rời ṇng 105ly bên cạnh, tiếng ầm
ỉ của chiến xa địch, tiếng la hét
của người bị thương lẫn những
binh sĩ đang chiến đấu cọng thêm với
mùi bụi đất, của khói, mùi thuốc súng, mùi
của…thần chết khiến Khánh co rúm người
trong hầm. “Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe
tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những
chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi
lại hướng súng đại bác về đồi
chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi
tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh
tạc vào đội h́nh địch, và lại phá
hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn
tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy
nổ của những chiếc H34 đang vần vũ
trên cao như lo lắng cho số phận những đồng
đội của ḿnh. Cho đến khoảng sau 5
giờ chiều th́ địch tràn lên chiếm
được đồi. Chúng lùng xục từng
hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng.
Biết không thể làm ǵ hơn, tôi và anh Bửu tháo
bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.”
(4) Trở về lại với trung đội
2 vẫn đang cận chiến với chiến xa và lính
tùng thiết của địch. T́nh h́nh quá hổn
loạn, cận chiến nơi này, phản kích nơi
kia. Bắn Bắn. Quăng Quăng. Theo linh tính. Theo
trực giác. Nằm xuống rồi lại ngồi
dậy. Lăn qua hố này, rồi đến hố khác.
Đứng dậy bắn một tràng đạn,
thụp xuống khi kịp thấy lóe sáng của B40 hướng
về ḿnh rồi tiếng nổ chát tai sau lưng… Sau đây là những giây phút cuối cùng
của trận đánh trên Đồi 31: “Đă có bốn chiếc tăng địch
lọt vào căn cứ, trong lúc bộ binh vẫn c̣n
vất vả phía ngoài, chúng tôi vẫn để hai cây
đại liên, và hai cây khác của Trung Đội 1
vừa mới chuyển qua, bắn gh́m bộ binh,
phần c̣n lại lao vào tăng địch, chiến trường
không chỉ là của Trung Đội, mà cả Đại
Đội đă lồng lên, bu kín các chiến xa,
mặc cho ṇng súng xe quay tṛn gạt xuống. Nhưng làm
ǵ được? Đă bắn hết số M72 để
găi ngứa chúng, đă ném không biết bao nhiêu lựu
đạn để làm nhột chúng, đă chỉa ṇng
M16 thật gần chỉ bắn vỡ được kính
mắt mèo…không lẽ lấy răng mà cắn?
Sức cùng lực tận, hai cây đại liên vừa
hết đạn là bộ binh nương theo khói
lửa tràn lên, không biết cơ man nào mà đếm,
chúng tôi vừa đánh vừa lùi, lùi trên xác đồng
đội, lùi trên những đôi mắt đớn
đau tuyệt vọng của những anh em bị thương
không c̣n người cứu chữa đang nằm
chờ chết. Cả ngọn đồi đă trở
thành biển lửa và máu khi tất cả hỏa
lực của hai bên đều tập trung tác xạ vào
một tọa độ duy nhất, dù mục đích
vẫn khác nhau rất xa…”bắn lên đầu tôi
đi! Vĩnh biệt! Bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh
biệt!” Trên tần số Đại Đội đă
vọng lên lời từ biệt gởi khắp bốn
phương. Câu hét trong máy truyền tin của Đ. Úy
Đương trở thành bất diệt. Hai chiếc
phản lực chúi xuống đỉnh đồi, chùm
bom đen đủi lao xuống mục tiêu là một
bầy xe tăng bốn năm chiếc, và cả chúng tôi
ḿnh trần thân trụi. Tôi sững sờ đứng
như trời trồng nh́n chùm bom lao xuống đầu
ḿnh, thật nhanh, thật nhanh, thật gần và
gần hơn nữa, rồi chỉ kịp ôm nón
sắt nằm chúi vào vách đá trong một loạt
tiếng nổ vang rền, long trời, đất đá,
sắt thép, mảnh bom, mảnh thịt người, rơi
lào rào, lịch bịch. Đồng minh oanh tạc
thật chính xác! Bom đạn không chỉ thả trên
đầu quân địch mà luôn cả ngay trên đầu
của chính quân ta trong một nghĩa cử anh hùng
của những người quyết chống trả
đến phút cuối cùng. Đỉnh đồi nát
bấy những mảnh vỡ của công sự,
những chiến sĩ cuối cùng của pháo đội
B3 cùng với Đại Úy Nguyễn Văn
Đương, người Pháo Đội trưởng
vẫn kiên cường cho đến phút cuối cùng
trong những cố gắng gan góc, tác xạ trực
diện vào xe tăng địch đang loay hoay, lúng túng
trước địa h́nh lồi lơm, hầm hố mà
khoảng cách chỉ là năm, mười mét. Kể
từ lúc đó, chiến địa mất hẳn liên
lạc với Pháo Đội B3. Ba phần tư ngọn đồi đă
nằm trong tay địch, chúng tôi chỉ c̣n giữ
được một phần Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn, Lữ Đoàn, nhưng không c̣n ai trong những
vị trí đó. Tất cả đă ra ngoài cùng sát vai
chiến đấu, và hệ thống chỉ huy liên
lạc vẫn duy tŕ đầy đủ cho đến
cấp trung đội, dù trên thực tế, một
trung đội c̣n không quá 10 người c̣n khả năng
chiến đấu. Sau khi tái phối trí lực lượng,
chúng tôi được lệnh trực tiếp của
tiểu đoàn, tổ chức một cuộc phản kích
toàn bộ trên trận tuyến, cố gắng chiếm
lại các vị trí đă mất với hy vọng không
quân sẽ yểm trợ hữu hiệu để
giữ vững căn cứ. Khi đă qua phần mở màn đầy
kịch tính của lo âu, sợ hăi nơi con người
thèm sống, khi mà khói súng đă quyện vằn
vện với mồ hôi trên mặt, khi những vết
máu đồng đội đă đông cứng trên hai
tay người lính chiến, th́ khái niệm sống,
chết bỗng trở thành vô nghĩa, nhất là trong
hoàn cảnh không c̣n có thể chọn lựa như
ở đây, tất cả chỉ c̣n là định
mệnh. V́ thế, tất cả đă hăm hở lao
lên trong một cố gắng tuyệt vọng, lại
bắn, lại thụt M72, lại ném lựu đạn,
lại leo tràn lên xe tăng địch, mà bây giờ
đă có bộ binh phối chiến, mặt đối
mặt với lưỡi lê báng súng, lăn xả vào
nhau bắn giết, đâm chém, lại loay hoay không
biết phải làm ǵ với khối sắt di động
đó, lại bị thương, lại ngă gục
giữa bom bầy pháo lũ, pháo nổ chụp, pháo công
phá, pháo nổ chậm, trên đầu chụp
xuống, dưới đất nổ hất tung lên,
phạt ngang lưng, chém ngang cổ. Bom, pháo cả hai bên
cùng bắn vào một chỗ, lính cả hai phía cùng
chia nhau lănh đủ, đạn bắn thủng xuyên màng
tang trổ ra sau ót, óc vỡ tung ra với máu, vài cái nón
sắt lăn lông lốc trên những đôi dép râu
tuột quai, nhầy nhụa trong một ḍng nước
đỏ ối đang khởi thủy vết chảy
ngoằn ngèo của một ḍng sông máu. Xác chết
từ hai phía thân ái ôm chầm lấy nhau rồi đổ
ụp xuống nằm cạnh nhau hiền ḥa như chưa
hề quen biết làm ngọn núi chợt cao lên với
muôn ngàn lời ai oán. Đợt phản kích cuối cùng này
không đủ sức mạnh để đạt
hiệu quả mong muốn, và từ dưới chân
đồi tràn lên một đợt sóng biển người
và chiến xa khác. Địch tung toàn bộ lực lượng
vào đợt tấn công quyết định, trong khi
phía chúng tôi đă sức cùng lực tận, đành
chấp nhận rút lui theo lệnh trục tiếp
từ Th. tá Lê Hồng, trưởng Ban Ba TĐ3ND, để
hạn chế thêm thương vong. Đơn vị rút xuống khe núi, trung
đội của tôi chỉ c̣n lại sáu người,
có Thượng sĩ Đàng và Trung sĩ Yến.
Hạ sĩ Nhất Chính đă tử trận khi
một chiếc chiến xa địch nghiến qua người
sau khi anh đă bị thương trong đợt
phản kích. Tiểu đội khinh binh chỉ c̣n
lại Thông, Ngôn và Tám. Tôi lại được
xuống cấp làm tổ trưởng khinh binh, dẫn
hai ông tổ phó mở đường rút cho đơn
vị, mang theo được rất ít thương binh
nhẹ, trong đó có Bé, trung đội trưởng
trung đội một. Cái đau bại trận thấm lên
từng khuôn mặt mệt mỏi, chán chường, không
đủ can đăm nh́n thẳng vào mắt nhau, dù
chỉ để đôi điều chia sẻ. Tôi
bổng hổ thẹn vô cùng trước giọt nước
mắt âm thầm lau vội của Thượng sĩ
Đàng, ông đă yêu những người lính trong
trung đội bằng t́nh yêu thương ruột
thịt, nên cũng đau gấp vạn lần từ
thiếu vắng, tang hoang, buồn tủi trước cái
nh́n trân trân vô hồn của Thông và Tám. Họ đang
nghĩ đến số đồng đội bị thương
đang chờ chết trong tay địch, điều mà
từ trước tới nay, chưa ai một lần
nghĩ tới. Rừng chiều bổng đỗ mưa,
tiếng sấm gào cùng với tiếng pháo tàn
trận, dội vào vách núi, vỡ vụn ra những âm
thanh buồn bă của hồi chuông tử biệt, mưa
tuôn ŕ rào trên lá, ŕ rào lời kinh chiêu hồn vang
vọng. Trung đội lầm lủi tiến về phía
trước, theo sự hướng dẫn của
ĐĐ 31 c̣n nguyên vẹn, đang tiến về căn
cứ, và chờ chúng tôi ở hai cây số đông
đông bắc. Trong khi ở một hướng khác,
ĐĐ 34 cũng đang đón phần c̣n lại
của ĐĐ32, trước khi tập hợp tại
một vị trí định sẵn. Chờ lệnh
mới. Nhận lệnh trực tiếp từ
tiểu đoàn, tổ chức chốt chặn, để
tất cả thương binh nặng, nhẹ mang theo
được, sẽ cùng ĐĐ 31 và bộ chỉ
huy tiểu đoàn rút trước qua triền núi bên
kia, sau đó, sẽ t́m gặp ĐĐ 34 đang cùng
với một bộ phận khác của tiểu đoàn
di chuyển cách đó chừng bốn cây số đông
đông bắc, móc nối, dẫn đường cho
hai cánh quân gặp nhau. Nhiệm vụ nghe có vẻ nhẹ nhàng,
nhưng quả thực, khi đồng đội
cuối cùng khuất sau hẽm núi, Đồng cảm
thấy vô cùng cô đơn với năm người c̣n
lại. Và trên đồi 31 vẫn ầm ́ tiếng pháo
truy kích của xe tăng địch bắn vu vơ vào
vách núi. Chắc chắn khi leo lên được
đỉnh Đồi 31, địch đă gánh chịu
một sự tổn thất không thể bù đắp
nổi về quân số, nên họ đă không c̣n
khả năng tổ chức truy kích, v́ thế, “trung
đội sáu người” bớt được gánh
nặng nghênh cản để lần ṃ theo tiếng súng
hướng dẫn, t́m về đại đội
bạn. Cho đến quá nửa đêm th́ gặp nhau,
và chỉ kịp siết chặt nắm tay chào hỏi,
gấp rút quay theo đường cũ, theo chân
ĐĐ 34, về gặp lại tiểu đoàn trước
khi trời sáng. Thời gian không c̣n thuộc về chúng
tôi. Đoàn quân lần ḍ trong bóng tối
của trùng điệp núi rừng, bám vai nhau tuôn
dần xuống dốc núi dựng đứng, cố
gắng tiến thật nhanh về điểm hẹn, nơi
đó, một đơn vị bạn đang trên
đường tiếp ứng. Đến gần sáng,
đơn vị chúng tôi gặp được quân
bạn đang hướng tới đồi 31 cùng
với chiến xa, Qua mấy ngày sau, đơn vị tôi
được trực thăng bốc về Khe Sanh. (5) Sau đây là những ǵ xẩy ra cho nhóm
phi hành đoàn sau khi họ tháo bỏ súng ống, bước
ra khỏi hầm: “Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn
bị trói bằng dây điện thoại và bị
dẫn giải ra Bắc Việt chung với tất
cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng
tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù
tù binh trên đường đi. Cuối cùng tôi
gặp được anh Long là người ở chung
trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các anh ra
đầu hàng. Đến lần thứ 3 các anh vẫn không
chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và
bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương
nhẹ nên chúng bắt theo, c̣n anh Giang v́ bị thương
nặng găy cả 2 chân không đi được nên
bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm.
Về phần Mêvô Em th́ bị lạc đạn trúng
bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt
dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy
ruột mà không hề được băng bó vết
thương nên đi được một khoảng không
chịu được đau đớn, Em gục
chết ở bên đường. Thế là Phi Đoàn 219 ghi thêm vào quân
sử của ḿnh thêm một thiệt hại: 2 phi hành
đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó
anh Giang và Em đă vĩnh viễn ở lại trên
đồi. Ngọn đồi quyết tử 31.
Những người c̣n lại của 2 phi hành đoàn
đó là Bửu, On, Khánh và Sơn th́ sa vào tay địch,
bị đưa đến những bến bờ vô
định, biết c̣n có ngày về hay không? (4) Cùng với nhóm phi hành 4 người
của Khánh, hầu như toàn bộ chỉ huy LĐ3ND
tại Đồi 31 đă bị bắt làm tù binh, bao
gồm Đ.tá Nguyễn Văn Thọ LĐ Trưởng
LĐ3ND, Th.tá Nguyễn V. Đức trưởng Ban 3 LĐ3ND,
Tr.tá Bùi V. Châu TĐT TĐ3PBDù, Đ.úy Đào V. Thương
trưởng ban 3 TĐ3PBDù, Đ.úy Nguyễn Quốc
Trụ phụ tá Ban 3 LĐ3ND, Đ.úy Lê Đ́nh Châu
ĐĐ trưởng công vụ LĐ3ND, Th. úy
Nguyễn Văn Long Ban 3 LĐ3ND, Tr. Úy Đinh Đức
Chính sĩ quan không trợ… cùng nhiều quân nhân các
cấp. Tất cả đều bị trói tay và xô,
đẩy, kéo đi rất tàn nhẫn và rất nhanh
trong đêm v́ địch sợ bị truy kích hoặc
B52 trải thảm. Những ngươi đi chậm,
ngay cả những thương binh, đều bị la
mắng, đày đọa, đánh bằng báng súng,
thậm chí cho chết. Riêng Th.úy Vinh, người
chỉ huy toán Điện Tử ND đến Đồi
31 trên cùng chiếc H34 bị lâm nạn của Bùi Tá Khánh,
cũng bị bắt tù binh, nhưng đă can đăm
trốn thoát được bằng cách buông người
truột xuống sườn đồi ngang qua một
khúc quẹo trong đêm. Vừa đi vừa bị bắt
chạy theo tiếng la hét, chửi rũa của bọn
lính áp giải, với 2 tay trói ké sau lưng, mà
trời lại sinh tội đổ mưa, Khánh rất
khó khăn theo kịp đoàn người. Kẻ nào
bị té ngă nếu không có sự giúp đở
của bạn tù khác th́ thật vất vả để
tự đứng dậy. Sau một đêm bị thúc
giục đi nhanh không nghỉ, tất cả toán tù
binh được cho dừng chân vào sáng sớm hôm
sau. Càng xa mặt trận bao nhiêu, niềm hy vọng
được cứu thoát bởi toán Lôi Hổ hay
trinh sát Dù càng nhỏ dần trong ḷng Khánh và mọi người.
Có đôi lúc anh cầu mong B52 thả bom ngay trên toán tù
đang lầm lủi đi trong đêm v́ anh nghĩ may
ra anh có thể thoát được giữa những
hổn loạn của bom nổ, lở có chết th́ cũng
chấp nhận dễ dàng hơn là phải sống tù
đầy trong tay bọn CS khát máu này. Toán tù binh Đồi 31 của Khánh di
chuyễn với nhau như vậy trong gần 2 tuần
liên tiếp, đa số là đi bộ, có vài ba
chặng đường th́ bị dồn cứng
chở trên xe molotova. Nh́n ai cũng xơ xác, thiểu
nảo, thiếu ăn thiếu ngủ, quần áo
trận rách tươm. Khi đến thành phố Vinh,
mọi người được lệnh dừng
lại, và ở đó trong 4 ngày, qua đêm ở
những hợp tác xả. Dân làng xung quang có chạy
đến xem, nhưng không một ai có bất cứ
một hành động ghét bỏ thù hận nào và
bị toán lính gát đuổi đi. Từ Vinh, toán tù
binh Đồi 31 có thêm những bạn tù mới
từ các đơn vị chiến đấu khác như
TQLC, BĐQ và Bộ Binh; tất cả lại bị lùa
lên những toa xe lửa bịt bùng và chở thẳng
ra Hà Nội, vào ngay trại tù đầu tiên ở Ngă
Tư Sở. Trong khi toán tù binh trong đó có Th.úy Khánh
đang trên đường bị dẫn độ ra
Bắc, th́ vào ngày 28 tháng 2, 1971, từ một vị trí
chếch về hướng Đông và không quá xa Đồi
31, lần lượt toàn bộ TĐ3ND được
trực thăng vận về lại Khe Sanh. Tổn
thất nặng của tiểu đoàn chỉ gom
phần lớn ở ĐĐ 33 của Đồng và
32 của Đ.úy Thiếp, ngoài ra các ĐĐ 30, 31 và
34 hầu như c̣n nguyên vẹn. Trong suốt thời
gian nằm dưỡng quân tại chổ, TĐ3ND tái
bổ sung và trang bị lại đơn vị. Dù
được bổ sung, Trung đội 2 của Đồng
tạm thời chỉ có 16 người, kể cả người
chỉ huy, bằng một nữa của cấp số b́nh
thường. Qua tin tức của các” phóng viên
chiến trường” trong nước cũng như
ngoại quốc, mà đa số ngồi nhâm nhi cà phê
ở Givral, La pagoda, hay nếu gan dạ lắm cũng
chỉ quanh quẩn ở Bộ Tư Lệnh tiền phương
Quân đoàn I, Đông Hà, Khe Sanh, thêu dệt lên
những bản tin thật giật gân, bi thảm hóa
một trận thua vốn là lẽ thường của
chiến tranh để cho rằng, quân ta thất
thủ đồi 31 tức là toàn bộ Lữ đoàn
3 Nhảy Dù đă bị tiêu diệt. Thông tin kiểu
đó, đă vô t́nh ám ảnh những đơn
vị chưa được tung vào mặt trận, mà
hiệu quả tâm lư chi phối phần lớn khả
năng chiến đấu. Họ không hề biết rằng, ngay
sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 chính thức chấm
dứt vào đầu tháng 4, 1971, từ Huế, khi màn
diễn binh tại Phú Vân Lâu kết thúc, thay v́
được không vận về Sài g̣n để dưỡng
quân như thường lệ, th́ sân bay mà LĐ2ND
đáp xuống lại là phi trường Cù Hanh, Pleiku
đất đỏ. Tin hành quân bí mật cho đến
nổi quá nhiều binh sĩ ND tức giận và đạp
nát bao nhiêu nón lá bài thơ mua sẳn cho người nhà
tại hậu cứ Saigon. Lữ Đoàn 2 ND dưới
quyền chỉ huy của Đ.tá Trần Quốc
Lịch, gồm có các TĐ5ND, TĐ6ND, TĐ11ND, TĐ2PBND
cùng các đơn vị yểm trợ như Quân Y, Công
Binh, Trinh Sát…, đă lao ngay vào một mặt trận căng
thẳng khác: Giải tỏa căn cứ hỏa
lực 6 ở Dakto, Tân Cảnh do một đơn
vị thuộc Sư đoàn 22 Bộ Binh trú đóng,
đang bị Sư đoàn 320 Cộng quân vây hăm
từ nhiều tuần qua. LĐ2ND đă đánh tan 2
trung đoàn 66 và 28 cùng với 1 tiểu doàn pḥng không
của Bắc Việt khiến địch phải rút
khỏi chiến trường. Sau chừng 3-4 tháng nằm tù ở
Ngả Tư Sở, toán tù binh của Khánh được
đưa đến một nhà tù khác có tên Bất
Bạc, nằm sâu trong rừng núi của Sơn Tây.
Tại đây, có sẳn nhiều tù binh khác của
VNCH, thuộc mọi binh chủng bị bắt từ
nhiều mặt trận khác nhau ở Miền Nam. Từ
đây trở đi, Khánh cùng các bạn tù binh khác
bắt đầu một cuộc sống thực tế
đầy trắc trở, cùng cực, với lao động
khổ sai, tuyên truyền, thù hằn của bọn cai tù
được dạy sẳn sàng bắt lổi,
nhục mạ, la lối chưởi bới, đánh
đập, giam đói, chà đạp danh dự và
phẩm giá của người tù binh. Chúng càng ra tay tuyên
truyền, đối xữ tàn tệ bao nhiêu th́ Khánh và
các bạn tù lại càng cương quyết, bền
bỉ và quyết chí phải sống để c̣n là
nhân chứng cho chính sách đối xữ tàn nhẫn
của CS đi ngược lại quy ước tù binh
Genève bấy nhiêu. Sở dĩ những tù binh trong
trại vẫn hiên ngang kiên cường v́ ai cũng
biết sau lưng ḿnh c̣n có cả một nước
VNCH của ḿnh, bao nhiêu anh em trong binh chủng đang
chờ đón ḿnh về, rằng ḿnh không bị
bỏ quên. V́ vậy họ không bao giờ có cảm tưởng
họ bị bỏ rơi, nghiệm thấy bị
bắt tù binh chỉ qua là một biến cố kém may
mắn bất cứ một quân nhân tại mặt
trận cũng có thể gặp phải, tuy nhiên
vẫn c̣n hơn bị thương tật vĩnh
viễn hoặc bị chết. Anh đau xót nh́n những niên trưởng
thường xuyên bị chúng hạch sách, đày đọa,
hay quấy nhiễu vô cớ; những anh em tù khác
bị thương tật, nặng có nhẹ có, bị
đối xữ tàn nhẫn. Người người
đều có lúc bị suy sụp tinh thần, nhưng
nh́n chung ai ai cũng giữ vững niềm tin, ḷng can cường
và sự đoàn kết, luôn binh vực nhau ngay cả
những khi bị chúng làm áp lưc. Chính v́ vậy, các
bạn tù rất thương yêu nhau, đùm bọc
nhau, chia xẻ với nhau từng miếng ăn, công
việc nặng nhọc, tâm sự vui buồn, lời
cầu nguyện… Anh em thỉnh thoảng nhắc đến
chuyện phim “Cầu Sông Kwai”, mà hầu như
mọi người cùng thời với Khánh đều
có xem, căn dặn nhau phải sống tư cách như
các tù binh người Anh trong phim. Cũng v́ vậy anh
em tù thường xuyên hay huưt sáo bản nhạc trong
phim nổi tiếng ấy. Với Khánh, anh luôn cảm
thấy ḿnh may mắn hơn nhiều bạn tù khác v́
anh không những độc thân, mà ngay cả người
yêu anh chưa có để thầm thương nhớ
hay khóc thầm để phải suy sụp tinh thần. Vào gần cuối năm 1972, có lẻ
do những cuộc không tập ngày càng ác liệt
của Không Quân Mỹ trên Miền Bắc, nhóm tù binh
của Th.úy Khánh bị di chuyễn đến trại tù
Tràng Định nằm ở Lạng Sơn. “Đêm mùa đông giữa rừng núi
Lạng Sơn trời lạnh căm căm thật là
khó ngủ. Để chống trả cái lạnh, chúng
tôi phải hai đứa một cặp đem hết
mền ra, một phần để lót lưng v́
nằm trên giường tre, gió cứ tha hồ luồn
theo kẽ hở vào ve vuốt sống lưng, phần c̣n
lại th́ dùng để đắp. V́ trời lạnh
không có chú muỗi nào dám vo ve nên chúng tôi hạ luôn mùng
xuống làm mền. Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi
mặc hết vào người rồi chui vào đống
mùng mền, dựa lưng nhau mà t́m giấc ngủ.
Phải một lúc sau mới có chút hơi ấm và v́
mệt mỏi sau một ngày làm việc quần
quật chúng tôi cũng ch́m dần vào giấc ngủ. Đang thiu thiu chúng tôi bỗng choàng
thức dậy bởi tiếng loa léo nhéo ở giữa
sân trại: Dù bị mất giấc ngủ, chúng tôi
hết sức nôn nao và x́ xầm bàn tán với nhau v́
đây là sự việc lạ lùng chưa từng
xảy ra trong suốt 2 năm tù lao động khổ
sai khắp các miền rừng sâu bắc Việt. Trong
chế độ tù đày mà cộng sản gọi là
cải tạo, việc lao động nặng nhọc
phải đi đôi với nhồi sọ chính trị
mà việc đọc báo, nghe loa phát thanh là một chính
sách lớn v́ họ lập luận rằng cứ cho
nghe măi rồi cũng phải tin. Dĩ nhiên chỉ có
những tin tức hạn chế do một đài
của nhà nước, và sau khi đă được bóp
méo, vo tṛn theo ư họ rồi mới cho cả toàn dân
miền Bắc nghe. Điều này cho thấy nhà nước
cộng sản không hề tôn trọng người dân
mà họ vẫn tôn làm chủ, v́ trong khi họ theo
đuổi hơn 4 năm trời một cuộc tranh
đấu chính trị trên bàn hội nghị mà
kết quả có tầm ảnh hưởng rất quan
trọng cho vận mệnh của đất nước
th́ người dân chẳng hề biết một tí ǵ
hết. Cho đến khi Hà Nội ăn bom B52, chẳng
dấu ai được họ mới la ầm lên đổ
thừa cho đế quốc Mỹ. Thế mà hôm nay không
hiểu tại sao bỗng dưng họ lại phát thanh
cho toàn dân nghe một bản tin thuộc loại cơ
mật như vậy. Tối hôm sau và những hôm kế
tiếp, sau khi ăn cơm, chúng tôi nhanh chóng thu xếp
rồi lên giường nằm vừa bàn chuyện
vừa ngóng tai chờ nghe loa. Cái loa thường ngày chúng
tôi ghét cay ghét đắng v́ âm thanh chát chúa của nó,
bỗng dưng hôm nay chúng tôi lại mong được
nghe những ǵ nó mang đến. Quả nhiên, qua
chiếc loa, người xướng ngôn với
giọng đanh thép, ngoài bài xă luận một
chiều thường lệ, c̣n cho biết “bộ
đội pḥng không anh dũng đă bắn rơi
nhiều máy bay B52, bắt sống nhiều giặc lái
Mỹ”. Chúng tôi lại được dịp
luận bàn: nhiều là không đếm được,
không đếm được tức là không có ǵ
để đếm”. Từ khi bị bắt trên chiến trường
Hạ Lào, chúng tôi coi như không biết ngày về
trừ khi có một hiệp định được
kư kết giữa các bên tham chiến trong đó có quy
định việc trao trả tù binh bị giam giữ.
Lâu nay chúng tôi âm thầm chịu đựng mọi
nghiệt ngă trong trại giam cộng sản cũng
chỉ v́ hy vọng vào hiệp định Paris với
việc kư kết thành công và thi hành đúng đắn
mới là con đường giải thoát chúng tôi ra
khỏi nhà tù cộng sản. Phải chăng hôm nay
ước vọng của chúng tôi đang thành sự
thật? Qua những bản tin nghe được,
dần dà chúng tôi có thể tổng hợp lại và
suy đoán như sau. Hội nghị Paris 4 bên được
h́nh thành sau trận thảm bại Tết Mậu Thân
của cộng sản với mục đích giải
quyết trong ḥa b́nh cuộc chiến Vĩệt Nam. Nhưng
sau 4 năm c̣ kè, mặc cả giữa Hà Nội và
Washington, có lúc tưởng đi đến chỗ
bế tắc, đến mùa hè năm 1972 những
trận đánh ngày càng khốc liệt ngoài chiến
trường cho thấy hội nghị đang đi
đến giai đoạn chót. Cộng sản cố
đánh Quảng Trị ở vùng 1, Tân cảnh ở vùng
2, Lộc Ninh ở vùng 3 để chiếm đất.
Về phía Mỹ th́ kể từ ngày 14 tháng 6 năm
1972 các cuộc ném bom đă leo thang ra ngoài vùng giới
hạn vĩ tuyến 20 đến tận gần biên
giới với Trung Cộng. Trận cường tập
12 ngày đêm ở thủ đô Hà Nội là cú đấm
knock out cuối cùng của Mỹ. Ít lâu sau trước Tết Quư Sửu,
ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định Paris
được kư kết giữa 4 bên và sau đó
được 12 cường quốc bảo đảm
thi hành đúng đắn nhằm đem lại ḥa b́nh
cho Việt nam. Hơn một tuần sau, như thường
lệ vào sáng sớm ngày thứ hai chúng tôi chuẩn
bị lănh cuốc xẻng, dao rựa đi cuốc
đất, đốn cây th́ bỗng được
lệnh miễn lao động, mặc quần áo dài lên
hội trường tập họp. Linh tính báo cho chúng
tôi biết có điều quan trọng xảy đến. Quả như vậy, sau lời mở
đầu của trại trưởng trung tá Quân
“rắn”, tên thượng tá chính trị viên Thường
“vẹt” (v́ đặc tính nói lập đi lập
lại không biết ngượng miệng) của
trại tù đọc và giải thích từng điều
một trong bản hiệp định. Đại khái
điều 1 các bên tôn trọng lănh thổ của nhau,
điều 2 tôn trọng chủ quyền, điều 3
ngưng bắn kể từ ngày kư hiệp định,
điều 4 các bên cam kết trao trả hết các nhiên
viên quân sự và dân sự bị bắt trong chiến
tranh chậm nhất là 2 tháng sau ngày hiệp định
có hiệu lực. Chúng tôi liếc nh́n nhau vui sướng.
Đúng là niềm hy vọng của chúng tôi đă thành
hiện thực. Và theo quy định của bản
hiệp định, chỉ c̣n tối đa 2 tháng
nữa là chúng tôi được trao trả về cho
chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Đến đây Thường
“vẹt” nhấn mạnh: - Tuy nhiên, việc thả các anh về
chủ yếu vẫn là do các anh có lao động
tốt, học tập tốt hay không th́ chính phủ ta
mới căn cứ vào đăy mà khoan hồng cho các anh
thôi. Thường “vẹt” tiếp tục
thao thao những điều khoản khác, nhưng chúng tôi
không c̣n thiết tha nghe nữa. Là người có
học, ai cũng biết rằng khi đă kư kết
một hiệp định th́ phải thi hành đúng
đắn những ǵ hiệp định đă quy
định chứ không thể vin vào những chính sách
b́nh thường của quốc gia ḿnh được.
Giải thích như vậy chứng tỏ Hà Nội coi
như không có hiệp định nào trên đời này
cả. Chúng tôi cảm thấy ngao ngán, nhưng vẫn
c̣n một phần nào hy vọng v́ bản hiệp định
đă được các cường quốc bảo
đảm trong đó có cả đàn anh Trung cộng
của Hà Nội. Cuối cùng, Quân “rắn” kết thúc
buổi họp và nói tiếp: - Thôi, các anh cố gắng học
tập lao động tốt để sớm trở
về với gia đ́nh. Và để đánh dấu
cho một mùa xuân hoà b́nh trên đất nước,
trại được trên cho phép tổ chức
một cái Tết thật to, có bánh kẹo, có thịt
lợn, thịt trâu và có cả văn nghệ
nữa”. (6) Niềm vui rộ lên, cả trại
nhốn nháo vui mừng với bao nhiêu hy vọng sẽ
được trao trả về Miền Nam sau hiệp
định Paris. Các bạn tù được cho phép
tự tổ chức văn nghệ mừng Xuân năm
1973. “Một nhóm anh em có máu văn nghệ,
thích ca hát được thành lập gồm có anh
Trụ, anh Bửu, anh Hạnh, Siêm, Dự và tôi. Chúng tôi
bàn bạc với nhau để chọn bài hát. Đă
gọi là hoà giải th́ phải có cả nhạc
bản của cả hai miền Nam, Bắc chứ. Bàn
đi tính lại cuối cùng chúng tôi lựa các bài như
sau : Ly rượu mừng, Nối ṿng tay lớn, Đôi
bạn (nhạc của Phạm Duy phổ thơ Hoàng
trung Thông là nhà thơ tiền chiến hiện c̣n
sống ở Hà Nội), Chuyện hàng cây (của
một nhạc sĩ lô-can trong trại, chuẩn uư
Trần thanh Hùng phổ thơ của một thi sĩ không
có tiếng ở ngoài bắc), bản Romance de l'Amour
sẽ do anh Trụ độc tấu tây ban cầm và
một đoạn sớ Táo Quân sẽ do anh Khoan
diễn tấu. V́ tất cả đều bị
kiểm duyệt trước nên chúng tôi phải ḍ
từng chữ, nhất là những bản nhạc
xuất bản ở Miền Nam, nếu cần th́ đổi
lời chút ít để tránh đụng chạm. Sáng mùng một Tết, chúng tôi ngồi
túm trong lán trại, ăn kẹo uống trà, hút
thuốc lào. Năm nay Tết lớn nên anh em mỗi người
được phát thêm một điếu thuốc thơm
Tam Đảo ngoài 3 điếu thuốc đen Trường
Sơn thường lệ. Lác đác một vài
quản giáo ghé vào các lán thăm xă giao chúc Tết. Ngoài
sân trại cũng có vài nhóm anh em tù đứng tán
chuyện, thấp thoáng bóng áo xanh bộ đội chen
với màu áo trắng xọc đỏ của tù nhân. Sau bữa cơm chiều, lúc 7 giờ
tối, mọi người tập trung vào hội trường
xem văn nghệ. Chúng tôi tŕnh diễn không micrô,
nhạc cụ th́ mượn được của
cảnh vệ một đàn guitar thêm vào với cây
guitar tự tạo bởi Dự và anh Trụ. Vậy là
xôm tụ rồi. Sau đó toàn ban văn nghệ chúc
Tết mọi người bằng bản nhạc quen
thuộc Ly rượu mừng. Màn thứ hai do Siêm,
một chuẩn uư sư đoàn 1 với giọng ca khá
giống Chế Linh trong bài Trường sơn đông,
Trường sơn tây. Bản nhạc chấm dứt,
anh em vỗ tay tán thưởng nhất là bộ đội,
quản giáo. Sang đến bài Nối ṿng tay lớn do
Dự, thiếu uư viễn thám TQLC tay đàn miệng hát,
đă lôi cuốn mọi người cùng vỗ tay theo
nhịp vang động cả hội trường.
Tiếp đến là bài Đôi bạn hát bởi anh
Hạnh, sĩ quan đề lô của sư đoàn 1,
buồn buồn như quê nghèo sỏi đá miền
trung. Bản nhạc vừa dứt, Hạnh ngoắc tay
về phía Khánh, từ hậu trường Khánh
tiến tới đứng sát bên Hạnh; cả hai chúng
tôi song ca bản T́nh khúc cho em của Lê uyên Phương,
một bản nhạc không có trong chương tŕnh. Hơi
bất ngờ một chút, rồi anh em mọi người
đồng vỗ tay, huưt sáo. Hứng chí chúng tôi đi
2 bè thật hay. Chợt Khánh nh́n thấy từ hàng
ghế đầu, mặt đanh lại Quân
“rắn” đứng lên đi thẳng ra ngoài. Vài
quản giáo và cảnh vệ cũng đi theo. Bản nhạc dứt, trong tiếng
vỗ tay tán thưởng, anh Trụ đang sửa
soạn thế ngồi để chơi bản Romance th́
Thường “vẹt” tiến tới quay xuống
mọi người nói : - Thôi đủ rồi, giải tán. Mọi người vừa đi vừa
cười nói, bàn tán. Ban văn nghệ chúng tôi
vừa thu dọn nhạc khí xong th́ quản giáo Hoàng
“choắt”, người nhỏ xíu cao chừng 1 mét rưỡi,
vào bảo chúng tôi đi theo anh ta sang nhà họp của
cảnh vệ. Tại đây đă có Quân “rắn”,
Thường “vẹt” cùng vài cảnh vệ đứng
chung quanh sát tường. Chỉ vào băng ghế đối
diện, Quân “rắn” hầm hầm bảo: - Các anh ngồi xuống đây. Rồi Quân “rắn” rít qua 2 hàm răng
: - Ai cho các anh hát nhạc vàng? Các anh vượt
quy định, không đăng kư trước. Anh Bửu phân trần: - Đấy chỉ là t́nh cảm đằm
thắm thương vợ, nhớ t́nh nhân mà anh em chân
thành bộc phát ra. - Các anh lợi dụng chúng tôi hoà hoăn,
định dùng nhạc vàng để lung lạc t́nh
cảm chân chính của chúng tôi hay sao? Đừng tưởng
có cái hiệp định mà chúng tôi sợ không dám
đụng đến các anh hả! Nói cho các anh
biết thả hay không là ở tôi này. Nhốt các anh
suốt đời cũng c̣n được. Bọn lính
Tây Điện Biên Phủ ta c̣n giữ đến bây
giờ, huống hồ các anh. Rồi Quân rắn đổi giọng: - Cảnh vệ đâu? Tống chúng nó
vào nhà kỷ luật ngay. Quần áo, chăn màn th́ cho
đứa nào đem xuống cho chúng nó sau. Đi nhanh! Thế là chúng tôi bị dẫn đi
xuống khu nhà kỷ luật. Khu nhà kỷ luật
nằm ở cuối trại gần trạm canh. Khu này
được dựng bằng gỗ chắc chắn.
Cứ 2 pḥng một cạnh nhau, mỗi pḥng độ
3 thước vuông với một cái giường tre
vừa đủ nằm. Không có cửa sổ và chung
quanh rào dây kẽm gai kiên cố. Chúng tôi mỗi người bước
vào căn xà lim của ḿnh. Vắng vẻ, lạnh
lẽo và dư thừa th́ giờ để nghiền
ngẫm về chính sách hoà giải của người
cộng sản” (6) Sau nhiều tuần được
“vỗ béo”, khẩu phần dinh dưỡng tăng,
lao động tối thiểu, anh em tù binh đều
phấn khởi, lâng lâng với cảm giác ḿnh không
bị bỏ rơi bởi quốc gia ḿnh. Vài tháng sau Ḥa
Đàm Paris được kư kết, nhóm tù binh bị
bắt tại Lào như Khánh không được trao
trả. Không phải v́ lao động không giỏi
hoặc học tập không tốt. Đến lúc đó
mới thấy bọn CS thâm hiểm. Chúng gian xảo tráo
trở cho rằng nhóm tù binh bị Pathet Lào bắt
tại Lào, và v́ chưa có hiệp định nào kư
kết giữa VNCH và Pathet Lào, nên không thể trao
trả tù binh VNCH bị Pathet Lào bắt trên nước
Lào. Đương nhiên chúng đă nghĩ trước
những kẻ hở này khi kư kết Ḥa Đàm nên
mặc nhiên trở mặt, lật lọng vào phút chót.
Thế là bao nhiêu hạnh phức và kỳ vọng
của nhóm tù binh Hạ Lào được trở
về Miến Nam biến thành mây khói, bao mơ ước
bị sụp đổ tan tành. Sau đó là những ngày
tăm tối, buồn bả tuyệt vọng, suy
sụp đến chết người dưới
sự giam cầm tàn ác ngày một tăng. Rồi lại chuyễn trại đến
Cao Bằng trong năm 1974. Rồi tin Miền Nam bị
tan rả dần, Mỹ quyết định bỏ rơi
người bạn đồng minh của ḿnh khiến
quân đội VNCH đành phải thúc thủ buông súng,
VNCH hoàn toàn mất vào tay CS Bắc Việt vào 30 tháng
4, 1975. Một cú atemi ác nghiệt chém vào tử
huyệt mọi tù binh c̣n lại trong trại. Biết
từ đây không c̣n một sức mạnh, một
thế lực nào khả dĩ cứu vớt họ. Cơn
ác mộng đen tối bao phủ toàn trại khi
họ biết từ đây họ sẽ vĩnh
viễn mất tự do. Khánh lại được chuyễn
đến một trại tù mới tên Nghĩa Lộ
tại Yên Bái, và nằm ở đó thêm một
thời gian dài nữa. Trại tù này, cũng như bao
trại tù mà Khánh đă ở qua, hoàn toàn không có bóng
dáng của các tù binh trong những tháng cuối cuộc
chiến tại Miền Nam VN hoặc những tù cải
tạo sau này. Trong những lần lao động bên ngoài
trại, thỉnh thoảng Khánh gặp dân trong vùng.
Đa số tử tế với tù nhân, đôi khi c̣n
cho củ khoai, củ sắn. Ngày 7 tháng 6, 1976, từ trại tù Nghĩa
Lộ, Th.úy Không Quân Bùi Tá Khánh của chiếc
trực thăng H34 bị bắn và đáp khẩn
xuống Đồi 31 tại Hạ Lào tháng 2, 1971,
được thả cho về nhà cha mẹ ở
đường Lư Thái Tổ, quận 10, Sài G̣n. Sau trên
5 năm làm tù binh ở Miền Bắc. Tr. úy Nhảy Dù Phạm Đồng
của Đồi 31 Hạ Lào, sau lần bị thương
tật ở đầu gối phải trong trận
đánh tháng 3, 1972 tại Căn Cứ Hỏa Lực 5
ở Tân Cảnh, Pleiku, từ giả nhiệm vụ tác
chiến và trở về làm việc hành chánh tại
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù ở
Trại Hoàng Hoa Thám cho đến ngày 30 tháng 4, 1975. Tŕnh
diện cải tạo, Phạm Đồng ở tù
học tập gần 8 năm. Anh Bùi Tá Khánh, một thân một ḿnh, vượt
biên thành công vào năm 1981, đến nước
Mỹ năm 1982. Định cư đầu tiên ở
San Jose, anh di chuyển sau đó qua Denver vào năm 2005. Anh Phạm Đồng định cư
ở Denver sau khi đến Mỹ vào năm 1993 với
vợ và hai con qua chương tŕnh HO. Trong một buổi tiệc do anh chị
Phạm Đồng tổ chức tại tư gia nhân
dịp đón mừng vợ chồng chúng tôi đến
chơi Denver tháng 4, 2017, anh Hoàng Gia Viễn, một
cựu Tr.úy phi công F5, đến tham dự với
vợ cùng 2 cặp vợ chồng đàn em trong Không Quân
VNCH, cũng là cư dân Denver. Đây là lần đầu
tiên anh chị Đồng gặp gở 2 căp vợ
chồng trẻ tuổi này, mà anh Viễn cho biết
một người là sĩ quan chuyên về bảo tŕ
phi cơ ở phi trường quân sự Pleiku, và người
kia là sĩ quan phi hành trực thăng. Chuyện tṛ qua
lại trong bửa ăn, và sau màn giới thiệu sơ
khởi, anh phi công trực thăng buộc miệng tâm
t́nh anh là phi công của Phi Đoàn 219, chuyên lái
trực thăng H34, không một ngày tù cải tạo nhưng
lại là tù binh ở ngoài Bắc. Vào chi tiết hơn
nữa, anh tóm tắc câu chuyện đời phi công
của anh, mà ngay chính anh Hoàng Gia Viễn, người
đàn anh KQ, cũng chưa hề nghe qua. Ngang giữa câu
chuyện trực thăng H34 của anh lâm nạn và
phải đáp xuống Đồi 31 trong cuộc hành quân
Lam Sơn 719, gia chủ Phạm Đồng bật đứng
dậy “tôi cũng ở Đồi 31 thời gian đó…”. Thế là hai anh, Bùi Tá Khánh và Phạm
Đồng, đồng loạt cùng đứng lên, xô
ghế tiến sát gần nhau và ôm choàng lấy nhau, nhích
ra rồi lại ôm nhau lại, nắm chặc tay nhau,
mắt nh́n nhau, miệng cười lớn, mừng
rở như t́m thấy lại một người thân
quư nhất trong đời bị thất lạc từ
nhiều năm qua. Giữa tiếng chúc mừng, vổ
tay hoan hỷ của bàn tiệc. Sau đó, từng người một,
thay phiên nhau cụng ly chúc mừng sự trùng phùng quá
đặc biệt và kỳ thú này. Sự ngẫu nhiên
hi hữu như do trời định. Thật vậy,
một người là sĩ quan Nhảy Dù cấp trung
đội chiến đấu sống c̣n tại Đồi
31, người kia là sĩ quan phi hành trực thăng H
34 đáp khẩn trên Đồi 31 rồi bị kẹt
tại đó. Cả hai đều là nhân chứng trong
những ngày cuối của Đồi 31, để sau
đó một người trở thành tù binh bị
dẫn độ ra tận Miền Bắc, người
kia chiến đấu đến giây phút cuối và
sống sót rút khỏi Đồi với chỉ 6 người
c̣n lại của trung đội ḿnh. Về sau, một
người tiếp tục chiến đấu cho
Miền Nam đến tận ngày mất nước, người
kia không được trao trả theo cam kết Hiệp
Định Paris. Cả hai đều chưa từng
gặp nhau, chưa hề biết hoặc nghe tên nhau khi
c̣n tại Đồi 31 hay ngay cả sau này khi là tù binh
hay tù cải tạo trong suốt cả 46 năm. Hôm nay
cả hai bất ngờ gặp nhau. Trong một buổi
tiệc không tên. Ngay tại Denver dù cả hai từng
sinh sống tại thành phố này hơn cả mươi
năm qua. Quả là diệu kỳ. C̣n ǵ vui sướng
cho bằng! C̣n ǵ nhiệm mầu hơn nữa! Như mọi người có mặt trong
đêm, cá nhân tôi thật xúc động, nhất là
sau khi nghe cả hai anh Khánh và Đồng lần lượt
kể câu chuyện của ḿnh từ Đồi 31 cho
đến về sau. Như một chia xẻ chân thành,
tôi vuột miệng “tôi xin phép được ghi
lại câu chuyện độc đáo có một không
hai này và lấy đề tựa ngay từ bây giờ:
H 34 trên Đồi 31”. Toàn thể đều tán thành
và nâng cao ly rượu.
Mission Viejo, Tháng 1, 2018 Vĩnh
Chánh
http://www.svqy.org/2018/1-2018/h34/h34.html ............................................................ (1)
: Mặt Trận Ngoại Vi.Tác giả: Phan Hội Yên |