Phù
Cát Trong Tôi
Nguyễn N. Thành |
Về nước
và khoảng tháng 10 năm 1971 sau khi tốt nghiệp Hoa
Tiêu Trực Thăng khóa 71-15 tại trường bay Fort
Hunter, tiểu bang Georgia (USA). Cho đến đầu năm
1972 tôi và một vài người bạn cùng khóa đến
Phù Cát, giữa lúc phi trường và những vùng bao
quanh đang ngập tràn khói lửa. Tŕnh
diện Phi đoàn trực thăng 243 Mănh Sư với
nhiệm vụ là một hoa tiêu trực thăng,
cấp bực Thiếu Úy. Hầu hết các hoa tiêu cơ
bản của phi đoàn đều đang rất
bận rộn với các phi vụ yểm trợ cho các
đơn vị bạn, phần nhiều là Sư Đoàn
22 bộ binh và các đơn vị địa phương
quân cuả tỉnh B́nh Định (Qui Nhơn) trong các
cuộc hành quân lớn nhỏ khắp vùng hai chiến
thuật. Mặc dù đă được huấn
luyện xong ở trường bay nhưng tất cả
các phi công mới ra trường đều phải
được bay huấn luyện bổ túc, nhứt là
để học hỏi kinh nghiệm thực tế trên
chiến trường. Nhưng có lẽ v́ mọi người
đang bận rộn không có ai rảnh để bay
huấn luyện cho bọn tôi và có lẽ v́ là phi công
vừa mới ra trường và c̣n quá non trẻ, nên
chúng tôi đă bị bỏ quên đi suốt vài ba tháng
đợi chờ. Cứ
mỗi sáng lên tŕnh diện phi đoàn, nh́n bản phi
vụ không thấy tên ḿnh, tôi và người bạn
thân cùng khóa là thiếu úy Trần Thanh Ṭng lại
phải đi lang thang, hết đánh cờ tướng,
lại chơi bóng bàn, bida. Căn cứ trưởng Phù
Cát lúc bấy giờ là Trung Tá Nguyễn Hồng
Tuyền, ông ta có mời được vơ sư Lê Sáng
trưởng môn vơ Vovinam từ Sài G̣n ra phi trường
Phù Cát mở vơ đường đầu tiên tại
đây để huấn luyện cho các quân nhân Không
Quân; cho những ai mến chuộng vơ thuật và vơ
đạo. Vốn vỉ là một người ham thích
vơ thuật từ lúc nhỏ, và cũng là để trám
lấp những ngày giờ rảnh rỗi nên tôi đă
trở thành môn sinh Vovinam từ đó, với tâm
huyết là “rèn luyện bàn tay thép và trái tim từ ái”. Rồi sau
đó tôi cũng được bay huấn luyên, và
được bổ xung ra một phi đội
trực thăng tải thương, mà đến đầu
năm 1973 Phi đội nầy trở thành một PĐ
biệt lập có tên là Phi đội 259A Nhân Ái. Phi
đội Trưởng là Đại Úy Nguyễn
Hửu Nghề, (cấp bậc hiện tại). PĐ có
khoảng 15 hoa tiêu, 20 Y tá phi hành và 20 cơ khí viên phi
hành. Chúng tôi sánh vai cùng với phi đoàn 243 Mănh Sư
bay ngang dọc khắp nơi trên vùng trời Phù Cát.
Nhiệm vụ của chúng tôi là “bằng mọi giá
đêm cũng như ngày di tản càng nhanh càng tốt
tất cả các thương binh, tử sĩ khắp các
chiến trường, từ trong rừng sâu, núi cao hay
ngoài biển cả về nơi an toàn để
chữa trị hoặc mai táng nếu là tử sĩ”. Tam quan,
Đề Đức, Bồng Sơn, Phù Cũ, Phù
Mỹ, An Sơn, Mật khu An Lăo, Vĩnh Thạnh... là
những địa danh rải rác khắp vùng hai
Chiến Thuật không nơi nào không có các bóng dáng
của những cánh chim mong manh, nhỏ bé của phi
đoàn 243 và phi đội biệt lập 259A. Không gian
rộng t́nh yêu anh trải rộng, Có đôi
lúc chúng tôi hùng dũng bay đi từ phi trường
thành từng đoàn cùng sự hổ trợ của A37
phản lực cơ thuộc PĐ 532. Rồi cũng có
những lúc chúng tôi âm thầm lăng lẽ bay trong
đêm tối lẻ loi để tranh dành thời gian
từng giây từng phút với thần chết, mang
về quân y viện kịp thời cứu cấp cho các
thương binh cuả các đơn vị bạn, trên
những gành đá cheo leo, trong rừng sâu âm u, trong
những đồn bót đang bị bao vây hay những
đơn vị đang nằm sâu tận trong vùng đất
địch. Cộng Sản lúc nào cũng ŕnh ṃ đâu
đó sẵn sàng đón chúng tôi bằng những tràng
AK, B40, pḥng không 12.7 ly, 12.8 ly hay hỏa tiển SA7...
Đă vào băi đáp rồi là phải cất cánh
thật nhanh, nếu chậm chạp cộng quân sẽ
gởi tặng cho vài ba trái pháo là “Giấc mộng
đường mây” sẽ chấm dứt ngay. Mây mù
bao phủ, gió núi chập chùng, đêm đen lạnh
lẽo, đạn khói bay mịt mù, đó là những
điều mà chúng tôi đă phải đối
diện từng ngày. Một
“Mùa Xuân 68” kinh ḥang, rồi đến “Mùa hè đỏ
lửa 72” đổ nát, một số nhóm từ
ngữ quen thuộc tự nó đă nói lên đầy
đủ sự đau thương tang tóc, sự tàn phá
mănh liệt một quê hương đau khổ.
Việt Nam ơi, quê hương ơi, nước
mắt và máu cuả chúng con và của dân tộc đă
trải dài trên khắp bốn vùng chiến thuật. Vào
những ngày tháng đỏ lửa đó quân và dân
tỉnh B́nh Định thất thủ, hầu hết các
quận về phía bắc từ Tam Quan đổ về
Bồng Sơn, Phù Củ, Phù Mỹ. Phi trường Phù
Cát bị pháo kích từng ngày. Trên tần số UHF lúc
nào tôi cũng nghe “Thiên Phong” lên tiếng, Thiên Phong là
biệt hiệu của Căn Cứ trưởng
Nguyễn Hồng Tuyền để gọi trên tần
số nội bộ mỗi khi ông bay trên vùng trời Phù
Cát. Tôi và mấy người bạn nói lén với nhau
rằng “Không biết Thiên Phong có ngủ gật trên tàu
hay không nhỉ?”. Có lần
đă hết một ngày bay căng thẳng thần
kinh, chúng tôi vừa về đến phi trường Phù
Cát, vào đến “Short final” để đáp
nghỉ ngơi và sẽ được thay thế
bằng toán khác lên vùng tiếp tục bay vào bang đêm.
Chưa kịp chạm đất chúng tôi bị Thiên
Phong gọi lên vùng trở lại, lư do là có yêu
cầu khẩn cấp cuả đơn vị bạn.
Thế là lại phải ṭn ten bay đi tiếp.
Tức ḿnh cái Ông Thiên Phong nầy ghê. Để
dành lại từng tấc đất, từng nhánh sông,
từng khe núi, b́a rừng. Máu và nước mắt
lại đổ ra thêm nữa.. Có những nơi ban ngày
bộ bịnh VNCH đă vào chiếm, đêm về
bị áp lực quá nặng của quân thù lại
phải rút đi. Chờ đến sáng hôm sau có
yểm trợ cuả không quân, đơn vị Bộ
Binh mới có thể vào chiếm trở lại và
rồi lại phải rút lui về ban đêm. Mùa hè
đỏ lửa đă qua, quân và dân tỉnh B́nh định
đă chiếm lại hoàn toàn các vùng đất đă
mất vào tay địch, t́nh h́nh tạm êm một
thời gian ngắn, rồi lại bùng lên dữ
dội hơn. Đến năm 1973 hiệp định
Paris ra đời, Quân và dân ở đây lại
phải chiến đấu từng ngày từng giờ
với âm mưu dành dân chiếm đất của
Cộng Sản, và rồi ngay sau đó hiệp định
“Đ́nh Chiến Paris” đă tan vỡ. Một
ngọn đồi nhỏ về phía tây nam của
quận Bồng Sơn có tên là “Đồi Trái
Chuối” sở dĩ có cái tên như vậy là v́ sau
nhiều ngày hứng chịu bom đạn của
cả hai bên, nên ngọn đồi hoàn toàn không c̣n
một cây cỏ nào sống sót, nó nhẵn nhụi
giống như h́nh một trái chuối. Hôm ấy như
thường lệ tôi cùng với Trung Úy Khiêm nhận
nhiệm vụ tải thương binh tại “Đồi
Trái Chuối” nầy. Cất cánh
từ phi trường dă chiến An Sơn, hậu
cứ của Sư Đoàn 22 BB chúng tôi bay về phiá
bắc dọc theo quốc lộ một. Hôm nay trời
trong, mây trắng từng cụm, chúng tôi có thể bay
cao lên đến ba hoặc bốn ngàn bộ (feet) để
tránh hoả lực của VC. Bay đến đỉnh
đèo Phù Củ thời tiết tốt nên chúng tôi liên
lạc với đơn vị bộ binh bên duới
bằng tần số FM rất rỏ. Nơi đây chúng
tôi có thể nh́n thấy rỏ “Đồi Trái
Chuối” nằm sâu về phía tây. Hôm đó
Trung Úy Khiêm ngồi ghế hoa tiêu chánh nên tôi nhường
cần lái cho anh vào vùng “hot”. Là vùng đất có
rất nhiều ổ pḥng không 12.7 ly cuả cộng quân
nên Trung úy Khiêm giảm thật nhanh cao độ, càng
nhanh càng đỡ nguy hiểm. Từ ba ngàn bộ rơi
xuống gần đến một ngàn năm trăm
bộ, tôi đang loai quay chỉnh máy FM và điện
đàm với đơn vị bạn bên dưới,
bỗng nhiên nh́n xuyên ra phía duới “cockpit” tôi
thấy hai đường đạn pḥng không cuả
địch bay thẳng lên, thân tàu run chuyễn mạnh
rồi quay ṃng. Tôi la lên “Tail rotor”, Khiêm.. Thật là
nhanh nhẹn và tài t́nh, Trung úy Khiêm người bạn
thân mến cuả tôi đă kịp thời đè
mạnh cần lái bên tay trái (collective), cắt power
(close the throttle), quay nhanh cần bên tay phải (cyclic) hướng
con tàu ra băi cát cuả bờ sông Bồng Sơn và
nhẹ nhàng đáp xuống (made Auto rotation landing)
một cách an toàn. Trong lúc đó tôi như một cái máy
tự động bật sang tần số khẩn
cấp (guard) liên lạc với chiếc trực thăng
chỉ huy (C&C) trên bầu trời. Ngay khi con tàu
chạm đất, không cần đợi lịnh, hai
anh bạn “Cơ Khí Phi Hành” và “Y Tá Phi Hành” nhanh
nhẹn gỡ hai khẩu đại liên M60 có sẵn trên
trực thăng chỉa thẳng vào bià rừng, sẵn
sàng nhả đạn. Trung Úy Khiêm lúc b́nh thường
chập chạp hiền từ như ông cụ non, hôm
nay anh nhanh nhẹn như con hổ, vừa tông cửa
trực thăng nhảy ra ngoài vừa lên đạn cây
M16 mắt đỏ ngầu, mặt đanh lại nh́n
đăm đăm về phía trước. Hai chiếc
trực thăng vơ trang (Gun Ship) cuả Mănh Sư 243
kịp thời bay vào vùng và đă yểm trợ chúng
tôi một cách hữu hiệu trên bầu trời, nên
bọn VC không dám tràn đến gần chúng tôi.
Một Mănh Sư khác đáp ngay xuống bốc chúng tôi
lên. “Không quân thà chết không bỏ anh em, không
bỏ bạn bè”. Thế là chúng tôi an toàn chào
tạm biệt bọn VC. Có lẽ ở bên dưới
bọn chúng đang núp ló đâu đó nh́n theo chúng tôi
một cách tức tối. Phi trường
Phù Cát, thị xă Quy Nhơn tỉnh B́nh Định cùng
với những địa danh quen thuộc mà có lẽ
nó đă và đang ngự trị trong tôi suốt
cả cuộc đời nầy, v́ nơi đó đă
thấm từng giọt mồ hôi, nước mắt và
máu cuả rất nhiều bạn bè thân yêu cuả tôi. “Ha! ha!
Ha! Tàu đứt đuôi rồi” đó là tiếng nói
và tiếng cười cuối cùng của bạn tôi,
Trung úy Tâm trên tần số khẩn cấp, ngay khi anh
bị đạn pḥng không của VC bắn trúng
tại đèo Phù Củ nằm về phía bắc Phi trường
Phù Cát. Cho đến giờ nầy đôi khi trong
giấc mơ tôi c̣n nghe rỏ giọng cười
đau nhói như mủi tên đâm thấu vào tim. Trung
úy Ấu ngựi bạn cùng phi đội với tôi
bị mảnh đạn pháo 122 ly xuyên qua cổ
ngả ra chết ngay bên cạnh tôi, máu và thịt
cuả anh c̣n vương văi lên người tôi. Và c̣n
nhiều người nữa như là Trung Tá Thân
một cánh chim đầu đàn kính yêu của phi
đoàn 243 Mănh Sư đă vỉnh viễn bay vào không
gian để lại trong tôi bao niềm đau và
nỗi nhớ. Chinh
chiến năm xưa Nhưng
rồi chinh chiến tàn, Vào
những ngày cuối cùng của tháng Tư đen năm
1975. Chúng tôi lại phải ngậm ngùi từ giă Phù Cát
thân yêu và để lại máu xương của
bạn bè nằm rải rác đâu đó, trên những
con đường ṃn, trên những đồi cao, hay
trong rừng sâu âm u. Không quân là vậy đó “ra
đi không ai t́m xác rơi”. Bên kia
bờ đại dương, Tổng Thống Mỹ tuyên
bố “Lịch sử đă sang trang”. Vâng người
Mỹ đă mở một trang lich sử thật là
ngoạn mục, với hàng triệu quân, dân cán chính
VNCH, phải băng rừng vượt suối. Họ
đi về đâu vậy? chạy giặc Công Sản
đấy. Thây người ngă gục, xác người
trôi sông, xương trắng ngoài đồng. Chinh
chiến tàn, Quê hương
ơi, đồng bào ơi, xin hăy tha thứ cho chúng
con, những người trẻ có đầy nhiệt
huyết nhưng đành bó tay, không làm ǵ được
để cứu giúp cho đồng bào và tổ
quốc thân yêu. NGUYỄN
N. THÀNH
P.Đ.
259A Nhân Ái |