Từ
Rừng Sát đến Tây Ninh
Viên Linh |
Ngày
mồng 6 tháng này ngót nghét 60 năm trước, Tháng Mười
Một, 1955, đoàn quân chiến thắng chiến
dịch Hoàng Diệu được đón tiếp
rầm rộ giữa thủ đô Việt Nam Cộng Ḥa.
Một thể chế mới được chính
thức thành lập được đúng mười
ngày trước, nhân Hiến Ước Lâm Thời
được công bố, 26 Tháng Mười, 1955. Người
viết bài này chưa đến tuổi 18, nhưng
đă có mặt trên chiến đỉnh Chi Lăng
của Đại Tá Dương Văn Minh tiến vào
Rừng Sát cuối tháng trước. Niềm háo
hức nhất của chàng phóng viên trẻ không
phải là v́ quân ta chiến thắng, mà v́ lời tuyên
bố ngay lúc đầu của đại tá tư
lệnh thuyết tŕnh cho phái đoàn báo chí khoảng
bảy tám người đang đứng trước
mặt, khi tàu từ Cap Saint Jacques vừa chạy ngang
qua Nhà Bè, tiến vào căn cứ cuối cùng của B́nh
Xuyên, chủ nhân ṣng bài Đại Thế Giới. Không
c̣n nhớ hết những ǵ vị tư lệnh cao
lớn nói, nhưng có chi tiết hấp dẫn đối
với tôi là không những “chúng ta vô bắt Bảy
Viễn, cùng giám đốc cảnh sát của ông ta là
Lai Văn Sang, và hai cố vấn tham mưu của B́nh
Xuyên là Hồ Hữu Tường và Trần Văn Ân.”
Hẳn là tôi bị khích động sao đó nên Đại
Tá Minh bỗng ngừng nói, nh́n tôi: “Ủa cậu này
làm chi ở đây?” Tôi lúng túng chưa kịp
trả lời th́ may thay một đồng nghiệp
đứng tuổi nói giùm: “Thưa, anh ấy là phóng
viên nhật báo Ngôn Luận.” Vốn
là khi ở Hà Nội c̣n học đệ lục, độc
giả thiếu nhi có kẻ đă đọc Hồ
Hữu Tường. Hằng ngày đi học qua Phố
Huế, tôi ghé vào hiệu sách B́nh Minh thăm bạn
học tên Đ́nh Xung và là con bà chủ hiệu sách.
Chủ yếu là đọc ké những ǵ đọc
được, trong có những tờ báo như Đời
Mới, Mới, Tin Điển (dấu hỏi, thay v́
phải Tin Điện, dấu nặng), từ Sài G̣n
gửi ra. Cũng
có một tờ nữa rất tục tĩu, có mục
ngữ vựng đối chiếu những từ
ngữ Trung Nam Bắc gọi một vật một
việc mà ba miền gọi khác nhau ra sao. Thường
là đọc để cười v́ sự ngộ nghĩnh
song không khỏi đỏ mặt khó chịu nghĩ
rằng ǵ th́ ǵ, đă mang danh một tờ báo văn
hóa th́ không thể viết ra những câu những
chữ sỗ sàng gây tổn thương những tâm trí
vô ưu. Và cũng không thể gọi Tin Điện là
Tin Điển được. C̣n
Hồ Hữu Tường lúc ấy đang rất
nổi danh với Phi-Lạc Sang Tầu (1954), Phi-Lạc
Náo Hoa Kỳ (1955), hai cuốn trong bộ truyện Ngàn Năm
Một Thuở mà cuốn thứ ba đang được
bàn tán đón đợi, song chẳng bao giờ
thấy xuất hiện. Trần Văn Ân là chủ
nhiệm tuần báo Đời Mới, tờ báo sinh
động phong phú, quy tụ được những nhà
văn đương thời và quan trọng hơn
cả: đất hứa của những cây bút trẻ
vừa bước vào khu vườn văn nghệ. V́
đọc Hồ Hữu Tường với lối
kể chuyện và dẫn truyện lôi cuốn mạnh
mẽ như ḍng nước chảy, nên tôi giật ḿnh
khi nghe Đại Tá Minh hứa hẹn chút nữa các nhà
báo sẽ gặp Hồ Hữu Tường. Tôi nghĩ
ngay trong đầu là khi gặp lư thuyết gia Trung
Lập Chế trong Rừng Sát ḿnh phải hỏi ông câu
ǵ trước nhất? Hỏi về thằng mơ Cổ
Nhuế làm quân sư tào lao (mà không bị bắt) hay
về chuyện Cống Quỳnh khỏa thân trong Tử
Cấm Thành Bắc Kinh (mà không sao) c̣n ông th́ lúc nào cũng
tù tội? Bây giờ bị bắt nữa rồi làm
sao? Nhưng
hôm đó chẳng ai bắt được ai hết. Lúc
chiếc chiến đĩnh đâm mũi vào bờ, chúng
tôi nhảy xuống, gặp một nhóm quân nhân. Họ
dẫn sâu vào trong rừng, không vội vàng v́ đám
loạn quân đă chạy mất cả rồi. Một
sĩ quan cấp nhỏ chỉ vào đống củi cháy
dở, làn khói trắng khá đậm c̣n bốc lên
từ cái bếp dă chiến, nói rằng các đầu
năo B́nh Xuyên đang ăn uống th́ thấy động,
đă bỏ chạy hết, không bắt được
ai! [Vụ này cho tới nay đă phần nào ra ánh sáng.
Các tác giả Hoàng Cơ Thụy, Trần Ngươn
Phiêu, Huỳnh Văn Lang… có nhắc đến cách này
cách khác. Người th́ viết rằng Lai Văn Sang
(giám đốc cảnh sát của B́nh Xuyên) khi bị
đuổi gấp đă quăng lên trời một cái
cặp, giấy bạc mới tinh bay phấp phới như
bươm bướm, làm vướng chân quân truy nă.
Người th́ (nhiều người) viết rằng
trước đó một thiếu tá B́nh Xuyên (con
rể của Bảy Viễn) đă tới điều
đ́nh, nếu để ông bố vợ anh ta thoát thân,
th́ anh ta sẽ chỉ cho chỗ chôn giấu một thùng
phuy vàng bạc. Thùng phuy vàng này đến tai ông Nhu, ông
ta đem tŕnh lên tổng thống, nhưng là người
độ lượng, vả đang là lúc dầu sôi
lửa bỏng, tổng thống bỏ qua. (Bài báo
ngắn không kể hết được, xin đọc
sau trong Hồi Kư 60 Năm Làm Báo)]. Trong
những tháng năm kế tiếp và song hành vụ
dẹp B́nh Xuyên, c̣n vai chiến dịch b́nh định
khác từ dưới vỹ tuyến 17 cho tới mũi
Cà Mau, báo chí hay Quân Sử có ghi lại, thơ văn cũng
có mà c̣n lại không bao nhiêu. Chiến dịch Đinh
Tiên Hoàng, từ Tháng Năm đến Tháng Mười
Hai, 1955. Chiến dịch Nguyễn Huệ từ Tháng Giêng
đến Tháng Năm, 1966. Người
viết đi theo các chiến dịch này, ngồi trên
xe Jeep chạy theo nhà vô địch Phượng Hoàng Lê
Thành Các, tay đua xe đạp khét tiếng Đông Dương.
Đêm mưa tầm tă ngủ trong thuyền có mui cao,
nghe sóng nước rào rào trong không khí nồng ấm Vĩnh
Long Ba Xuyên, ḷng nôn nao về đất nước bao
dung, đồng ruộng ph́ nhiêu và con người
hồn nhiên tươi đẹp như hoa, thánh thót
rộn ràng như thiên nga ngự điểu, mặn
nồng như cây trái hai bờ sông Cửu. Châu
Đốc với tháp chùa lóng lánh kim cương đá
quư muôn màu, dự lễ Tướng Ba Cụt Lê Quang
Vinh về hợp tác với chính phủ, chỉ để
mấy tháng sau thấy ông bị phản bội, lănh cái
án tử h́nh của bọn biện lư buộc tội
tồi tệ. Tôi đă được thấy Tướng
Ba Cụt hôm ở Châu Đốc, ḷng tôi đau xé
với cuộc xử trảm dành cho ông. Bên
Cao Đài, nhà thơ Song Hồ và nhà thơ Hồ Hán Sơn
là hai người tôi thân mến. Một đêm trên
đường Sài g̣n Tây Ninh anh Hồ Hán Sơn
ngừng xe Jeep trước căn lầu hai một
tiệm phở gần Ngă Tư Bảy Hiền, lên thăm
tôi. Anh đọc một hai câu thơ của tôi
mới đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong, “Ba Năm
Không Về Thăm Mẹ,” và thơ anh nữa, hút
với tôi một điếu thuốc Gitan to mập.
Lần trước gặp anh sơ-mi áo bỏ ngoài
quần. Lần cuối cùng vai anh có ba mai bạc.
Thốt nghe tin anh bị ám sát, xác ném xuống ḷng
giếng. Hồ Hán Sơn T́nh Nghèo Nhớ thuở Thế rồi Bao giờ Em vui [Bài
này chép lại nguyên văn bản Song Hồ chép
lại thơ bạn cho tôi, khi Phạm Duy phổ
nhạc đă thêm bớt nhiều. Dưới hai
chữ T́nh Nghèo, có câu như sau: “Kính tặng các bà
mẹ, thân tặng các cô chị, và mến tặng các
cô em trong lịch sử Việt Nam. [Hồ] Hán Sơn kính
đề.] Thời
gian qua chính sự đổi thay, lúc th́ ḥa hợp ḥa
giải, khi th́ xóa bỏ hận thù, chị th́ sự
thực giấu đi nếu cần, anh th́ quá khứ
quên đi mà sống. Cho nên khi nhà sử học
Nguyễn Duy Chính bỏ ra nhiều năm để nghiên
cứu về triều đại Tây Sơn, tuy ngắn
ngủi mà làm nên lịch sử vĩnh cửu, ông
đă chỉ ra cái đáng tiếc của những
“thời khuyết sử” trong lịch sử đất
nước. V́ mấy chữ này, tuy ai cũng biết cũng
hiểu, nhưng đúng lúc này đưa ra, tôi đă
do đấy mà viết về những quá khứ đang
mất, hy vọng sẽ khiến nó sẽ c̣n thêm chút
nào hay chút ấy. Thơ
văn mấy năm đầu của miền Nam
Việt Nam c̣n được bao nhiêu sau 40 năm đốt
sách? Trong khi Công Báo VNCH ghi nhận số sách do Bộ
Thông Tin cho phép ấn hành năm 1955 là 224,950 cuốn; năm
1956 là 399,352 cuốn; năm 1957 là 815,700 cuốn?
Việt Nam sẽ lại rơi vào thời khuyết
sử nếu những kẻ cầm quyền hiện nay
lại thành công với tṛ “văn học đô
thị,” “quên quá khứ đi mà sống,” như
đă thành công với tṛ “ḥa hợp ḥa giải,”
“xóa bỏ hận thù,” “khúc ruột (tượng)
ngoài ngàn dặm.” Đă biết bao kẻ ngây thơ,
kể cả những cây bút khờ khạo ham tṛ đàn
đúm, những kẻ lười biếng như lũ
tu hú đẻ nhờ, đă và đang, qua rồi
lại, líu ríu hân hoan theo nhau vào tổ ác điểu líu
lo đập cánh x̣e đuôi thi thố tài năng? Viên Linh |