Mười lăm tuổi, tôi mới được
đặt chân đến thủ đô Sài G̣n của
Việt Nam Cộng Hoà. Tiếc là khi ấy, chế
độ Việt Nam Cộng Hoà đă mất, nên tôi
chẳng biết ǵ về sự giàu sang, đẹp
đẽ của “ḥn ngọc viễn đông”. Năm
1975, gia đ́nh chúng tôi chạy giặc từ miền
Trung qua các tỉnh vào đến Sài G̣n, cũng là lúc
Sài G̣n “được giải phóng”. Gia đ́nh chúng
tôi vào sống tạm trong một căn nhà bỏ hoang
của khu gia binh, gần phi trường Tân Sơn
Nhất.
Sau 30/4/1975, cha tôi bị đi tù “cải tạo” không
biết nơi nào v́ ông là sĩ quan An Ninh Quân Đội
của chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Bơ vơ
giữa Sài G̣n xa lạ, bạc tiền không có, mẹ
tôi rối bời và lo lắng đến gầy
tọp hẳn đi. Tối nào mẹ và bảy anh em chúng
tôi, đứa em út chưa đầy một tuổi, cũng
khóc sướt mướt. Đói quá, tôi bỏ qua
sự xấu hổ, dắt các em lớn hơn đi làm
nghề ăn xin. Hằng ngày tôi dắt các em đi xin
ăn khắp nơi, từ sáng sớm cho tới
tối mịt. Khi chân tay mỏi nhừ, cả người
ê ẩm, anh em mới kéo nhau về. Sài G̣n lúc ấy
thật tang thương, hoang tàn và mọi người
ai cũng đói khổ. Tuy vậy, người dân Sài
G̣n vẫn thương cho anh em chúng tôi ít gạo, chút
tiền, đơn giản có nhà cho cái bánh, cây kẹo
hoặc mấy trái chuối chín vàng.
Về sau, thấy các em tôi khóc mỗi sáng v́ không
muốn đi ăn xin, mẹ tôi đến một
tiệm bánh của người Tàu, lấy bánh bao
chỉ cho tôi và đứa em gái kế đi bán. Ngày
đầu đi bán, hai anh em đón xe buưt đi lên Sài
G̣n. Chúng tôi chia ra hai hướng đi bán, hẹn khi bán
xong, gặp nhau tại bùng binh chợ Bến Thành để
cùng về.
Đến trưa bán hết bánh, tôi đi đến bùng
binh chợ Bến Thành t́m em. Tôi sợ hăi khi thấy
em gái tôi ngồi khóc tức tưởi dưới tượng
đài Quách Thị Trang. Em kể, có một chị
tới mua bánh, nói em qua tiệm may của mẹ chị
bên kia đường lấy tiền. Em đi qua
tiệm may họ nói, không có đứa con nào. Em
về lại bên này th́ chị ấy trốn mất cùng
với thau bánh. Kể xong em tôi càng khóc nức nở hơn.
Tôi nói với em, mất rồi th́ thôi, về chứ
ngồi khóc được ǵ. Em nhất định không
chịu về, bắt tôi phải đưa em đi t́m
chị kia đ̣i lại thau bánh.
Mấy chú xích lô, xe thồ và những cô bán hàng rong
quanh bùng binh thấy em tôi khóc dữ quá, nên đến
bao quanh hỏi chuyện. Sau khi biết em tôi bị
mất thau bánh, họ gom góp tiền lại cho hai anh em
chúng tôi. Có chú c̣n đến gặp những người
đi dạo quanh đó để xin tiền giùm cho chúng
tôi. Em tôi mừng rỡ khi thấy các cô chú cho
tiền c̣n nhiều hơn cả số vốn đă
mất. Anh em tôi ṿng tay, cám ơn từng cô chú trước
khi về. Khi ấy tôi chưa nhận ra sự giúp
đỡ tuy giản dị, nhưng lại lớn lao như
thế nào, chỉ biết cám ơn như đă
được dạy là phải cám ơn những ai giúp
đỡ ḿnh.
Mẹ con chúng tôi không phải là dân sống ở Sài
G̣n, không có nghề nghiệp ǵ nên chính quyền “cách
mạng” buộc chúng tôi phải đi kinh tế
mới.
Lên vùng kinh tế mới chưa được một
năm th́ mẹ tôi qua đời v́ bị bịnh
sốt rét cấp tính. Anh em chúng tôi bơ vơ trong
cảnh khó nghèo, tay chân mọc đầy u nần v́
phải đào bới đất đá nơi vùng
rừng núi để sống qua ngày. Chính quyền
địa phương không cho chúng tôi tham gia vào các
sinh hoạt hay hội đoàn v́ có cha là “thành
phần ác ôn đang cải tạo”, nên chúng tôi
chẳng là ǵ trong xă hội.
Đến năm 1984, cha chúng tôi được
thả về sống lây lất cùng với chúng tôi. Mấy năm sau, thấy nhiều người
lo thủ tục giấy tờ đi Mỹ diện HO,
cha tôi chạy đến anh em, bà con họ hàng xin
xỏ, vay mượn tiền để làm hồ sơ
đi Mỹ. Chờ đợi mấy năm, chúng tôi
nhận được giấy báo đi phỏng
vấn, cả nhà rất mừng. Cha tôi lại chạy
vay tiền bạc để vào Sài G̣n phỏng vấn,
khám sức khoẻ. Chúng tôi hồi hộp, lo lắng từng ngày,
chỉ sợ có điều ǵ trục trặc hay thay
đổi.
Một trong những điều may mắn và hạnh phúc
nhất trong cuộc sống của gia đ́nh chúng tôi
là ngày được đi Mỹ. Tháng 6 năm 1994, cha con chúng
tôi mới được đi Mỹ. Ngày đi, mỗi người chúng tôi chỉ có
vài bộ quần áo sờn rách làm hành trang để
đi từ vùng rừng núi hoang dă đến một
thế giới văn minh tiến bộ. Tâm trạng chúng
tôi thật háo hức, vui mừng, nhưng cũng đầy
âu lo.
Sau khi làm xong thủ tục giấy tờ, chúng tôi bước
ra khỏi phi trường Los Angeles. Ánh nắng vàng
rực rỡ của tháng Sáu trên đất California là
điều mới lạ đầu tiên làm chúng tôi
bối rối, v́ lúc đó đă tám giờ tối. Ông
bác, người bảo trợ, lái chiếc xe Van
chạy trên đường cao tốc, qua các phố xá,
làm cả gia đ́nh chúng tôi choáng ngợp trước
sự giàu sang của nước Mỹ. Tôi thầm nghĩ,
không biết bao giờ ḿnh mới có xe để lái
đi làm như những người dân bản xứ.
Bác chở gia đ́nh chúng tôi đến một căn
nhà mà ông đă mướn sẵn cho gia đ́nh. Trước
khi về, ông c̣n chu đáo hướng dẫn cho chúng
tôi cách sử dụng các tiện nghi trong nhà. Mấy tháng
đầu, mỗi người trong gia đ́nh nhận
được gần ba trăm đô la của chính
phủ trợ cấp để sinh sống và t́m
việc làm trong thời gian hội nhập.
Gia đ́nh chúng tôi định cư ở
quận Orange,
nơi khí hậu có phần giống ở Việt Nam.
Người Việt tại đây tụ họp lại
thành một cộng đồng đông đúc. Tuy đang
sống tại nước Mỹ, nhưng chúng tôi có
thể nói tiếng Việt mọi nơi, như khi
đi chợ, đến văn pḥng bác sĩ, nhà thương,
luật sư, ngay cả ở các công sở của chính
quyền thành phố, sở cảnh sát, toà án cũng có
nhân viên người Việt thông dịch. Nhưng điều
tôi thích nhất ở Mỹ là không c̣n lo vấn đề
hộ khẩu, không bị ai phân biệt và ḿnh
muốn sống ở đâu th́ sống.
Chúng tôi đến nhà thờ Saint Anselm, Hội thánh Tin
Lành ở đường Galway, thuộc thành phố
Garden Grove, gần khu trung tâm Little Sài G̣n, để làm
giấy tờ và ghi danh học Anh Văn. Tuy bỡ
ngỡ v́ môi trường và ngôn ngữ, nhưng
nhờ sự giúp đỡ của nhân viên trong trường,
chúng tôi cũng làm xong những giấy tờ cần
thiết. Sau khi thử tŕnh độ tiếng Anh,
cả gia đ́nh chúng tôi đều được
xếp vào học chung một lớp có tŕnh độ
thấp nhất.
Mỗi sáng, cha con, anh em chúng tôi và những người
Việt mới qua Mỹ, ăn mặc chỉnh tề, xách
cặp đi học đúng giờ như những
học tṛ ngoan.
Mọi người kéo nhau từng đoàn đi bộ
thong dong bên đường, khiến nhiều người
Mỹ đang bận rộn lái xe phải ngạc nhiên.
Vào lớp, già trẻ lớn bé ngồi bên nhau, thi
đua học tiếng Anh, học phong tục, văn hoá
Mỹ và học cách phỏng vấn để xin
việc làm.
Sau ba tháng học hành, nhà trường chở chúng tôi
đến một hăng điện tử ở thành
phố Irvine để phỏng vấn xin việc làm. Tôi
làm bài thi viết tiếng Anh và toán một dễ dàng.
Đến lượt tôi được gọi tên vào
phỏng vấn, người phụ trách phỏng
vấn là một phụ nữ Mỹ trắng,
khoảng bốn mươi tuổi. Tôi học tiếng
Anh cũng không tệ, vậy mà tôi như người
vừa điếc vừa câm khi nghe bà ta nói với tôi.
Ở trường, tôi được các thầy cô
dạy, đă tập dượt phỏng vấn
nhiều lần, nhưng v́ hồi hộp và bà ấy nói
nhanh nên tôi chẳng hiểu ǵ.
Thấy ánh mắt bà ấy nh́n về phía cánh cửa,
tôi đoán có lẽ là bảo khép cửa pḥng lại.
Tôi khép cửa lại và đứng chờ. Bà ta nói
tiếp, tôi chỉ nghe chữ sit down nên vội ngồi
xuống chiếc ghế trước bàn. Bà ấy nh́n
vào bảng tóm tắt lư lịch của tôi và liên
tiếp hỏi nhiều câu. Đầu óc choáng váng, tôi
cứ nh́n mắt, miệng của bà ấy để
đoán và trả lời đại. Tôi trả lời
hú họa, khi yes khi no sau mỗi câu hỏi. Suốt
buổi phỏng vấn, tôi chỉ trả lời
được đúng hai từ yes và no. Bỗng dưng
bà ta ngửa mặt lên, bật cười ha hả,
rồi khua tay lia lịa ư bảo tôi đi ra. Tôi đỏ
mặt, xấu hổ bước ra. Khép cửa pḥng
lại rồi mà tôi vẫn c̣n nghe tiếng cười,
có lẽ bà ấy không c̣n ḱm nén nổi cơn cười
của ḿnh v́ những câu trả lời yes no chẳng
đâu vào đâu của tôi.
Vậy mà bà ấy cho tôi đậu cuộc phỏng
vấn, được vào làm việc trong hăng. Tôi
mừng quá, tôi đă có việc làm và không cần
ăn tiền trợ cấp của chính phủ nữa.
Các em tôi không qua được cuộc thi nên đứa
th́ đi làm hăng may áo quần, đứa th́ học làm
nghề móng tay, móng chân.
Tôi không có xe, nhưng may có một anh làm ở hăng
đó giúp chở tôi đi. Sáng sớm, tôi xách hộp
cơm ra đường đứng chờ anh ấy
đến đón đi làm. Công việc đầu tiên
của tôi là lau chùi những máy móc điện tử,
việc này rất nặng nhọc, làm tôi hơi chán
nản. Những ngày kế tiếp, làm quen việc nên
tôi thấy cũng không vất vả mấy nữa.
Tôi nói và nghe tiếng Anh không giỏi, nên tôi cố
gắng làm việc chăm chỉ. Thấy vậy, người
quản lư trong hăng thương và thường đến
nói chuyện với tôi để giúp tôi học nghe nói
tiếng Anh. Mấy tháng sau, tôi được cho lên làm
ở khâu đóng thùng.
Đi làm về đến nhà, toàn thân mỏi nhừ,
ăn uống không thấy ngon, nhưng tôi phải ráng
ăn để có sức ngày mai đi làm. Trong thời
gian này, tôi chi tiêu hết sức tiết kiệm v́ tôi
thực sự hiểu được giá trị của
đồng tiền mồ hôi nước mắt mà ḿnh
làm ra. Tôi đến nhờ bác tôi giúp làm người
bảo trợ để tôi mua xe trả góp, nhưng bác
có việc riêng không giúp được. Lúc đó có
một cô lớn tuổi, bạn của bác đang
đến chơi, không cần lời nhờ giúp mà cô
đă đứng ra chịu làm người bảo
trợ cho tôi mua xe. Cô đă bỏ thời giờ
đưa tôi ra nơi bán xe, bỏ công ḱ kèo trả giá
hết cả nửa ngày trời để tôi mua
được xe. Tôi rất ngạc nhiên về ḷng
tốt của cô, mới lần đầu gặp
mặt, chẳng biết tôi thế nào, làm ǵ, nhưng
cô đă tin tưởng, tận t́nh giúp tôi như
vậy. Tôi thật không biết làm thế nào để
tỏ ḷng biết ơn cô một cách phải phép
để cô không giận.
Mỗi ngày, sau khi làm những công việc cực
khổ, chân tay ră rời, tôi lại đến trường
học tiếng Anh và học thêm nghề điện
tử vào ban đêm. Mấy năm sau, tôi vào học trường
cao đẳng cộng đồng. Tôi biết tôi
thiếu kiến thức tối thiểu, không có tŕnh
độ hay bằng cấp ǵ, nên tôi quyết tâm
phải học. V́ không đúng tuổi đi học, tôi
được chính phủ cho tiền khuyến khích hoàn
tất chương tŕnh đại học. Không như
bạn bè cùng trang lứa, tôi phải mất nhiều năm
hơn họ mới tốt nghiệp được.
Nhờ được hưởng những lợi ích xă
hội cùng với mơ ước được
học hành đến nơi đến chốn,
muốn thăng tiến, tôi đă vượt qua khó khăn
và hoàn tất chương tŕnh học. Tôi chăm
chỉ việc học và tham gia vào nhiều hoạt
động xă hội nên tôi cũng đă hoà nhập
được với cuộc sống mới nơi
đất khách quê người.
Từ một người không biết tiếng Anh, công
việc ban đầu là lau chùi máy móc với đồng
lương tối thiểu, tôi được cất
nhắc lên làm kỹ thuật viên, rồi làm quản lư
trông coi một bộ phận trong hăng khi tôi tốt
nghiệp kỹ sư điện tử. Bước
đầu đến Mỹ, tôi chẳng có ǵ ngoài
những kinh nghiệm khổ đau ở Việt Nam, nhưng
cũng nhờ những sự nhọc nhằn đó mà
tôi càng cố gắng hơn khi có cơ hội làm
lại cuộc đời. Giai đoạn khó khăn ban
đầu của tôi trên đất Mỹ đă qua. Tôi
đă vượt qua những trở ngại về văn
hoá, ngôn ngữ, thích nghi và hoà nhập với cuộc
sống ở quê hương mới này.
Bây giờ có công việc ổn định hợp
sở thích và vật chất tạm đủ nên
cuộc sống của tôi thoải mái hơn. Vâng, tôi
cảm thấy đầy đủ, v́ so với khi c̣n
ở Việt Nam th́ tôi đă giàu có quá rồi. Tuy
vậy, tôi vẫn phải nỗ lực hơn, v́
cuộc sống ở nước Mỹ đ̣i hỏi
sự học luôn măi để không bị tụt
hậu. Đă từng là gánh nặng cho chính phủ
trong những tháng đầu tới Mỹ, nay tôi có
thể đóng góp một phần công sức, của
cải lại cho quê hương thứ hai của tôi. Lúc
này tôi cảm thấy sung sướng v́ đă đi
qua những khó khăn.
Nhiều năm sau, cha tôi bị ung thư đă đến
giai đoạn cuối. Bác sĩ phải giải
phẫu một lỗ ngay cuống họng, đặt
ống dây vào cho ông thở. Nằm nhà thương
điều trị hơn một năm, như cây đèn
cạn dầu, cha tôi yếu dần, thân người
chỉ c̣n da bọc xương, nhỏ thó như
một đứa con nít thiếu ăn. V́ ung thư
đă lan tới phổi, nên bác sĩ không dùng phương
pháp điều trị tia xạ hay phẫu thuật
được, mà phải dùng hoá trị cho ông. Ông
thở, ăn uống và chuyền thuốc đều
phải qua những ống dây. Muốn nói chuyện ông
phải dùng giấy viết.
Trước ngày chết, cha tôi lấy giấy bút ra
viết, “Ba có ba ngàn đô trong ngân hàng, con lấy
tiền đó để hoả thiêu, đưa tro
cốt ba về Việt Nam chôn cạnh mộ mẹ
con”. Tôi biết cha ḿnh sắp chết, nhưng lại
viết, “Ba chưa chết đâu, đừng lo
lắng, hăy cố sức để bác sĩ chạy
chữa”. “Ba biết bệnh t́nh của ba, ba muốn
nằm bên cạnh mộ mẹ con khi từ giă cơi
đời. Con hăy ráng lo cho nguyện ước cuối
cùng của ba”. Câu cuối cùng cha viết cho tôi,
“Thế là hết một kiếp người”.
V́ tất cả anh em chúng tôi đều ở Mỹ và
nơi chôn cất xác mẹ ở vùng kinh tế mới
heo hút, nên anh em bàn đem tro cốt của mẹ qua
Mỹ, đặt bên tro cốt của cha trong nghĩa
trang. Như vậy cũng thực hiện được
ước muốn của cha là được nằm
cạnh bên mẹ khi chết và chúng tôi cùng con cháu cũng
được đến viếng thăm, thắp nhang
cầu nguyện thường xuyên hơn.
Con đường đến nghĩa trang, nơi chôn
cất mẹ tôi, đầy hoa cỏ dại, quanh co và
gập ghềnh đầy rảnh bánh xe trâu ḅ. Anh em
chúng tôi nhờ bà con họ hàng đến giúp bốc
mộ, hốt cốt mẹ để chúng tôi
đưa qua Mỹ. Anh em chúng tôi đốt nhang
cắm trước mộ mẹ, quỳ xuống vái
lạy xin mẹ cho anh em được cải táng
đưa mẹ qua Mỹ. Một ông cậu đưa
cho tôi cái búa tạ để đập nhát búa đầu
tiên. Khi tôi đập búa vào mộ mẹ, nghe tiếng
vang khô khốc của nhát đập, ḷng tôi bỗng
rung lên một cảm giác vừa buồn vừa sợ.
Tôi buồn sợ v́ đă đánh động, làm
mẹ tỉnh giấc sau ba mươi mấy năm yên
ngủ dưới mộ sâu.
Mọi người bắt đầu đọc kinh
cầu nguyện, anh em chúng tôi vừa đọc
vừa thổn thức khóc bên mộ mẹ. Việc
bốc mộ thật không dễ dàng, v́ đă lâu năm
nên hài cốt bị lệch vị trí nơi chôn trước
đây. Sau nhiều tiếng đồng hồ mới
chạm đến phần đất có lớp ván
đă mục, cậu tôi gạt những phần đất
đó qua một bên th́ lộ ra bộ hài cốt
trắng sáng của mẹ. Mẹ vẫn nằm ngay
ngắn, nhiều sợi tóc chưa mục bao quanh
hộp sọ chứa đầy đất đá và
rể cây bên trong.
Cậu tôi cẩn thận nhặt từng cái xương,
rũ cho bớt đất, rửa sạch bằng rượu,
sắp xếp gọn gàng theo thứ tự từng
chiếc xương vào một chiếc ḥm nhỏ để
đưa đến nơi hoả thiêu.
Sau bao nhiêu khê của thủ tục xin phép thôn xă, các
cơ quan công quyền, pḥng kiểm dịch, nhân viên
phi trường, anh em tôi mới đưa được
tro cốt mẹ qua Mỹ. Khi đặt hộp tro
cốt của mẹ bên cạnh hộp tro cốt
của cha, tôi nghĩ chỗ thật sự cha mẹ
nằm là trong trái tim của chúng tôi. Cuộc đời
cha mẹ đă hy sinh, chịu nhiều đau khổ v́
chúng tôi, nên chúng tôi phải dành chỗ gần
nhất, cao quư nhất trong tim ḿnh cho cha mẹ.
Gia đ́nh anh em chúng tôi thường đưa các con
của ḿnh ra nghĩa trang đọc kinh, cầu
nguyện cho vong linh cha mẹ chúng tôi. Chúng tôi muốn
các con biết cội nguồn đă sinh ra ḿnh để
nhờ đó mà anh em, con cháu được nối
kết t́nh thân ái trong gia đ́nh hơn. Tôi ước
mong các con tôi sẽ tiếp tục ǵn giữ ḷng
biết ơn tổ tiên và nhớ đến ḍng
chảy sướng khổ đầy vơi của gia
đ́nh trôi trong ḍng đời vô biên, bao la của
đất trời.
Tôi cũng không quên cầu nguyện cho các ân nhân và
những người đă bỏ công của làm ra chương
tŕnh HO, nhờ họ mà tôi mới có ngày được
sống cuộc đời đầy đủ, tự
do. Tôi biết ơn nước Mỹ đă cho tôi có cơ
hội để thực hiện những ước mơ
của ḿnh, để sống một cuộc đời
ư nghĩa và có ích cho xă hội.
Tôi đă bỏ lại sau lưng đoạn đời
tủi nhục, khốn khổ ở quê hương
thứ nhất để bước tiếp quăng
đường tương lai tươi sáng trên quê hương
thứ hai. Trải qua bao khốn khó, thăng trầm
trong đời, điều đă để lại
dấu ấn sâu đậm trong tim tôi là sự ban
ơn của các ân nhân. Mang ơn nhiều người,
nhưng có lẽ tôi không cách nào đền đáp cho
đủ được t́nh thâm sâu của các ân nhân,
tôi chỉ c̣n có thể chia xẻ các món nợ ân nghĩa
đó với những thế hệ sau.
Tôi mang ơn những ân nhân trên đất Mỹ đă
giúp tôi có ngày hôm nay, nhưng tôi cũng không quên
những ân nhân nghèo khổ của tôi ở Việt
Nam. Giữa lúc cuộc sống đầy khó khăn, dù
thân ḿnh không hề yên ấm, nhưng họ vẫn
quan tâm trước mất mát của anh em chúng tôi. Ḷng
thương hại chân thành của họ cho tôi
thấy, nhiều người dù đang có những
thống khổ của riêng ḿnh, nhưng vẫn không
nhắm mắt làm ngơ với những khổ đau
của người chung quanh. Tôi khó mà quên được
những người tuy nghèo khó, nhưng vẫn cảm
thông được với nỗi khổ và sẵn sàng
giúp đỡ người khác như một hành động
b́nh thường, một thói quen tự nhiên. Tôi may
mắn có nhiều ân nhân, được họ ban cho
nhiều niềm vui lớn và những t́nh thương
yêu, tuy giản dị mà cao quư.
Bây giờ có ai hỏi, điều ǵ c̣n làm tôi
khắc khoải? Vâng, đó là tôi vẫn luôn nhớ
quê hương xa cả nửa ṿng trái đất
của tôi. Dù có quốc tịch Mỹ, đă hoà
nhập với quê hương mới, nhưng v́ tôi
sinh ra lớn lên tại Việt Nam và qua Mỹ khi
tuổi đă lớn, nên tôi không sao quên được
quê hương Việt Nam. Tôi không chỉ nhớ
những vùng đất tôi đă sống, đă đi
qua, mà tôi c̣n nhớ cả những con người sinh
sống ở trên những vùng đất đó. Đa
số những kỷ niệm của tôi ở Việt
Nam là những kỷ niệm buồn, c̣n những
kỷ niệm trên đất Mỹ th́ ngược
lại. Mặc dầu vậy, tôi lại thường
nhớ đến những kỷ niệm ở Việt
Nam hơn, có lẽ chúng đă có đủ thời gian
để thấm nhập, để bám chặt vào kư
ức của tôi.
Phước An Thy
|