Nhớ
Măi Không Quên |
Ngày
xưa lúc ở Sai G̣n, mỗi
lần về thăm Huế, tôi
về làng Nam Phổ ngay. Tôi như con cá được
trả về sông về biển. Tôi chạy tung tăng
như cậu bé lên năm lên bảy, đi đi,
lại lại hết nơi nầy qua nơi khác từ
những con dường ṃn đến những bờ
ao, bờ ruộng, con đê mà tôi đă từng đi
qua vui chơi cùng bè bạn lối xóm trong thời niên
thiếu. Con
đường làng gập gềnh sỏi đá đă
là bạn đồng hành trong những năm cắp sách
lên phố học. Sáng dậy thật sớm, mẹ tôi
đă nấu cơm tự bao giờ, cơm được
nén chặt vào mo cau, bên cạnh là gói lá chuối đựng
muối mè đậu phụng. Tôi bỏ sách vở cùng
gói cơm vào chiếc cạc- táp cũ bằng da màu vàng
sậm mà ba tôi đă để lại lúc ông đổi
ra tỉnh Thanh Hóa làm viêc, tôi c̣n nhớ những
sợi kẽm nhỏ mà mẹ tôi phải khâu thêm phía
dưới đít cạc- táp cho cây viết và cục
tẩy của tôi khỏi lọt mất. Hồi
đó học sinh từ quê lên tỉnh học chẳng
bao nhiêu, cả làng chỉ năm
ba người may mắn được thi đậu vào
lớp đệ thất. Sáng tờ mờ đă
tụ tập trước đ́nh làng
để cùng nhau vừa đi vừa chạy
suốt đoạn đường dài sáu bảy cây
số sao cho kịp giờ
vào lớp. Tối về mệt lả v́ đường
xa, v́ đói bụng nên chữ nghĩa học
được đều trả lại cho thầy.
Học sinh ở quê chẳng có ai biết đi dép mà
chẳng có dép đâu mà đi nên hai bàn chân cuốc
bộ của tôi giống như hai bàn chân sắt tuy
nhiên đôi khi cũng bị miểng sành hay đinh
nhọn đâm thủng máu me tung tóe đành chịu
trận. Những
ngày mưa gió, băo lụt là những ngày khó khăn
nhất của đám học sinh ở quê nầy.
Chiếc áo tơi bằng lá cây kè hay nói gọn là áo
“tơi lá” được xem như người
bạn đồng hành để chống lại cái
ướt, cái lạnh tê buốt của mùa đông giá
rét ở Huế. Tôi mang chiếc áo “tơi lá “
sủng nước, nặng mùi ẩm mốc vào
lớp học, dựng nó vào một góc pḥng bên
cạnh những chiếc áo mưa bằng ni lông
của các học sinh ở thành phố. Hồi
đó tôi mê có được một cái áo mưa
bằng ni lông như thế nhưng măi đến năm
1954 tôi mới thật sự đi học bằng đôi
dép Nhật và khi trời mưa tôi mới được
choàng lên vai tấm nhựa ni lông màu xanh dương. Trong
những dịp nghỉ hè, tôi bận rộn với
mẹ tôi trong việc đồng áng.
Tôi phải đi chăn trâu, cắt cỏ khi người
làm cho gia đ́nh tôi bận việc. Mỗi ngày tôi
phải cắt hai gánh cỏ non cho hai con trâu một trâu
cái, một trâu đực. Con trâu cái tên Giống, con
trâu đực trên Mă. Con Giống hiền, con Mă hung
dữ, nó là con trâu chém lộn nổi tiếng trong làng
do đó tôi không khi nào dám cửi lên lưng con Mă. Ngược
lại tôi thường cởi con Giống v́ nó đi
đứng nhẹ nhàng, không tuông chạy bất thường
và biết vâng lời khi tôi điều khiển nó. Ngày
nào được mẹ bảo chăn trâu thế cho
người chăn trâu về thăm quê ít ngày th́ tôi
vô cùng sung sướng v́
được một ḿnh dẫn trâu ra đồng
ruộng, được đưa trâu ra tận băi tha
ma Mồ Giếng nơi đây có một cái giếng nước
trong quanh năm, đến mùa nắng hạn, dân làng
thường ra đây lấy nước về dùng.Ngoài
giếng nước trong, nơi đây c̣n có cỏ non
nên hằng trăm con trâu lớn bé được
dẩn ra đây ăn để lũ chăn trâu rănh
thời giờ vui chơi. Với lũ chăn trâu
mặt mày lem luốt, ăn nói bậm trợn, liều
lĩnh nhưng đôi khi dễ thương. Băi tha ma lâu
đời nầy rộng cả chục mẫu đất
với hằng ngh́n mồ mă lớn nhỏ, có cái
bằng cái nón, có cái to bằng sân nhà. Chính cái nhà
mồ to lớn nầy là nơi lũ chăn trâu thường
tụ tập để đánh bi, đánh đáo hay
đánh cù. Để trâu ăn cỏ, tôi theo chúng vui
đùa, theo chúng đi bắt cá bắt cua cho
đến chiều mới dẫn trâu về. Có lần
đang ngồi trên ḿnh con Giống, th́nh ĺnh nó lội
xuống bờ ao uống nước th́ đầu tôi
cũng chúi xuống ao, hai chân tôi vướng vào
cặp sừng của nó,bỗng đầu nó ngẩng
lên làm tôi lộn một ṿng xuống ao. Đây là
lần tôi khiếp nhất và nhớ măi đến bây
giờ. Làng
tôi nằm dọc con đường cái từ làng Vĩ
Dạ xuống tận cửa biển Thuận An,
Huế. Phía sau làng là cánh đồng
lúa với nhiều con rạch dẫn nước vào
ruộng và những con đê chạy song song. Trên đê
là hàng tre xanh để ngăn những cơn gió
mạnh từ biển thổi vào. Con đê và con
rạch nầy là nguồn vui của những đứa
trẻ trong những ngày rănh rỗi hay những buổi
trưa hè. Tôi cũng ra bờ ao câu cá, nhiều lúc câu
cả buổi chỉ được vài con cá nhỏ
đành vác cần câu về nhưng ḷng lại vui v́
được đi thảnh thơi giữa đồng
ruộng bao la xanh mát. Khi mùa khô hạn, tôi lại đi
tác ao, tác đ́a bắt cá,bắt cua. Vào
những ngày lúa làm đồng, trổ hoa, đồng
ruộng trở thành những thảm lúa xanh, vàng óng ánh
từ bờ tre cho đến tận chân trời. Lúc
nầy ṃ cua bắt ếch dọc bờ đê lại
vô cùng ly kỳ. Có lần tôi thọc tay vào một hang
đụng phải đầu một con rắn mà tôi tưởng
là đầu con ếch nhưng khi kéo ra th́ là con
rắn nước, nó chỉ cắn vào đầu ngón
tay làm tê buốt chứ không nguy hiểm. Sau
cánh đồng lúa làng tôi có một
ngôi chùa nhỏ không có thầy trù tŕ nhưng
có hai cha con ở phía sau để nhang khói. Ngoài
việc trông coi chùa, hai người nầy c̣n mở
lớp dạy vơ cổ
truyền Việt Nam nên các thanh niên quanh vùng thường
đến học vơ vào buổi tối sau sân chùa.
Người cha cao lớn nhưng gầy, người
con bằng tuổi tôi, không đi học chỉ ở
nhà giúp cha dạy vơ và nuôi một bầy vịt đẻ.
Thỉnh thoảng tôi gặp hai cha con đưa vịt
ra đồng ruộng ăn, chiều đưa đàn
vịt vào chuồng. Sau nầy lúc đi tù cải
tạo về, tôi về Huế thăm gia đ́nh th́
được biết ông thầy dạy vơ đă
mất, người con nối nghiệp cha và trở thành
một vơ sư nổi tiếng nhất Việt Nam
thời đó. Làng
tôi Nam Phổ c̣n có một món ăn độc đáo,
đó là bánh canh tôm cua nổi tiếng khắp chốn
thần kinh, gọi là Bánh Canh Nam Phổ. Tại khu
phố Bolsa ở miền Nam California cũng có nhiều
tiệm bánh canh Nam Phổ. Lúc
c̣n nhỏ, cứ mỗi chiều, một đoàn người
toàn là các cô gái quê đôi mươi mặc áo dài (
áo phần trên vải
trắng, phần dưới vải nâu) nối đuôi
nhau gánh hai nồi bánh canh nặng đi lên thành phố
Huế để bán. Các cô gái nầy khoẻ mạnh,
buôn gánh bán bưng nhưng rất lễ phép theo
truyền thống, khuôn phép từ thế hệ nầy
sang thế hệ khác. Dù hai vai gánh nặng, các cô
vẫn cởi mở, thân thiện và hiếu khách. Các
cô bước đi nhanh mà dịp nhàng trong lúc hai
nồi bánh canh sáng choang nhẹ nhàng đong đưa
mềm mại theo đôi gióng và chiếc đ̣n gánh trên
vai. Nghề
bán bánh canh Nam Phổ là nghề gia truyền của
người dân làng Nam Phổ. Mẹ tôi và các chị
em tôi thỉnh thoảng cũng bày nấu bánh canh. Nấu
bánh canh muốn ngon cũng lắm công phu từ việc
pha bột cho đến việc làm tôm cua và nêm
nấu… Các
bạn thấy đó. Ca dao có câu “ Con
gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau”,
nhưng thật sự người con gái làng Nam Phổ
không ở truồng trèo cau đâu. Làng Nam Phổ là làng
trồng cau nhiều nên mỗi buổi sáng thức
dậy các nàng muốn chứng tỏ ḿnh giống
mẹ đảm đang việc nhà, trong ngoài đều
quán xuyến nên vừa ra sau vườn vừa ngồi
xuống tè vừa nhin lên mấy cây cau xem buồng cau nào
đến lứa để thuê người đến
lột. Câu “ Gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau” nói lên
cái uy của người con gái làng Nam Phổ dám làm
những điều mà đàn , con trai Nam Phổ không làm
được.Tham công tiếc việc, công dung ngôn
hạnh người con gái Nam Phổ đều có
hết, người con trai làng Nam Phổ thua xa. Điều
nầy không phải tôi nói thêm đâu. V́ các chú
rễ nào ở Huế mà có nàng dâu là người làng
Nam Phổ th́ biết rơ hơn tôi. Hằng
năm vào mùa nước lũ, huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên, Huế đều có tổ
chức đua ghe trên sông Phổ Lợi, đoạn
từ chợ Nọ đến trước mặt
huyện Phú Vang. Đến ngày dự thi các làng
của huyện Phú Vang đều
gửi ghe về tham dự. Trước khi tham
dự các ghe đều được đóng một cách
công phu, có chạm rồng trước mũi, phụng
sau lái và trước khi hạ thủy ghe
được đặt trước chánh điện
của đ́nh làng để dân chúng trong làng đến
chiêm ngưỡng, khấn nguyện, cầu xin thần
làng pḥ hộ cho đân làng gặp nhiều may mắn
trong cuộc sống. Vào
thời tôi, dân chúng Nam Phổ hầu hết theo đạo
Phật, nhà nào cũng là cái am
nhỏ nằm trong khu vườn cau xanh rậm rạp.
Đêm đêm, tiếng chuông, tiếng mỏ ḥa
với tiếng tụng niệm từ những căn nhà
tranh ẩn khuất trong xóm vắng. Một thời gian
tôi đă lớn lên trong tiếng chuông ngân và tiếng
mỏ nhịp mỗi
đêm của mẹ tôi và của hàng xóm. Tôi nhớ
lắm thời xa xưa đó, một nơi b́nh yên
đă mất. Năm
2001, tôi về Huế nhân lúc
mẹ tôi lâm trọng bệnh.
Trở lại căn nhà xưa, gặp lại mẹ tôi
khi bà đang hôn mê trên giường bệnh, gặp
lại chị em và bà con thân thuộc sau bao năm xa cách.
Nh́n lại cảnh cũ người xưa tôi không sao
ḱm hảm bao cảm xúc. Sau một tuần trong căn
nhà cũ mà từ lúc nằm nôi cho đến khi hai mươi
tuổi xa nhà, nay tôi được nh́n lại, tưởng
nhớ bao kỷ niệm như c̣n đâu đây.Tôi bước
ra sau cánh đồng và phóng mắt nh́n về con đê,
con rạch và lũy tre làng nhưng tôi không sao đủ
can đảm cởi đôi giày đang mang để băng
qua con đường đất lầy lội để
đến tận nơi, nh́n tận mắt cái không
gian mà tôi đă để lại đằng sau. Tôi cũng
không dám đi bộ trên con đường cái mà bao năm
là bạn đồng hành của tôi đến trường
Quốc Học, Huế v́ nay con đường đầy
xe cộ, mịt mù cát bụi và không c̣n những cây
sầu đông đầy hoa tím mà tôi yêu thích. Tôi
tự nghĩ có lẽ ḿnh không c̣n liên quan ǵ đến
xứ sở nầy nữa, hay ḿnh chỉ là người
xa lạ ở một nơi nào đó vừa mới
đến nơi đây mặc dầu tai tôi vẫn
nghe ngoài bờ tre vọng lại tiếng chim cu và trong
vườn nhà ai vẫn có hoa bưởi hoa cau
trắng xóa lẫn với hoa mai vàng đang nở
rộ đón xuân về. Và tôi cũng c̣n rung động
khi nhớ lại hồi đó cứ mỗi lần mưa
rơi tầm tả, mấy bạn học cùng làng Nam
Phổ phải chạy lúp xúp trên con đường
nầy dưới cơn lạnh để kịp đến
trường. Dù
thời cuộc thay đổi, cuộc sống của
mẹ tôi vẫn b́nh
dị như bao phụ nữ quê ở Huế. Nay
mặt bà, đôi tay bà đầy vết nhăng
của thời gian nhưng bà vẫn im lặng chịu
đựng bên cạnh vườn cau bụi chuối.
Đă nhiều lần tôi đề nghị lănh mẹ
tôi qua Mỹ sống nhưng bà từ chối v́ bà quen
với lối sống ruộng vườn và con cháu. Gần
một trăm năm sống tại căn nhà nầy
mẹ tôi đă chứng kiến bao thay đổi, bao
nghiệt ngă của gia đ́nh và của đất nước,
nhưng nay bà đang hạnh phúc bên con cháu vào giờ
phút lâm chung. Riêng
tôi vẫn nhớ măi những kỷ niệm không quên. Cali
ngày 23 tháng 3 năm 2018 Tam
Giang Hoàng Đ́nh Báu |