Người
tù binh Hồi Chánh bên bờ sông Ba Phạm Tín An Ninh |
Đến
quày Pharmacy trong 1 cửa hàng Target, tôi may mắn gặp
1 dược tá người Việt. Nếu không nh́n
kỹ cái bản tên trên nắp túi áo và với cái tên
khá đặc biệt, chắc chắn tôi không thể
nào nhận ra anh, người tù binh, đă bị Đại
Đội Trinh Sát của đơn vị tôi bắt
trong 1 cuộc hành quân thám sát bên bờ Sông Ba, nằm
trong địa phận quận An Túc (An Khê) vào giữa
tháng 02/1972. Đúng
vào sáng ngày 30 Tết Nhâm Tư (1972) khi chuẩn bị cho
buổi tiệc khao quân tất niên tại bản doanh Sông
Mao, Trung Đoàn 44 nhận lệnh phải di chuyển
gấp lên An Khê để cùng Thiết Đoàn 3 Kỵ
Binh tăng phái, thành lập 1 chiến đoàn, thay
thế vị trí của 1 Lữ Đoàn thuộc Sư
Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước,
làm lực lượng trừ bị cho Quân Đoàn.
Giai đoạn đầu, Chiến Đoàn phối
họp với Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn, hành
quân tảo thanh tiêu diệt các lực lượng
địch dọc theo hai bên QL-19 và đảm trách
giữ an ninh lộ tŕnh 24/24 con đường
huyết mạch này từ B́nh Khê đến Pleiku,
để kịp thời cho các nhu cầu chuyển quân,
tiếp tế lên chiến trường Pleiku và Kontum.
Thời gian này Sư Đoàn 22BB đang bổ sung quân
số quân dụng, chuẩn bị di chuyển lên Tân
Cảnh để đối phó với t́nh h́nh đột
biến. Một lực lượng lớn Cộng quân
từ miền Bắc và Lào ào ạt xâm nhập qua biên
giới, tăng cường cho Mặt Trận B-3
của Tướng CS Hoàng Minh Thảo, trong ư đồ
đánh chiếm Tây Nguyên. Buổi
tiệc khao quân tất niên bị huỷ bỏ,
thực phẩm phân phát cho binh sĩ và trại gia binh.
Chúng tôi rời bản doanh Sông Mao lúc 12 giờ trưa.
Chi Đoàn 2/8 TK tăng phái hộ tống lực lượng
bộ binh đến Đèo Cả, ranh giới tỉnh
Phú Yên. Sau đó được lực lượng
Thiết Kỵ của Sư Đoàn Mănh Hổ Đại
Hàn mở đường và đón đơn vị chúng
tôi từ Đèo Cả đến Đèo Cù Mông, B́nh
Định. Nghỉ đêm và đón giao thừa
tại Vạn Giă, sáng hôm sau tiếp tục di
chuyển. Chúng tôi đến căn cứ An Khê lúc 4
giờ chiều ngày Mồng Một Tết. Một
Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 44 được
nhanh chóng thành h́nh. Trung Tá Trần Quang Tiến, Trung
Đoàn Trưởng 44BB là Chiến Đoàn Trưởng,
Trung Tá Trần Lư Hưng, Thiết Đoàn Trưởng
TĐ 3KB là Chiến Đoàn Phó. Cá nhân tôi đảm
trách Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn. Một toán liên
lạc của Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn,
do 1 vị Đại Tá chỉ huy, được đặt
bên cạnh BCH Chiến Đoàn. Ngoài Thiết Đoàn 3
KB, Chi Khu An Túc và 1 tiểu đoàn Địa Phương
Quân của TK B́nh Định cũng được
đặt dưới quyền chỉ huy, điều
động của Chiến Đoàn. Hai
hôm sau, Chiến Đoàn được lệnh tổ
chức 1 cuộc hành quân khẩn cấp, giải
toả hai căn cứ cấp đại đội
thuộc Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn nằm
trên Đèo An Khê, vừa bị 1 lực lượng Công
quân bất ngờ tấn công và đang vây hăm. Sư
Đoàn Mănh Hổ đă phái 1 lực lượng
tiếp ứng, nhưng bị phục kích, thiệt
hại khá nặng. Lực lượng địch
được uớc tính gồm 1 tiểu đoàn và 1
đại đội đặc công của Sư Đoàn
2 Sao Vàng. Nhờ
hoả lực hùng hậu và những kỵ binh dũng
cảm trên các chiến xa M-113 của Thiết Đoàn
3KB, cùng các phi công tài ba gan dạ thuộc Phi Đoàn Mănh
Sư 243, sau những kế hoạch nghi binh, tạo các
băi đáp giả, lừa địch rất hiệu
quả, từng đại đội bộ binh
được tuyển lựa các binh sĩ trẻ,
trang bị nhẹ, đổ xuống, vừa khép ṿng vây
vừa ngăn chặn lực lượng tăng
viện của địch. Đại Đội 44 Trinh
Sát nổi danh thiện chiến, với hai toán Viễn
Thám được trang bị mặt nạ chống hơi
ngạt, chia làm hai cánh bất ngờ nhảy xuống
ngay sau lưng địch, từng toán nhỏ lao vào
tấn công bằng hơi cay, lựu đạn, và
cả M-72, dưới sự yểm trợ chính xác
hữu hiệu của các trực thăng vơ trang, nhanh
chóng tiêu diệt hai cái chốt chặn của địch
ở hai bên dốc đèo, làm đầu cầu cho
lực lượng Thiết Giáp có bộ binh tùng
thiết, đồng loạt tấn công, nhanh chóng làm
chủ chiến trường. Chỉ trong ṿng hai
tiếng đồng hồ, cả hai căn cứ đă
được giải toả, địch quân tháo
chạy, bị các đơn vị bao vây tiêu diệt,
có mấy tên bị ta bắt sống. Chiến Đoàn
đă ghi 1 chiến tích vẻ vang cho đầu năm
mới. Sáng
hôm sau Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT và Tưóng
Tư Lệnh Lực Lượng Đại Hàn tại
Việt Nam từ Sài g̣n bất ngờ bay ra An Khê quan sát
chiến trường và ngợi khen các đơn
vị tham chiến. Ngay
chiều hôm ấy, qua hệ thống siêu tần
số, Tướng Lam Sơn, Tư Lệnh Phó Quân
Đoàn II cho biết, theo tin tức không ảnh của
Mỹ ghi nhận, có dấu hiệu địch xuất
hiện trong khu vực bên kia bờ Sông Ba, khu này
nằm tiếp giáp Vùng Oanh Kích Tự Do,
lệnh Chiến Đoàn cho 1 đơn vị cấp
đại đội thâm nhập, thám sát t́nh h́nh. Ông
Chiến Đoàn Trưởng bảo tôi và Đại uư
Trần Công Lâm, Đại Đội Trưởng 44
Trinh Sát, dùng CNC bay dọc theo bờ sông, thám sát địa
thế, t́m 1 khúc sông thuận lợi và an toàn nhất
để vượt sông. Sáng sớm hôm sau, sau khi thông
báo cho TTHQ/ Quân Đoàn & Sư Đoàn Mănh Hổ, yêu
cầu tạm ngưng mọi cuộc tác xạ hay oanh kích
trong vùng, đúng 5 giờ sáng, hai toán Viễn Thám vượt
sông trước làm đầu cầu để toàn
bộ Đại Đội Trinh Sát sang sông. Nhiệm
vụ hành quân lục soát trong khu vực được
ấn định 16 cây số vuông, theo đề
nghị của Quân Đoàn. Sau
2 tiếng đồng hồ, không có cuộc đụng
độ nào,
Chiến Đoàn nhận được báo
cáo của Đại Đội Trinh Sát bắt
được 2 tù binh, 1 nam 1 nữ, và cả hai xin
được hồi chánh.
Theo tŕnh bày của anh Đại
Đội Trưởng Trinh Sát. Người đàn ông
bị phát giác trước, khi đang trên đường
xuống sông lấy nước. Anh ta khai là y sĩ
thuộc 1 tiểu đoàn chính quy CS, đă đào ngũ
hơn 1 tuần. Anh xin được hồi chánh cùng
với người vợ mới gặp, cô là người
Thượng, dân ở vùng này, không phải đồng
chí của anh. Sau đó, anh hướng dẫn đến
1 hốc đá, chỉ người con gái, và cây súng
K-54 được chôn trong 1 bụi rậm gần đó.
V́ cuộc hành quân đang tiếp diễn, nên tôi yêu
cầu Đại Đội Trinh Sát an ninh băi đáp
để tôi dùng CNC bốc về khai thác. Khi trực
thăng đáp xuống, đích thân Đại uư Lâm dẫn
giải đến giao cho tôi cùng giấy
chứng nhận y sĩ và mấy tấm
ảnh. Hai người được giữ lại BCH
Chiến Đoàn để tiếp tục khai thác trước
khi chuyển giao cho Ty TT Chiêu Hồi B́nh Định. Khi
cô con gái bước lên trực thăng, chúng tôi đă
khá bất ngờ, ngạc nhiên về sắc đẹp
kỳ lạ của cô. Thấy áo quần rách rưới,
chúng tôi mua cho cô mấy bộ bà ba. Khi mặc vào, trông
cô thích thú lắm. V́ cả hai đang bị bệnh,
người đàn ông thỉnh thoảng lên cơn
sốt, nên chúng tôi sắp xếp cho ở tạm trong
trạm xá (đang trống) của Đại Đội
Quân Y để điều trị. Tất nhiên có
sự canh gác đề pḥng. Anh Bác sĩ Quân Y lại
là bạn thân đồng hương, nên tôi thường
ghé lại đây thăm và nhân tiện có nhiều
dịp nói chuyện với vợ chồng anh tù binh
hồi chánh. Mặc dù đă được Ban 2 (T́nh Báo)
cho chúng tôi biết khá đầy đủ chi tiết
sau khi khai thác, nhưng qua những cuộc tâm t́nh riêng,
tôi biết thêm nhiều điều lư thú khác. Anh tên
Trúc Bạch, họ Hồ. Làm tôi nhớ tới cái
hồ có tên Trúc Bạch mà người phi công Mỹ
nổi danh John McCain đă nhảy dù xuống và bị
bắt, khi phi cơ của ông bị bắn rơi, lúc
ấy ông c̣n ở trong nhà tù Hilton Hà Nội. Tôi
hỏi anh có biết sự việc này không, hay là anh
đă có công trạng ǵ, nên được mang tên cái
hồ đặc biệt này kể cả họ Hồ?
Anh cười ngượng ngùng, bảo là, bố
mẹ anh gặp nhau lần đầu tiên bên bờ
hồ này, rồi sau đó nên duyên và đặt tên
cho anh, thằng cu đầu ḷng để làm kỷ
niệm. Ông bà đều là giáo viên. Trước
dạy ở Hà Nội, nhưng v́ lư lịch nên sau này
phải đổi lên vùng sâu vùng xa mới
giữ được nghề cũ. Bố anh gốc người
Phát Diệm. Gia đ́nh theo đạo Công Giáo từ
mấy đời trước đó. Bố anh chỉ có
1 bà chị, nhưng đă theo chồng di cư vào Nam
từ 1954. Ngày ấy cả xứ họ đạo
đều đi, nhưng v́ mẹ mang thai anh gần
đến ngày sinh, nên bố đành ở lại. Bà cô
anh vào Nam, 1 thời gian ở Ngă Ba Ông Tạ, nhưng
sau đó mất liên lạc, không biết đă
chuyển đi đâu. Bố anh bảo người bà
con trong làng vào Nam rất đông, nên nếu t́m bà cô cũng
không khó lắm. Tôi cho anh biết là tôi có quen nhiều
bạn bè ở vùng Công Giáo Hố Nai, đa số là
người Bùi Chu Phát Diệm, tôi có thể hỏi thăm
tin tức cho anh. Đang học trường Trung Học
Y tế th́ anh bị động viên chuyển sang Quân
Y, và được đưa vào B (chiến trường
miền Nam) bổ sung cho Sư Đoàn 2 Sao Vàng. Dù
học chưa xong, anh vẫn được cho làm y sĩ.
Anh bảo chỉ biết cứu thương và học
được 1 số thuốc Nam, trị bệnh
bằng các loại lá cây. Hơn nữa đơn
vị cũng chẳng có thuốc men ǵ, ngoài 1 ít
thuốc kư ninh của Trung Cộng viện trợ. Anh cũng
kể về sự nghèo nàn khốn khổ của dân
chúng miền Bắc, chính sách hộ khẩu như 1 h́nh
thức nắm cái bao tử để tạo áp lực
với dân, đặc biệt là ép buộc thanh
thiếu niên phải vào Nam chiến đấu. Anh cũng
kể về mối t́nh đầu của anh với 1 cô
bạn học, khá xinh. Khi biết cô là con của 1
đảng viên trong ban bí thư thành phố, anh
ngại. Chưa kịp lùi bước, th́ cô cũng
kịp khám phá anh ta gốc Công giáo, gia đ́nh lại
có đông người di cư vào Nam, nên cô bảo
thẳng thừng rồi chia tay. Anh biết trước
nên chẳng bất ngờ, cũng chỉ buồn
buồn 1 chút rồi thôi… Cô
con gái đang ngồi với anh, anh gọi là vợ, người
sắc tộc, có cái tên rất khó nhớ.
Điều
đặc biệt là cô khá đẹp. Cái đẹp
man dại của 1 cô gái núi rừng có 1 ma lực
hấp dẫn đến kỳ lạ.
Chính v́ điều
này đă làm anh có thêm dũng khí để trốn
khỏi đơn vị, thực hiện ư định
hồi chánh, mà anh đă ấp ủ từ lúc bị
chuyển vào miền Nam. Tiểu
đoàn đang ẩn quân ở vùng núi Cheo Reo, nhiều
bộ đội bị sốt rét, nên anh cùng 1 người
lính trong tổ Quân y tranh thủ đi vào
rừng để t́m lá cây làm thuốc. Khi đến
bờ 1 con suối nhỏ bên triền núi, anh bắt
gặp 1 cô gái đang trồng khoai bên cái cḥi tranh sơ
sài trong hốc đá. Anh ngạc nhiên, sao lại có 1 người
con gái dám sống lẻ loi giữa núi rừng quạnh
vắng. Đến gần anh giật ḿnh ngạc nhiên
hơn, không tin vào đôi mắt của chính ḿnh. Không
thể giữa núi non hẻo lánh này lại có 1 cô con gái
đẹp đến lạ lùng, 1 nét đẹp hoang dă,
cuốn hút anh ngay từ cái nh́n đầu tiên. Da ngâm
đen với đôi mắt thật to, chiếc mũi
cao, đôi môi mọng đỏ. Cô khác hẳn với
những cô gái Thượng mà anh đă gặp trong các
vùng hành quân. Anh mơ hồ nhớ đến
chuyện ngày xưa, khi c̣n bé, anh thường nghe
mẹ kể về những cô tiên mắc phải
lỗi lầm bị đoạ xuống trần gian. Người
bạn lính đi theo anh cũng ngẩn ngơ trước
điều bất ngờ kỳ lạ này.
Cô gái
chỉ nói 1 ít tiếng Việt, nhưng cũng đủ
để hai người hiểu được.
Cô
bảo cô bị người trong buôn cho là ma, nhiều
lần đ̣i giết cô, nên ông trưởng làng đày
ra sống ở đây.
Cha mẹ thỉnh thoảng
được đến thăm, nhưng cô không
được phép về buôn. Anh bực dọc cảm
thấy có điều ǵ bất nhẫn. Sau khi
được cô gái chỉ đường đến
buôn, anh và người bạn lính t́m đến
gặp ông trưởng làng để cố thuyết
phục xin được thả cô ra, nhưng không
những bị từ chối, mà
ông trưởng làng c̣n
cho biết là chờ đến mùa lũ, họ sẽ
trói cô lại và bỏ trôi sông để cúng thánh
thần, tránh tai hoạ cho buôn. Sau
khi về đơn vị, anh suy nghĩ bằng cách nào
để cứu được cô con gái. Ư muốn
đào ngũ để hồi chánh bao nhiêu lần lóe
lên trong đầu, bây giờ càng thôi thúc anh thực
hiện. Hai ngày sau, anh báo cáo riêng với tay Thủ Trưởng,
xin đi lấy lá thuốc Anh đi 1 ḿnh, thật
sớm. Để tránh nghi ngờ, nhất là người
bạn đồng chí Quân Y hôm trước,
anh để lại balô, chỉ mang theo ít lương
khô và khẩu súng K-54 pḥng thân. Anh t́m đến
giải cứu cô gái Thượng, kể lại cho cô
nghe lời của ông trưởng làng, sẽ thả cô
trôi sông. Cô gật đầu, mang theo cái gùi chứa ít
bắp, khoai và hai cái b́nh chứa nước làm
bằng vỏ trái bầu.. Anh dắt cô gái đi
thật nhanh. Buổi chiều khi gặp con Sông Ba, hai người
tiếp tục đi dọc theo bờ sông cho đến
tối. Nghĩ đă hơn 1 ngày đường,
đơn vị không thể nào đuổi theo, anh
dừng lại và ẩn trốn trong 1 hốc đá an
toàn. Ăn bắp khoai sống tạm, chờ t́m
đường ra hồi chánh.
Không ngờ 1 tuần sau
th́ bị đơn vị tôi bắt.
Tin tức
đơn vị Cộng quân do anh tù hồi chánh cung
cấp được kịp thời báo cáo lên Quân
Đoàn. Một lực lượng Biệt Động
Quân đang hoạt đông trong khu vực Hàm Rồng
được tung vào khu vực, nhưng địch quân
đă di chuyển đi nơi khác mấy ngày trước
(Sau này được biết đơn vị này
bị thiệt hại nặng nề bởi hoả
lực Không Quân của ta oanh kích, khi bọn chúng bao vây
tấn công 1 căn cứ tại Thuần Mẫn, do 1
đơn vị đia phương quân trú đóng). Mấy
hôm sau, khi sức khoẻ tạm hồi phục, vợ
chồng anh được chuyển giao cho Ty Chiêu
Hồi Tỉnh B́nh Định. Qua nhiều lần nói
chuyện, nh́n thấy ở anh có sự chân thành,
nhất là việc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của anh
bị thiệt hại nặng nề, bộ đội
chết quá nhiều không kịp bổ sung quân số,
chúng tôi thấy tội nghiệp cho người dân
miền Bắc, nhất là những thanh thiếu niên
bị cưỡng bách, tuyên truyền xẻ
dọc Trường Sơn cứu nước, để
rồi có biết bao người phải sinh
Bắc tử Nam! Ngày
24/04/1972,
Tân Cảnh thất thủ, khi BTL/SĐ22BB
bị địch quân tràn ngập, vị Tư Lệnh
liêm sĩ và khí phách đă cùng đồng đội
chiến đấu tới giây phút cuối cùng, và vùi
thây nơi chiến địa, Trung Đoàn 44 chúng tôi có
lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Cù
Hanh, Pleiku để được không vận lên
Kontum. Chỉ sau 1 ngày đến Kontum, thay thế cho 1 Liên
Đoàn Biệt Động Quân ở tuyến Tây
Bắc, đơn vị tôi đă đánh 1 trận
lẫy lừng, tiêu diệt cả 1 trung đoàn của
Sư Đoàn 320 CS và 1 đại đội chiến xa
T-54, khi bọn chúng từ Tân Cảnh tràn xuống
tấn công, trong ư đồ chiếm lấy Kontum.
Chiến thắng này đă mở màn cho nhiều
chiến thắng sau đó để giữ vững
Kontum trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa. Và thành
phố địa đầu Tam Biên này chỉ rơi vào
tay CS, khi Quân Đoàn 2 có lệnh triệt thoái vào
giữa tháng 03/1975, tạo nên cuộc di tản đẫm
máu kinh hoàng trên con đưởng tử lộ 7-B. Đă
hơn 36 năm, bất ngờ gặp lại anh giữa
1 nơi xa lạ. Chỉ mới nhắc lại 1 vài chi
tiết bên bờ Sông Ba ở An Khê năm nào là anh
nhớ ra tôi ngay. Tôi không dám vồn vă v́ đang đo
lường phản ứng của anh. Nhưng bất
ngờ anh ôm chầm lấy tôi, gọi tên tôi trong
nỗi vui mừng pha chút cảm động. Anh lễ
phép xưng em với tôi, bảo là vợ chồng luôn
nhớ đến tôi, nhớ anh bác sĩ quân y bạn
tôi và nhớ mấy ngày đặc biệt ở căn
cứ An Khê.
Anh ca ngợi khả năng và ḷng nhân
đạo của những người lính VNCH.
Anh
bảo làm sao anh có thể quên được 1 kỷ
niệm lớn lao đă làm thay đổi cả
cuộc đời anh vả cả vợ anh. Anh khẩn
khoản mời chúng tôi ở lại 1 vài ngày với
gia đ́nh anh. Tôi ra xe kể qua câu chuyện cho mấy
người bạn. Ai cũng thích thú, nhất là
muốn xem dung nhan của cô tiên nữ người Thượng
bây giờ ra sao. Tôi vào báo cho anh biết là chúng tôi
chỉ có thể ở chơi với vợ chồng anh
đến sáng ngày mai, nhưng xin anh t́m giúp 1 hotel
ở gần nhà để chúng tôi ngủ qua đêm, v́
đông người quá, ngại làm phiền. Anh cười,
bảo 1 đêm th́ quá ít để anh có thể kể
bao nhiêu chuyện về cuộc đời của
vợ chồng anh. Anh gọi điện thoại về
nhà báo tin cho vợ biết và vào xin boss nghỉ sớm
để đưa chúng tôi về nhà. Anh cho biết
đă đặt giùm khách sạn, nhưng muốn
mời chúng tôi về nhà anh chơi, đến khi nào
ngủ anh sẽ đưa ra khách sạn. Anh lái xe
chạy trước và bảo chúng tôi cứ chạy
theo anh. Đường lạ nhưng không nhiều xe
lắm, bọn tôi ai cũng nôn nao, mong sớm đến
nhà để nh́n dung nhan cô gái Thượng ngày xưa.
Ngôi nhà khá đẹp nằm trong khu vườn
rộng, trồng đủ các loại hoa. Điều
đặc biệt là trước nhà có cả 1 khóm dă
quỳ. Loại hoa màu vàng tôi thường thấy
ở Vùng Pleiku, An Khê ngày trước. Khi chúng tôi
vừa xuống xe, 1 người đàn bà mở
cửa bước ra chấp hai tay trước ngực
và cúi đầu chào. Anh chồng chưa kịp
giới thiệu th́ chúng tôi đă ồ lên. Chị cười
thật tươi và đưa tay bắt từng người.
Có lẽ đă nghe chồng kể qua về chuyện
bất ngờ gặp lại tôi, nên chị nh́n
từng người để cố nhận ra tôi. Và
chị đă nhận ra khi tôi là người cuối cùng
bắt tay chị. Điều làm tôi bất ngờ là
chị chào hỏi bằng tiếng Việt rất sơi.
Mấy người bạn và cả vợ tôi ai cũng
trầm trồ trước nhan sắc của chị. Riêng
tôi lại có 1 chút thất vọng. Đúng là với
tuổi bây giờ, chị là 1 người đàn bà
đẹp, nhưng là cái đẹp của 1 hoa
hậu phu nhân, mang nét quí phái với chút phấn
son. Không c̣n cái đẹp man dại núi rừng của
cô ngày trước. Cái đẹp đặc biệt và
hiếm hoi ấy dễ làm mê hoặc người ta hơn.
Anh chị mời chúng tôi ra vườn sau, ngồi quanh
cái bàn tṛn dưới gốc 1 cây bơ phủ bóng. Chúng
tôi phụ anh chị làm 1 bữa BBQ. Tôi bảo là
hồi đó tên chị khó đọc quá, nên tôi không
c̣n nhớ. Chị cười bảo là H’ Niê. Sợ
không hiểu chị lấy 1 que cây viết xuống
đất. Vừa viết chị vừa nói: Sau này
ông xă em đặt tên cho em là H’ An Khê. Sang Mỹ
lấy họ chồng, bây giờ em là An Khê Hồ. Nói
xong, chị nh́n sang tôi cười: Cái chỗ An
Khê mà các anh đă cứu vợ chồng em đấy! Tôi
đùa: –
Bọn tôi phải cám ơn chị. Sắc đẹp
của chị đă giúp bọn tôi bớt đi 1
kẻ thù, và anh Bạch cũng phải mang ơn
chị, v́ nhờ chị mà anh mới quyết tâm
thực hiện giấc mơ hồi chánh của ḿnh,
nếu không th́ chắc đă trở thành liệt sĩ
vô danh từ lâu rồi! Suốt
buổi chiều hôm ấy, anh ngồi kể say sưa
cho chúng tôi nghe về cuộc đời của anh và
đời sống của vợ chồng sau ngày hồi
chánh: –
Em chỉ có 1 cô em gái. Măi đến năm 1985 em
mới liên lạc được và sau này đă băo lănh
sang Mỹ cùng với chồng và 1 đứa con trai.
Bố mẹ em đă chết từ lâu, và vẫn
cứ tưởng em là liệt sĩ. Sau ngày được
chuyển về Bộ Chiệu Hồi, vợ chồng
em đều được đối xử rất
tốt và giúp đỡ tận t́nh. Đáng mừng và
cảm động nhất là họ đă cố
gắng bỏ nhiều công sức để t́m
được bà cô ruột của em. Bà có hai người
con trai đều là sĩ quan VNCH, một anh ở
Biệt Động Quân, nghe nói đánh giặc có
tiếng, tiếc là anh đă tử trận trong Tết
Mậu Thân, h́nh như lúc mang hàm Trung Uư, và
1 anh là Thiếu Tá Hải Quân. Cũng nhờ anh này mà
cả nhà và vợ chồng em mới được
rời khỏi Sài g̣n vào sáng sớm ngày 30/04/1975. Năm
1974 vợ em sinh con trai đầu ḷng, sang đây th́ có
thêm cô con gái. Hai cháu đều đă lập gia đ́nh.
Lúc trước gia đ́nh em ở Philadelphia, nhưng
từ khi vợ chồng thằng con trai nhận việc
làm ở đây, bọn em chuyển lên đây sống
gần các cháu. Buổi
chiều, cả vợ chồng cậu con trai và cô con gái
chạy xe đến, mang theo mấy chai rượu
đỏ và nhiều thức ăn dành cho buổi
tối. Các cháu rất lễ phép, dễ thương, nói
được tiếng Việt nhưng không giỏi
lắm. Đặc biệt cô con gái, chắc nhờ
thừa hưởng sắc đẹp của mẹ, nên
rất xinh xắn. Nh́n đôi mắt của cháu tôi
nhớ lại đôi mắt ngây dại của mẹ
cháu ngày xưa, khi c̣n là cô gái Thượng hoang dă.
Đôi măt to, đen láy, mang cả h́nh bóng núi
rừng và mây trời cao nguyên thưở ấy. Điều
làm chúng tôi bất ngờ và thích thú hơn. Cháu gái
đang là 1 dược sĩ và cậu con trai là
Thiếu Tá Bác Sĩ của 1 đơn vị trú đóng
ở đây. Cô vợ người Mỹ cũng là 1 Bác
Sĩ Quân Y cùng đơn vị. Bọn tôi nâng cốc
ca ngợi anh chị và chúc mừng cho sự thành đạt
của các cháu. Sáng hôm sau, hai vợ chồng đến
khách sạn rất sớm, mời chúng tôi ăn điểm
tâm trước khi chia tay. Khi tôi đến quày check out,
người thu ngân của khách sạn cho biết có người
đă thanh toán tiền pḥng rồi. Tôi phàn nàn trách,
anh cười, ôm vai tôi nói nhỏ: Biết
trả bao nhiêu cho đủ so với tấm ḷng và
sự giúp đỡ của các anh. Cả vợ
chồng ôm từng người chúng tôi và mong có ngày tái
ngộ. Khi bắt tay từ giă anh, 1 người bạn
của tôi hỏi đùa: Thế Hổ Trúc
Bạch có gặp « giặc lái » John McCain chưa? Anh
cười, nói lớn: Em đă gặp ông trong 1
cuộc vận động bầu cử. Em bảo
với ông là, tôi và gia đ́nh sẽ bỏ phiếu
cho ông, v́ ông đă nói 1 câu rất đúng: Điều
đáng buồn là trong cuộc chiến Việt Nam,
kẻ man rợ đă thắng! Anh
chị lái xe hướng dẫn chúng tôi đi 1 đoạn
đường. Đến ngă rẽ qua xa lộ, anh
dừng lại, đưa tay ra cửa vẫy chào
tiễn biệt. Chia tay vợ chồng anh, suốt
cả đoạn đường dài, tôi miên man
hồi tưởng về những ngày tháng cũ và h́nh
dung lại từng khuôn mặt đồng đội
bạn bè, 1 số đă chết tại các chiến trường
khốc liệt An Khê Cheo Reo, Pleiku, Kontum, số c̣n
lại sau những năm tháng tù đày nghiệt ngă,
giờ đang lưu lạc bốn phương
trời, mang theo những vết thương chưa
thể lành được trong ḷng. Đặc biệt,
tôi nhớ tới Trần Công Lâm, người Đại
Đội Trưởng Trinh Sát lừng danh, đă
chỉ huy cuộc hành quân bên bờ Sông Ba ngày ấy.
Lâm là bạn chí thân, cùng khoá Thủ Đức, cùng
Trung Đội SVSQ, và nằm giường trên tôi, lúc
c̣n ở quân trường. Hai thằng đă rủ nhau
về cùng đơn vị. Lâm đă hy sinh vào cuối
tháng 03/1973 trên đỉnh núi Ngok Wang, Kontum khi đang là
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/44. Và
cuối cùng, tôi cũng nhớ đến đôi
mắt đẹp man dại của cô gái Thượng,
cùng h́nh ảnh người tù hồi chánh ở An Khê
lúc trước, khi Lâm dẫn giải đến
trực thăng giao lại cho tôi. Phạm
Tín An Ninh |