“Người
yêu nước có thể bị giết.
Nhưng tinh thần ái quốc của một dân tộc
th́ bất diệt.”
(Vương Mộng Long)
---o---
Giữa năm 1978,
toán bốn người cựu sĩ quan của Quân-Lực
Việt-Nam Cộng-Ḥa, tù cải tạo ở Trại
4, Xă Cẩm-Nhân, Yên-Bái, vượt ngục lần
thứ nh́, nhưng bị thất bại. Đại Úy
Lê Bá Tường chết trong rừng. C̣n lại
Thiếu Tá Đặng Quốc Trụ, Đại Úy
Trần Văn Cả và tôi (Thiếu Tá Vương
Mộng Long) bị bắt đưa về tạm giam
ở Đoàn 776 Yên-Bái.
Ngày đầu,
một vệ binh c̣n rất trẻ tên Lời đă
thẳng tay nện một báng súng A.K vào mặt tôi,
một cái răng găy. Tên vệ binh Cộng-Sản
trẻ tuổi này đă nặng tay với tôi, v́
hắn vừa t́m thấy trong ba-lô của tôi một bài
thơ “phản động”. Chưa hả giận, hôm
sau y trở lại. Tôi bị quật thêm một báng súng
vào ngực, găy một cái xương sườn.
Qua ngày thứ tư
th́ chúng tôi bị đưa xuống phà để
về Trại 9 bên hồ Thác Bà, Xă Cẩm-Nhân, Yên-Bái.
Hai bạn đồng
hành của tôi, Thiếu Tá Trụ và Đại Úy
Cả bị nhốt trên nhà kho của trại. Tôi không
rơ họ bị đối xử ra sao. C̣n
tôi là người cầm đầu cuộc vượt
ngục này, nên bị tách riêng, giam trong nhà kỷ
luật, sát với hàng rào khu cưa xẻ thợ
mộc. Tôi bị cùm cả hai chân, c̣ng cả hai tay.
Khi ấy đang mùa
hè, trong hầm nóng nực, muỗi như trấu,
bất kể đêm, ngày. Da mặt, da cổ, da tay chân
của tôi trở nên sần sùi v́ muỗi đốt.
Tôi được
phát hai cái ống nứa lồ ô dựng gần chân
nằm. Một ống nứa để đại
tiểu tiện, một để chứa nước
uống. Tay bị c̣ng, chân bị cùm, vấn đề
đi đại, tiểu tiện quả là một
cực h́nh. Nhưng v́ bụng đói liên miên, nên
vấn đề đại tiện cũng khó xảy
ra thường xuyên.
Cũng do biên
bản bàn giao lại từ Đoàn 776, nên từ hôm
về Trại 9, ngày nào tôi cũng trải qua một
trận đ̣n hội chợ, kéo dài trên, dưới
hai tiếng đồng hồ. Tôi bị bắt đứng
giữa pḥng trực trại, bốn góc pḥng là bốn
vệ binh. Tôi bị đánh chuyền tay từ góc này
sang góc khác, xoay tṛn quanh pḥng. Má bên trái vừa lănh
một cú đấm chưa kịp cảm thấy đau
th́ má bên phải đă lănh cú đấm tiếp theo.
Những đợt máu mũi phọt ra ồng ộc tràn
trên má và trên ngực tôi chỉ làm cho những tên
vệ binh trẻ tuổi hăng tiết thêm.
Trọng lượng
thân tôi thời này c̣n chừng trên ba mươi kư lô
là cùng. Những cú đấm móc tận lực làm cho
tôi có cảm tưởng như là đang “bay”
từ góc nhà này, sang góc nhà khác. Sau mỗi tiếng
“hự!” máu tôi lại trào ra như xối. Không
biết máu từ mồm tôi hay từ phổi tôi phun
qua hai lỗ mũi thành ṿi? Mặt tôi bầm tím sưng
vù, đôi mắt híp lại, nh́n một vật hóa hai.
Sau khi bị hàng chục cú đá cật lực vào
bụng dưới, cứt đái trong bụng tôi
cứ tự do tuôn ra quần. Tôi cố nín, cũng không
nín được.
Lănh những
trận đ̣n thù như thế này, tôi mới thấm
ư câu hăm he của tên sĩ quan an-ninh Trại 9, “chúng
ông sẽ đánh cho mày té đái, văi phân”.
Nhiều lần tôi
bị đánh mửa mật xanh, mật vàng mà vẫn
chưa được tha; đến lúc tôi mềm như
sợi bún, vệ binh mới kéo tôi ra vứt ngoài
cửa pḥng trực. Có hôm cả giờ sau trực
trại mới cho người kè tôi về nhà giam.
Chắc nhiều
bạn tù thấy cảnh tôi nằm rũ như cái xác
không hồn nơi góc sân phơi sắn khô, nên một
người được tha về Ban-Mê-Thuột
đă đến nhà ông bà nhạc của tôi kể
lại rằng tôi trốn trại và bị vệ binh
đánh chết rồi!
Khi nhận tin này,
ông anh vợ của tôi lo quá, vội đề nghị
với bà mẹ vợ tôi, “Đừng nói cho con Loan
hay tin chồng nó chết. Nghe tin này nó không sống
nổi đâu! Nó mà chết th́ đàn con nó sẽ bơ
vơ...”
Những ngày không
bị dẫn lên “khung” để lănh đ̣n, tôi
nằm chờ thời gian trôi qua.
Một tia nắng
xuyên khe mái nứa, in một đốm sáng trên nền
nhà. Nh́n vị trí đốm nắng di chuyển, tôi
biết giờ giấc. Chấm nắng bắt đầu
xuất hiện trên vách nhà hướng Tây vào lúc
kẻng giải lao thứ nhứt của trại
(khoảng chín giờ sáng) rồi từ từ di
chuyển dần về hướng đông. Khi tiếng
kẻng báo giờ điểm danh chiều (khoảng năm
giờ chiều) th́ chấm nắng tới giữa vách
hướng Đông, thế là hết một ngày!
Hàng ngày, tù nhân
của nhà bếp đem cho tôi một bát sắn khô
nấu nhăo nhoét. Anh ta phải để bát sắn nơi
cửa buồng giam; tiếp xúc với người
đang bị cùm là điều cấm kỵ!
Khi người tù
đưa cơm rời bước, đàn gà của
trại vội tranh giành nhau những mẩu sắn trong
tô. Tới giữa trưa, tên bộ đội trực
trại mới đến mở cửa hầm giam cho tôi
ăn bữa cơm tù độc nhất trong ngày.
Nhiều khi, tô sắn tới tay, tôi chỉ thấy
một mớ bầy hầy đất cát và vài
cọng sắn khô cỡ ngón tay. Tôi đói tới run
chân, run tay, đói ngủ không được.
H́nh như không có
“chế độ” ẩm thực nào áp dụng cho
những trường hợp tù cải tạo vượt
trại. Có hôm tôi được một củ sắn
lớn cỡ cườm tay, dài một gang. Cũng có
ngày tôi được hai củ khoai lang luộc
nặng chừng nửa kư. Thường xuyên, thực
đơn cho tù trốn trại là một tô cháo
sắn phơi khô rắc muối.
Từ lâu lắm
rồi, không nghe ai nhắc tới hai chữ “nhân
quyền”. Trong thời gian tôi bị cùm ở trại
này th́, cứ cách hai hay ba tiếng đồng hồ,
một tên bộ đội đi tuần tra lại ghé
kiểm soát t́nh trạng khóa, chốt, c̣ng, cùm một
lần. Trong bóng tối, để chắc chắn
rằng tôi c̣n sống, anh ta thường “tiện
tay” khện cho tôi một cái bạt tai hay một báng
súng để nghe tôi la lên oai oái v́ đau.
Đêm nào nghe
thấy tiếng chân nhiều người đi
tuần, ḷng tôi lại phập phồng,... biết
đâu?... rất có thể, người ta sẽ ập
vào, hè nhau đè tôi xuống, bịt miệng, khóa tay tôi,
tṛng một sợi dây tḥng lọng vào cổ tôi,
rồi lôi thân tôi lên xà nhà, như cách đây hai năm
họ đă làm, để giết một anh tù vượt
ngục bên Trại 4. Những cái chết như thế
sẽ được thông báo là “tù tự tử”,
thật đơn giản.
Một ngày, khi
vệt nắng vừa chấm chân vách tường hướng
Tây, từ bên sân của đội cưa xẻ, sát hàng
rào có tiếng người nhắn sang, tôi nhận
được đó là tiếng thằng bạn thân Vũ
Văn Bằng,
“ Long ơi!
Thợ mộc được lệnh đóng ba cái áo
quan. Chắc tụi mày sẽ bị xử bắn. Trưa
mai tao sẽ đem cơm cho mày. Mày có nhắn ǵ cho gia
đ́nh th́ nói với tao, tao sẽ thư cho gia đ́nh
tao, rồi chuyển cho gia đ́nh mày. Tao cứ tưởng
tụi mày đă đi thoát, không ngờ...”
Rồi nó nấc lên,
nghẹn ngào...
Thằng Bằng cũng
là dân Bắc-Kỳ Di Cư như tôi. Chúng tôi thân
thiết sáu năm cùng lớp Trung Học Trần Quí Cáp.
Sau khi tốt nghiệp Tú Tài 1, nó t́nh nguyện đi Khóa
63 A Sĩ-Quan Không-Quân.
Thiếu Tá Vũ Văn
Bằng là Trưởng Pḥng Quân-Báo Sư Đoàn 6 Không-Quân.
Mỗi lần từ tiền đồn về thăm
Pleiku, tôi thường gặp nó.
Nằm trong cùm, nghe
tiếng khóc của người bạn đồng môn,
ḷng tôi chạnh nhớ ngôi trường đă đào
tạo tôi thành người.
Tiếng thày
hiệu trưởng Tăng Dục, ngày đầu
Đệ Thất, c̣n đâu đây,
“Trường chúng
ta được hân hạnh mang tên Trần Quí Cáp.
Cụ Trần là một vị anh hùng ái quốc. Thày
mong muốn các em chăm chỉ học hành, để
sau này thành đạt, ra giúp nước, làm rạng
danh cho trường.”
Hôm ấy có
một vị khách, vốn là một giáo viên, bạn
của thày hiệu trưởng, tới thăm và nói
chuyện. Vị khách này là thân sinh ra anh Phạm Phú Nhàn,
người ngồi bên cạnh tôi.
Ông khách mở
đầu bài diễn văn bằng một câu mà tôi
nhớ cả đời,
“Tụi mi nhớ
đây! Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm
một viên ngói lành. Nếu tụi mi không chăm
chỉ học hành th́ suốt đời tụi mi
chỉ là những cục cứt xái mà thôi!”
Sau đó ông già dài
ḍng kể về lư lịch và cuộc đời người
anh hùng ái quốc Trần Quí Cáp, qua đấy, chúng tôi
biết cụ Trần v́ yêu quê hương, yêu đồng
bào, nên đă bị cầm tù, bị đưa lên
đoạn đầu đài.
Tôi lớn lên,
tự hào và hănh diện là một đứa con
của cụ Trần. Tôi cứ nhớ măi hai danh
từ “viên ngọc nát”' và “cục cứt xái” mà
ông bố anh bạn học của tôi đă đem ra ví
von trong câu truyện khuyên nhủ tụi nhỏ.
Tháng Năm năm
1908 cụ Trần Quí Cáp đă bị đưa ra pháp
trường, xử trảm ngang lưng. Ngày đó khóc
bạn, cụ Phan Bội Châu đă viết,
“Ngọc toái
bất ngơa toàn, tam tự ngục hàn, sơn hải
khấp
Hồng khinh nhi thái trọng, thiên thu luận định,
nhật tinh huyền.” (Phan Bội Châu)
Dịch:
Ngọc nát
vẫn hơn ngói lành, nhà tù ba chữ, núi biển khóc
Thái Sơn nặng, lông hồng nhẹ, bàn luận ngh́n
năm, c̣n thấy sao trời sáng.
Bảy chục năm sau, tháng Năm năm 1978, một
người v́ yêu đất nước, yêu đồng
bào cũng đang nằm chờ giờ ra pháp trường.
Hai người, tôi
và cụ Trần Quí Cáp, tuy sinh ra không cùng thế
kỷ, nhưng đă phạm cùng một tội: ”Tội
mất nước” (Phan Bội Châu)
Thế mới
biết, những người yêu nước có thể
bị giết, nhưng tinh thần ái quốc của
một dân tộc th́ bất diệt.
Trưa nay nghe
tiếng khóc của thằng bạn, tôi thở dài,
“Thôi thế cũng
là xong! Cứ coi như một lần ra trận...”
Mười hai năm
lửa đạn, vào sinh ra tử, tôi đă không
ngừng cố gắng để hoàn thành phần nào
ước vọng của thày tôi ngày đầu Đệ
Thất. Là đệ tử của cụ Trần Quí Cáp,
tôi đă noi gương cụ, cống hiến trọn
đời tôi cho tổ quốc.
Tiếc thay, đất
nước tôi đă tới thời mạt vận, nên
tôi đành chấp nhận những tai ương giáng
xuống số phận ḿnh.
Đêm hôm đó tôi
thức trắng. Tôi nằm im, nhắm đôi mắt
lại, mường tượng ra trong trí, từng khuôn
mặt của những người thân. Trước h́nh
ảnh mỗi người, tôi lẩm nhẩm nhắn
nhủ lời vĩnh biệt. Lần lượt, tôi
chia tay với mẹ tôi, rồi tới vợ tôi, cùng
ba đứa con gái.
Đến lúc
phải tưởng tượng ra khuôn mặt thằng
con út th́ óc tôi quay ṃng ṃng. Tôi không làm sao vẽ ra
trong trí khuôn mặt của thằng con. Nó sinh ra ba tháng
sau ngày Miền Nam sụp đổ, lúc đó tôi đă
ở trong tù rồi.
Trưa hôm sau
thằng Bằng năn nỉ anh bạn tù trưởng
bếp để nó thay anh ta đem phần ăn
một ngày sắn khô cho tôi. Nó đứng ngoài
cửa buồng giam, miệng cười hô hố,
- Long ơi!
Chiều hôm qua, sau khi đóng xong ba cái áo quan, về lán
tao không ngủ được. Tao buồn, tao thương
mày, tao khóc suốt đêm. Sáng nay tao mới biết,
Trại 7 có năm thằng chết đuối v́
bị ch́m mảng khi đi chặt nứa. Nhưng
Trại 7 chỉ có hai cái áo quan, nên tụi tao phải
đóng thêm ba cái nữa. Thế mà tao cứ ngỡ là
áo quan để dành cho ba đứa tụi mày...
Thằng Bằng chưa
dứt lời đă có tiếng vệ binh quát tháo,
- Anh kia! Đem cơm
cho “phạm” xong là phải đi ngay. Lớ ngớ
ở đây tôi cho một báng súng bây giờ.
Lúc đó vệt
nắng nằm ngay giữa nền nhà, đúng Ngọ!
Anh bạn Thiếu Tá Vũ Văn Bằng vừa báo cho
tôi một tin vui. Như vậy là, ít nhứt tôi cũng
c̣n sống thêm một, vài ngày nữa!
Nhưng vừa
cảm thấy vui đó, ḷng tôi lại chùng xuống
ngay. Bởi v́, suy nghĩ lại, th́ đó cũng là
một tin rất buồn, v́ tôi vừa mất năm
đồng đội. Mai đây, ở một nơi xa
xôi nào đó, trong Nam, sẽ có năm gia đ́nh đau
khổ vô cùng khi được báo tin này.
Chuyện ra pháp trường
của tôi đă không xảy ra. Hôm sau chúng tôi bị
chuyển trại. Ba người bị trói quặt hai
tay ra đàng sau. Thêm vào đó là một sợi
thừng được buộc vào cánh tay phải
của tôi, luồn qua lưng anh Trụ, tới cánh tay
trái của anh Cả. Đi hướng nào, chúng tôi cũng
bị dính chùm.
Hai khẩu A.K kèm chúng
tôi rời Trại 9 vào giờ tù tập họp đi
lao động. Những khuôn mặt hốc hác v́ đói
khát của đồng đội đang hướng
về phía chúng tôi. Có đôi bàn tay gầy guộc
đưa lên má vội vàng quệt nước mắt.
Chúng tôi bị
dẫn đi một ṿng quanh chợ Cẩm-Nhân để
cho dân địa phương coi mặt. Cũng may,
lần này dân chúng chỉ đứng nh́n theo ba người
tù bị trói một cách ṭ ṃ, không có ai chạy theo ném
đá hay đả đảo, sỉ nhục chúng tôi
như thời 1976.
Năm 1976, sau khi
bị bắt v́ tội vượt ngục lần đầu
từ Trại 3, tôi và Thiếu Tá Đặng Quốc
Trụ đă bị trói ngoặt cánh khuỷu, rồi
bị dẫn riệu qua đây để dân địa
phương bày tỏ ḷng căm thù “Ngụy Quân ác
ôn”. Chúng tôi bị ném đá sưng đầu, sưng
cổ.
Cùng thời gian
đó, toán bị bắt bên kia sông Hồng, về qua
đây cũng bị dân đánh đập tơi
bời, Thiếu Tá Hồ Văn Ḥa găy xương sườn,
Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghiêm sưng vù hai má,
Thiếu Tá Trần Tấn Ḥa dập mũi.
Riêng toán đi
từ Trại 4 là bị “chiếu cố” kỹ càng
nhứt: Đại Úy Nguyễn Tấn Á bị đánh
bằng đ̣n gánh, xệ vai trái, Thiếu Tá Chu Trí
Lệ bị quật lọi cẳng chân, Thiếu Tá
Nguyễn Hữu Đông bị đấm ḷi mắt. Không
những thế, ba anh này c̣n bị nhốt trong
chuồng trâu, bị dân quân nắm tóc, dúi mặt vào
hố phân trâu ḅ nhiều đợt, xém chết
ngạt.
Trong hai năm
bị giam giữ ở đây, chúng tôi có nhiều
dịp đi lao động “vần công” với các
hợp tác xă nông nghiệp của dân địa phương.
Qua những lần tiếp xúc ấy, người dân có
lẽ đă nhận ra rằng, những sĩ quan
Việt-Nam Cộng-Ḥa không phải là những kẻ
“ác ôn” như họ từng nghe chế độ
Bắc-Việt tuyên truyền. Dần dà, dân chúng nơi
này đă nh́n chúng tôi với đôi mắt khác xưa.
Càng ngày, dân trong vùng càng tỏ ra thân thiện với
chúng tôi hơn.
Rời chợ
Cẩm-Nhân, vệ binh dẫn chúng tôi nhắm hướng
Lũng Ngàn: thế là chúng tôi về lại Trại 4!
Tháng Tám năm 1976
tôi đă bị cùm ở buồng giam Trại 4 hơn
ba tháng trời. Rồi cũng từ nơi này, đầu
năm 1978, tôi lại xuất phát cuộc vượt
ngục lần thứ hai.
Nay bị đưa
trở lại nơi đây để chấp cung th́
quả là điều đáng sợ đối với tôi.
Cũng như ở
bên Trại 9, hai bạn tôi bị nhốt trên ban
chỉ huy. C̣n tôi bị cùm riêng trong nhà kỷ luật
nơi góc trái cổng trại, sát hàng rào, bên bờ
suối.
Vừa đặt
chân vào pḥng giam, tôi đă nh́n thấy một cái cùm
mới cáo cạnh. Cái cùm chân này tinh vi và chắc
chắn hơn cái cũ nhiều.
Trước đây,
năm 1976, chân người bị cùm có thể duỗi
dài thoải mái, hai chân sát đất trong buồng giam.
Lần này cùm làm
bằng hai tấm ván ghép, mỗi tấm được
khoét hai nửa ṿng tṛn vừa cổ chân. Sau khi gác hai
cổ chân tù nhân lên hai h́nh bán nguyệt của
tấm ván dưới, cai tù sẽ kéo sập tấm ván
trên xuống và khóa chốt. Thế là, tù nhân chỉ c̣n
cách nằm ngửa, vắt hai chân lên cao 45 độ.
Chân người bị phạt sẽ ḷi ra ngoài ô
cửa sổ đầu hồi. Lính canh không phải
đi tới cửa buồng giam, mà chỉ cần bước
qua cổng chính là đă nh́n thấy đôi chân người
có tội rồi.
Sau này tôi mới
biết, cái cùm đó được hoàn thành chỉ vài
ngày trước khi chúng tôi bị giải về đây.
Người vẽ kiểu cùm là viên Thượng Úy
Việt-Cộng tên Xuyên, Chính Trị Viên của
Trại 4. Người tù thợ mộc được
giao nhiệm vụ đóng cái cùm lại là một
cựu Hải Quân Thiếu Tá VNCH, bạn cùng lớp
Trần Quí Cáp của tôi.
C̣ng tay là một
cặp khoen sắt rèn số 8 vừa sát với cổ
tay. Khóa của nó là loại khóa cửa, lớn
bằng bàn tay, nặng chừng một kư lô. Cái khóa này
đè trên ngực làm cho tù nhân khó thở vô cùng.
Ngay buổi
chiều đầu tiên, tôi đă bị tên vệ binh
Lê Văn Tưởng tới “hỏi thăm sức
khỏe”.
Vệ binh Lê Văn
Tưởng và vệ binh Hồ Ngọc Thắng,
biệt danh “Thắng Bo” là hai hung thần của
Trại 4. Thấy bóng dáng hai tên này từ đàng xa,
anh em bạn tù đă run rồi.
Tên Tưởng ló
đầu bên cửa sổ đầu hồi, đôi
mắt chớp chớp, miệng cười cười,
- Anh Long ơi!
Mạnh khỏe chứ?
- Thưa anh bộ
đội, tôi vẫn khỏe.
- Người ta
đồn, nửa đường, máy bay lên thẳng
của Mỹ đến đón, nhưng các anh thích
đi bộ cho khỏe chân, nên mới bị bắt
lại, có đúng không?
- Tôi không biết
chuyện này anh bộ đội ạ!
- Ḿnh “nhớ”
anh muốn chết! Anh có “nhớ” ḿnh không?
Tôi lặng thinh.
- Anh đi vắng
mấy ngày? Anh nhỉ?
- Tôi trốn sáu mươi
bốn ngày.
Tên bộ đội
gỡ cái băng đạn A.K ra khỏi súng, nhoài người
qua cửa sổ,
- Sáu mươi tư
ngày! Kỷ lục đấy!
Hắn dơ cao cái
băng chứa đầy đạn A.K gơ xuống hai
chân đang bị cùm của tôi, rồi lớn
tiếng dơng dạc đếm,
- Một!...Hai!
...Ba!... Bốn!...
Sống của cái
băng đạn giáng trên xương ống quyển
làm cho tôi thót tim. Tôi la lên,
“Ối!...
Ối!...Ối! ...”
Thấy tôi đau líu
lưỡi, Tưởng cười khoái trá. Nó cười
bằng miệng, và cười cả bằng đôi
mắt,
- Anh Long đi
vắng sáu mươi tư ngày. Tôi khổ v́ anh sáu mươi
tư ngày. Tôi sẽ gơ chân anh sáu mươi tư
lần để anh nhớ! Mười hai! Mười
ba! Mười...
Tôi đau đến
chảy nước mắt, đau nhảy nhổm, đau
quằn quại, giẫy đành đạch.
Vệ binh Lê Văn
Tưởng vẫn tỉnh bơ, mặt không đổi
sắc, tay nó dơ lên, giáng xuống, đều đều...
Ống chân tôi sưng
lên, rồi tóe máu. Mắt tôi bắt đầu hoa, tai
tôi ù như sắp điếc đặc.
Đau quá, tôi điên
tiết, ngồi bật dậy. Tôi dơ hai tay có cái c̣ng
lên cao, nện một phát thẳng cánh, trúng cổ tay
thằng mất dạy.
Bất ngờ
bị một cú đau điếng, nó buông rơi băng
đạn. Mặt nó đổi sắc thành màu tím. Nó
nghiến răng, rít lên,
- Tiên sư cha nhà mày!
Ông cho mày
biết tay. Từ nay mày chỉ c̣n nước ḅ thôi,
hết đi được nữa rồi! Con ơi!...
Nó cúi xuống rút
con dao găm đeo trên dây lưng. Một tay nó cầm
bàn chân phải của tôi, tay kia dí mũi dao vào nhượng
chân. Chỉ một giây đồng hồ nữa là gân
nhượng chân tôi bị cắt! Tôi sẽ thành
phế nhân!
- Ngừng tay
ngay!
Tiếng quát của ai đó làm cho tên khát máu chùn tay,
mũi nhọn của con dao găm vừa chạm
lớp da khuỷu chân tôi th́ ngừng lại.
Người vừa
quát là cán bộ Vấn.
- Đồng chí có
nhiệm vụ ǵ ở đây? Sao lại định
cắt gân chân người ta?
- Thủ trưởng
ơi! Thằng này hỗn láo quá! Nó chửi tôi. Tôi
phải dạy nó một bài học.
Cán bộ Vấn
nghiêm giọng,
- Chuyện ǵ cũng
phải báo cáo với cấp trên. Đồng chí không
được tự tiện.
Hung thần họ Lê
đi ṿng sang cửa chính, khom ḿnh lượm cái băng
đạn. Nó lườm lườm nh́n tôi với
đôi mắt căm hờn,
- Tiên sư cha mày!
Số mày c̣n may lắm đấy!
Tôi cũng
nghiến răng, trợn mắt, nh́n ngay mặt nó,
- Tổ mẹ mày!
Đồ con chó!
Cán bộ Vấn ra
lệnh,
- Đồng chí Tưởng
ra khỏi đây ngay! Từ nay, nếu không phải phiên
trực, tôi cấm đồng chí léo hánh tới đây.
Chờ cho tên Tưởng
qua khỏi cổng, cán bộ Vấn mới bước
tới sát cửa pḥng giam, nhỏ giọng nói với tôi,
- Chuyện đâu c̣n
có đó. Anh Long yên chí nằm nghỉ đi, đừng
lo nghĩ ǵ cả.
Viên Trung Úy
Cộng-Sản tên Bùi Văn Vấn này là dân
Hải-Dương. Anh ta làm quản giáo ở đây
từ ngày mới lập trại.
-----o-----
Đêm tháng Năm,
muỗi vo ve...
Ngoài rào có
tiếng chân người lội lơm bơm dưới nước;
chắc đó là ông già Khê người dân tộc Tày?
Đêm nào già Khê cũng đi cắm cần câu cá
dọc theo con suối.
Nhà của già Khê
nằm sát rào Trại 4. Trước khi trốn
trại, mỗi lần tôi đi ngang qua rào, ông cụ
tốt bụng này thường dúi cho tôi một gói
ớt hiểm, kèm với lời dặn ḍ,
“Ở nơi thâm
sơn cùng cốc này, nhớ mỗi ngày làm một
quả ớt hiểm để chống sốt rét, ngă
nước!”
Có ánh đèn pin
loang loáng, rồi tôi nghe già Khê lớn tiếng hỏi
người nào đó,
- Làm ǵ mà ngồi
đây thế? Thấy hết hồn... tưởng ma!
Người kia
trả lời,
- Suỵt! ...
Suỵt!... Cháu... ngồi ...chơi...
Tiếng người
này nhỏ nhí, nhưng tôi vẫn nghe được
đó là tiếng vệ binh Đèo Văn Thắng.
Trại 4 có hai vệ binh tên là Thắng. Đèo Văn
Thắng người Cao-Bằng, hiền như bụt nên
chúng tôi gọi là “Thắng Phật”. Tính nết
“Thắng Phật” trái ngược hẳn với
“Thắng Bo” Hồ Ngọc Thắng người
Bắc-Thái rất độc ác dữ dằn. Gặp
điều không vừa ư, “Thắng Bo” đánh tù không
nương tay. Chữ “Bo” là từ chữ “Porteur”
tiếng Pháp, có nghĩa là “phu khuân vác”. Biệt danh
của hai vệ binh tên Thắng đều do anh em tù
Trại 4 đặt ra, và truyền miệng với nhau.
Già Khê lại
lớn tiếng thắc mắc,
- Ngồi chơi mà
chong súng như canh kẻ trộm? Có báo động
hử?
- Không...không...cháu
ngồi chơi mà...
- Ừ! thôi nhá! Có
rảnh vào nhà rít điếu thuốc lào rồi hăy
về...
- Vâng...vâng...
Sau đó tôi nghe
mấy tiếng “Thịch! Thịch! Thịch!...” trên
nền đất, có lẽ già Khê đang dậm
dậm gót chân vài cái cho ráo nước?
Rồi tiếng chân
bước xa dần, đêm trở lại với
mớ âm thanh hỗn độn của ếch nhái, côn
trùng...
Tôi đang thiu thiu
sắp ngủ th́ có bóng người bước vào. Người
đó vỗ nhè nhẹ bên hông tôi,
- Dậy! Dậy
mau! Ban chỉ huy trại thấy anh tiến bộ nên xét
tha cho anh về lán đấy!
Tên vệ binh cúi
xuống lấy ch́a khóa mở c̣ng tay cho tôi, rồi y
đi ṿng ra ngoài đầu hồi tháo chốt cái cùm
chân.
Bất ngờ nghe
lệnh được tha về đội lao động,
tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ.
Tôi chưa đứng
vững, tên bộ đội đă thúc giục,
- Đi mau! Anh lên
“khung” gặp trực trại, kư giấy tha rồi
về lán cho sớm!
Tôi thấy ngoài
trời tối đen như mực, nên chùn bước,
- Tối thế này
làm sao thấy đường mà đi? Mọi đêm,
các anh dẫn tôi đi đâu cũng có cái đèn băo
mà?
- Hôm nay chỉ lên
kư cái giấy thôi, cần ǵ đèn với đóm?
Linh tính báo cho tôi
biết, h́nh như có điều ǵ không ổn, nên tôi
vội ngồi bệt xuống bực cửa,
- Tôi không đi
đâu! Muốn tôi đi, phải có đèn, đi không
đèn th́ vệ binh gác trên cḥi sẽ bắn tôi
chết!
Tên bộ đội
thấy tôi ngồi ́ ra trước thềm, bèn rút túi,
lấy ra một khúc nến. Y bật quẹt đốt
nến lên, trao cho tôi,
- Đây! Đèn
đây, anh cầm lấy rồi đứng lên đi
đi!
Tôi ù ĺ,
- Nếu anh
đưa cái đèn băo, tôi sẽ cầm đi ngay. Cây
nến này ra gió là tắt liền, tôi không đi đâu!
Tức quá, nó quát
ầm lên,
- A! Cứng đầu
hả? Anh không đi, tôi điệu anh đi!
“Huỵch!
Huỵch!”
Bị hai cái báng súng
đánh vào vai, đau lắm, nhưng vẫn không nao núng,
tôi cứ ngồi ôm chặt cây cột cửa không
chịu buông.
Sau cùng, thằng
vệ binh đành quàng khẩu súng ngang vai để hai
tay nó được tự do nắm cổ áo tôi, lôi
ra cửa. Biết ḿnh không đủ sức vật nhau
để cướp súng, tôi đành ôm cánh tay kẻ
thù, nhe răng cắn tới tấp. Đau quá, nó đành
buông tôi ra. Tay xoa chỗ bị cắn, miệng nó
chửi,
- Đồ chó
cắn càn!
Tôi la lên,
- Anh muốn bắn tôi
phải không? Bắn th́ bắn bây giờ đi! Tôi không
ngu mà bước ra cổng cho anh bắn đâu! Tôi
biết tỏng... ṭng... tong... âm mưu của anh
rồi!
H́nh như câu nói đó làm cho tên vệ binh chạm
nọc, nó ấp úng,
- Ấy! Ấy! Tôi
không bắn anh đâu! Mà sao anh biết? Ơ ...ơ ...ơ...
Bộ dạng
bối rối của thằng cai tù kèm với câu “Mà
sao anh biết?...” khiến tôi suy ra ngay,
“Đúng rồi!
Tụi nó gài cho ḿnh không đèn đóm đi ra
cổng để giết ḿnh! Mấy thằng bộ
đội chong súng ngoài kia đang ngồi phục kích
chờ bắn ḿnh chứ đâu phải ngồi chơi?”
Thấy chết
đến nơi, tôi đánh nước liều, chơ
mồm về hướng các lán tù, tôi gào lên,
- Anh em ơi! Người
ta giết tôi! Anh em ơi! Chúng nó bắt tôi đi ra
khỏi rào để bắn tôi! Anh em ơi! Cứu tôi
với!
Ngay từ lúc đôi
bên giằng co, đă có vài người tù ở Lán 1 và
Lán 5 ló đầu ra theo dơi. Nghe tiếng tôi kêu
cứu, họ cũng hét ầm lên,
- Không được
giết người! Không được giết người!
- Chúng nó giết tù!
Anh em ơi! Chúng nó giết tù! Anh em ơi!
Tiếng la lớn
nhứt tôi nghe được, rơ ràng là tiếng
của Đại Úy Phạm Xuân Độ.
Gặp cảnh
bất ngờ, tên bộ đội đứng ngẩn
người, không biết xử trí ra sao.
Bỗng có ba
tiếng súng chỉ thiên phát ra từ cḥi gác ngoài
cổng trại. Rồi một tốp bộ đội
ôm A.K chạy túa vào sân. Tên trưởng toán vệ
binh thét lớn,
- Tù làm loạn
hả? Vào lán! Đóng cửa lại! Đứa nào
lớ ngớ ngoài hiên chúng ông bắn bỏ mẹ!
Nghe chưa?
Có tiếng lên
đạn, “Cà róch!... Cà rách!...”
Tôi bị tống năm,
sáu báng súng vào ngực, vào lưng, rồi bị đẩy
vào nhà kỷ luật trở lại. Hai phút sau, c̣ng, cùm
khóa xong. Vệ binh tản mát dần. Cảnh vật
lại yên tĩnh như không có ǵ xảy ra.
Trại tù đèn
tắt tối thui, nhưng tôi yên tâm nhắm mắt
ngủ, v́ tôi tin tưởng rằng qua khe vách liếp
của các lán tù, thế nào cũng có vài đôi
mắt đang theo dơi sự an nguy của tôi.
Sáng hôm sau, trước
khi nghe tiếng kẻng xuất trại lao động, có
bốn, năm người bị gọi lên tŕnh
diện cán bộ an ninh của trại, trong số này có
anh Phạm Xuân Độ. Đại Úy Biệt Động
Quân Phạm Xuân Độ là một người đàn
em trong đơn vị tôi. Tôi và Độ thân nhau như
anh em ruột.
Khi đi ngang qua nhà
giam, Độ lớn tiếng, cốt cho tôi nghe,
“Thái Sơn ơi!
Đàn em không bỏ đại ca đâu! Đại ca
ơi!”
Tôi ngồi nh́n theo
bóng chú Độ, ḷng bồn chồn, thấp thỏm
không yên.
Chừng một
tiếng đồng hồ sau, nhóm tù dính líu tới
vụ lộn xộn đêm qua được thả
về. Ngang qua chỗ tôi ngồi, Độ lại phát
thanh bổng,
“Thái Sơn ơi!
Chỉ có một tờ kiểm điểm, không
nhằm nḥ ǵ.”
Nghe vậy, tôi
mới thấy ḷng nhẹ nhơm, hết lo âu.
Mấy cái báng súng
đêm trước đă khơi động những
chấn thương cũ trong thân thể tôi. Tôi
chợt thấy ngực ḿnh đau nhói một cách
kỳ lạ.
“Bục!...Bục!...Ục!...Ục!...”
Ruột gan tôi như
đang lộn lạo, sôi sùng sục. Có một vật
ǵ tṛn tṛn, mềm mềm như cái bong bóng đang t́m
đường chui qua cổ họng tôi để thoát
ra ngoài.
“Ộc!...Ộc!
Phè!...Phè!...” Máu từ ngực tôi vọt qua hai hàm răng,
văng tung tóe trên đùi và trên nền ván gỗ.
Tôi ói máu liên
tục. Lúc này, trước mắt tôi chỉ c̣n
những đốm sao chớp chớp, lập ḷe.
Rồi tất cả tối sầm lại, đen đặc.
Tôi gục đầu hôn mê trên chiếc c̣ng tay...
“Lai tỉnh đi
Long! Long ơi!... Lai tỉnh đi Long!...”
Tôi mở mắt
ra, thấy ḿnh đang nằm thoải mái trên nền
đất nhầy nhụa, hôi tanh, tay không c̣ng, chân không
cùm. Ông thầy thuốc Nam của trại một tay bóp
miệng cho tôi thở, tay kia không ngừng giựt
giựt mớ tóc mai bên thái dương tôi.
Cán bộ Nghiễm
trực trại, đang đứng trước cửa
theo dơi. Thấy tôi mở mắt tỉnh lại, y
buột miệng,
- Tưởng đi
luôn rồi chứ!
Sau đó y ra
lệnh cho tên lính gác,
- Dẫn nó ra
suối!
Thế rồi, sau
nhiều ngày ủ ḿnh trong bộ quần áo kaki đầy
máu me, cứt đái hôi thối, tôi được
đi tắm. Sức yếu, hai chân lại đau, tôi
đi không nổi, đành phải ḅ. Tới cổng, tôi
níu vào hàng rào đứng lên, cố gắng lần ṃ
từng bước. Có hai anh bạn đánh liều
chạy tới đỡ, d́u tôi đi. Thấy thế,
vệ binh cũng làm ngơ.
Trong lúc tôi đi
vắng, một anh bạn tù bị bắt làm công tác
vệ sinh nhà giam với một thúng tro.
Tới suối, tôi
tụt hết quần áo, lết nhanh xuống ḍng nước
mát. Hai tên lính canh đă gh́m súng ngồi sẵn trên
bờ. Cán bộ Nghiễm ra điều kiện,
- Anh Long có mười
phút tắm gội. Cấm không được lặn!
Tôi bỏ ngoài tai
lời đe dọa, cứ gục đầu xuống
uống đầy một bụng nước, rồi
lặn ngụp, ṿ đầu ṿ tai. Những con cá ḷng
tong bu vào gặm nhấm lớp da phủ vảy máu
mủ chưa khô trên ống quyển. Lúc đầu, răng
cá làm cho những vết thương chân của tôi
thật là đă ngứa. Sau đó máu tươm ra, tôi
bắt đầu cảm thấy xót, thấy đau.
Buổi chiều,
trực trại sai hai bạn tù kè nách đưa tôi lên
pḥng làm việc. Tôi phải viết hai tờ tự
kiểm, phải thành tâm hối hận về hành động
trốn trại vừa qua để xin ban chỉ huy
trại khoan hồng.
Tôi nại cớ
hai tay bị cùm, bị đánh, đă tê dại, không
cầm bút được. Thế là một anh bạn
gốc Không Quân đang ngồi tỉa bắp trên kho
bị điệu vào ghi chép tờ tự khai cho tôi. Tôi
nói anh bạn muốn viết ǵ th́ viết, rồi tôi
nhắm mắt kư bừa, không cần đọc
lại. Lúc nộp hai tờ tự kiểm cho cán
bộ, h́nh như anh ta đă ghi lộn họ Vương
của tôi thành họ... Nguyễn th́ phải?
Trong thời gian
chờ cán bộ của Nha Quân-Pháp Bộ Quốc-Pḥng
Cộng-Sản từ Hà-Nội về chấp cung, tôi
không được đi ra ngoài. Mọi sinh hoạt tiêu,
tiểu đều ở ngay chỗ nằm. Hằng ngày,
ông thầy thuốc Nam của trại có nhiệm
vụ đi vứt cứt đái cho tôi. Biết tôi
bị nội thương, ông ta lén dấu cho tôi vài viên
xuyên tâm liên. Ông thầy thuốc này cũng là tù
cải tạo. Tù mắc bịnh ǵ ông ta cũng cho
uống xuyên tâm liên! Từ thời ông ta đảm
nhận công tác y tế của trại, tôi chưa
thấy ai chết v́ xuyên tâm liên cả.
Ngày Chủ
Nhật, trại được nghỉ lao động.
Hai cổng trước sau đều bị khóa. Tên lính
gác trên cḥi cao ngồi ngủ gà ngủ gật. Các
bạn tù túa ra sân, người th́ tay chân bận
bịu với ca cóng trong việc nấu nướng,
kẻ tụ họp đánh cờ, vài anh khác mải mê
tập thể dục, dưỡng sinh. Có bóng người
lạng qua cửa nhà cùm.
“Vèo!...Vèo!...Độp!...Độp!...”
vài cục đường thẻ và mấy củ khoai
lang luộc được quăng vào nhà kỷ
luật.
Hai củ khoai bay
tuốt vào góc pḥng, ngoài tầm tay với. C̣n hai
cục đường v́ nhẹ, nên rơi nơi
bục cửa, tôi chụp lẹ, rồi đưa ngay
vào mồm.
Oái oăm làm sao!
Cục đường trong miệng lại nằm
kẹt ngay chỗ cái răng đă bị tên Lời
đập găy, tôi đau điếng người!
Cả hàm răng tê tái, cứng đờ, cục
đường nằm trong họng măi không chịu tan.
Hai ông bạn tù
vừa ném đồ ăn cho tôi, một ông là Hải
Quân Thiếu Tá Trần Văn Căn, bạn cùng
lớp Trần Quí Cáp, người thứ nh́ là Đại
Úy Vương Thành Lân Khóa 19 Vơ-Bị.
Lâu ngày mới
thấy chất ngọt, nước dăi trong mồm tôi
tiết ra ào ào, nuốt không kịp.
Tới trưa hôm
đó mới khổ! Tôi chưa kịp cởi quần
đă bị “Tào Tháo” đuổi, bắt tại
chỗ! Tay c̣ng, chân cùm, tôi đành nằm chịu
trận.
Chờ măi, tôi
mới thấy bóng dáng ông thầy thuốc Nam trước
cửa nhà bếp. Tôi lên tiếng gọi, rồi
mắc cỡ, nói với ông ta rằng v́ bị trúng gió,
tôi đă “bĩnh” ra quần.
Ông lang sốt
sắng chạy vội lên gặp cán bộ trực
trại. Tôi được “chiếu cố” cho ra
suối tắm rửa lần nữa.
Hai ngày sau, vào lúc
xế chiều, cán bộ Vấn xuất hiện. Đứng
chân trong, chân ngoài ngạch cửa, anh ta dặn ḍ,
- Ngày mai có người
từ trên Bộ xuống chấp cung. Tính mạng
của anh coi như an toàn rồi đấy! Tôi cũng
mừng cho anh. Có điều là cần kín miệng.
Nói vừa xong câu,
anh ta vội vàng xoay lưng, bước đi.
Chín giờ sáng ngày
hôm sau, tôi ngồi đối mặt với một thượng
úy của Nha Quân-Pháp Cộng-Sản. Công tác chấp
cung xảy ra đúng ba ngày.
Ngày thứ nhứt...
Tay nhấn cái nút
“Play” màu trắng, đồng thời với cái nút
“Record” màu đỏ của chiếc cassette để
trên bàn, tên cán bộ bắt đầu cuộc
thẩm vấn,
- Trong thời gian
ở Trại 4 này, cán bộ và chiến sĩ của
trại có làm điều ǵ trái với chính sách
của đảng và nhà nước khiến cho anh và các
trại viên khác bất măn không?
Tôi thoáng nghĩ,
“Phủ bênh
phủ, huyện bênh huyện, ḿnh có nói ra những hà
khắc, bất nhân của cán binh trại này, chưa
chắc hắn ta đă làm được điều ǵ
thay đổi. Mà không chừng, tố cáo những ǵ ḿnh
chứng kiến, có khi c̣n mang vạ vào thân...”
Hai bàn tay xếp trên
đùi, tôi tránh đôi mắt người đối
diện,
- Thưa cán bộ,
tôi thấy rằng ở trại nào th́ chế độ
cũng như nhau. Tôi không có điều ǵ để
khiếu nại cả.
- Vậy th́, nguyên
nhân nào đă khiến anh vượt trại?
- Tôi trốn
trại là để đi t́m tự do.
- Sao lại phải
đi t́m? Bao giờ học tập xong, anh sẽ
được trả tự do thôi!
Ngẩng đầu
lên, thấy vẻ mặt người sĩ quan
Cộng-Sản không có nét ǵ là giận dữ, tôi
đánh bạo,
- Thưa cán bộ.
Cán bộ có thể cho tôi biết, đến bao
giờ th́ khóa học của tôi mới chấm
dứt?
Thừ người
ra một phút, viên thượng úy nhịp nhịp cái bút
ch́ trên mặt bàn,
- Cái ấy cũng
tùy, một năm, vài ba năm, tùy nơi các anh...
Lúc đó mắt tôi
chợt nh́n thấy trong góc pḥng một cái giá súng, trên
đó dựng bốn khẩu A.K của vệ binh.
Một ư nghĩ thoáng qua,
“Hai giây đồng
hồ để nhảy từ đây tới cái giá súng.
Một giây chụp khẩu A.K. Một giây kéo cơ
bẩm. Hai giây vượt qua cửa sổ. Một phút
sau có mặt trong vườn sắn. Lính canh trên cḥi gác
không thể quan sát được phía sau vườn
sắn. Phải tốn ít nhất là năm phút, vệ
binh mới tập họp xong. Chỉ cần năm phút
phù du ấy là ta đă lên tới Lũng Ngàn
rồi!”
Tiếng gơ nhịp
bút ch́ chợt ngừng th́nh ĺnh. Tôi liếc mắt
thấy vẻ mặt hơi thất sắc của tên cán
bộ. H́nh như hắn ta đă thấy mắt tôi
đang dán vào cái giá súng?
Y vụt xô ghế,
đứng dậy,
- Thôi anh về
nghỉ, ngày mai ta làm việc tiếp.
Tôi chột dạ,
nhưng cũng không tỏ vẻ bối rối.
Phải chống hai tay lên ghế lấy đà, tôi
mới từ từ đứng lên được. Lúc
này tôi chợt sực tỉnh: sức tôi yếu quá! Tôi
đứng c̣n khó khăn, nói chi tới chuyện
chạy, nhảy, leo trèo?
Ngày thứ nh́...
Bước vào pḥng
trực, tôi không c̣n thấy cái giá súng A.K trong góc nhà
nữa. Bên ngoài cửa sổ thấp thoáng bóng vệ
binh ôm súng, rảo bước đi qua, đi lại.
Chờ cho tôi
ngồi xuống ghế, viên sĩ quan quân pháp chỉ
tay vào một cái bịch giấy dày cộm trên bàn,
- Tôi đă có toàn
bộ hồ sơ quân bạ của anh Long ở đây.
Đầy đủ hết! Từ bản tướng
mạo công vụ, cho tới từng cái giấy
phạt, giấy khen, huy chương, khai sinh, giá thú ...
không thiếu bất cứ thứ ǵ. Nếu không tin,
anh có thể tự tay kiểm tra lại, xem tôi nói có
đúng không?
Rồi y rút ra
đưa cho tôi mấy tờ huy chương và bản
tướng mạo công vụ của tôi.
Thoáng nh́n thôi, tôi đă
biết đó là thứ thật.
Thấy tôi có vẻ không hứng thú với việc
đọc mớ giấy tờ kia, hắn từ
tốn cất chúng vào bao trở lại, rồi gật
gù,
- Hôm nay chương
tŕnh sẽ là nghe vài cuộn băng.
Cuộn băng
thứ nhứt dài nửa giờ ghi lại phiên ṭa ngoài
trời, cách đây không lâu, xử một anh tù
cải tạo tên Phê (?) trốn trại ở đâu dưới
Vĩnh-Phú hay Thanh-Hóa ǵ đó. Tiếng loa vang vang
lời kết tội phát ra từ miệng một
“cải tạo viên”, có lẽ là trật tự hay
thi đua,
“Tên ngụy quân này
đă ngoan cố vượt trại, không chịu
học tập! Đề nghị xử tử!”
Hàng chục người
khác nhao nhao tán đồng,
“Đồng ư!
“...”Nhất trí!”...”Đồng ư!”...”Nhất trí!”...
Một người
nữa phát biểu,
“Thằng này đă
cướp súng bắn lại cán bộ! Phải xử
tử nó ngay!”
Đám đông
lại thét gào,
“Xử
tử!”...”Xử tử!”...”Xử tử!”...
Một ư kiến khác,
“Chúng tôi không an tâm
học tập khi tên ác ôn này c̣n sống và tiếp
tục quấy rối chúng tôi...”
Khán giả dường
như đă say máu,
“Xử tử nó
đi!”...”Xử tử nó ngay!”...”Xử tử nó!”...”Xử
tử!”...
Đa nghi cách
mấy tôi cũng không thể nói cuộn băng này là
giả tạo được! Rơ mồn một, đấy
là tiếng nói, tiếng la, tiếng hét của đồng
đội tôi. Tôi không thể nghe lầm: Đồng
đội của tôi đang tranh nhau đ̣i giết
bạn ḿnh!
Là một tù nhân
sắp ra ṭa lănh án, tôi không mảy may sợ hăi cái
chết, nhưng những tiếng la hét của những
người đồng ngũ lại làm cho tôi đau
đớn vô cùng.
Cuộn cassette dài có
nửa giờ, vậy mà tôi cảm như ḿnh đang
trải qua một cuộc tra tấn dài vô tận. Ngón
đ̣n cân năo đă có hiệu quả! Ḷng đau như
cắt, hai lá nhĩ lùng bùng, đầu tôi choáng váng
như muốn nổ tung v́ những tiếng thét đầy
man rợ,
“Xử
tử!”...”Xử tử!”...”Xử
tử!”...”Xử tử!”...
Cuộn băng ghi
âm chấm dứt không có đoạn kết của phiên
ṭa. Viên thượng úy xoi mói nh́n vào mặt tôi, như
t́m đọc phản ứng của tôi, rồi y
bồi theo một câu, như phát đạn ân huệ,
- Anh Phê bị
xử bắn rồi đấy anh Long ạ!
Thấy tôi ngồi
lặng thinh, hắn ta nói nhỏ,
- Tôi không cần
hỏi thêm anh về lai lịch hay thành tích nữa làm
ǵ. Chúng tôi có đủ tài liệu và hồ sơ
để xác định tội trạng của anh
rồi. Tuy nhiên, tôi cũng mạnh miệng bảo
đảm rằng, tội của anh chưa đến
mức bị xử tử h́nh. Tin tôi đi!
Sau khi được
uống một bát nước lạnh, tôi tiếp
tục ngồi nghe cuộn băng thứ nh́, cuộn băng
ghi lời phát biểu của hai vị đại tá
bị Cộng Quân bắt tại mặt trận Ban-Mê-Thuột.
Cuộn băng chót
là một buổi học tập, phê b́nh, kiểm
thảo của một nhóm sĩ quan cấp tướng
và đại tá.
Qua hai cuộn ghi âm
vừa rồi, tôi nhận ra giọng nói của
những vị tôi đă từng dưới quyền,
đă từng thân thiết. Vẫn giọng nói xưa,
nhưng những lời tôi nghe được lại như
từ miệng ai đó, tôi chưa từng gặp, chưa
từng tiếp xúc bao giờ!
Trong cơn băo
tố cuồng điên, con thuyền quốc gia của dân
tộc tôi ch́m nhanh quá! Giữa biển khơi không
thấy bến bờ, những người sắp
chết đuối thấy vật ǵ bồng bềnh trước
mắt, cứ ngỡ rằng đấy là một cái
phao, đâu ngờ đó chỉ là đám bọt nước
mà thôi!
Thực t́nh, từ
ngày mất nước, tôi chưa bao giờ có ư oán trách
bất cứ ai, kể cả các cấp chỉ huy và
bạn đồng ngũ của tôi. Tôi chỉ thấy
xót thương cho bạn bè ḿnh, và buồn cho số
phận của chính ḿnh.
Người cán
bộ xếp dọn đồ nghề, rồi nói câu
chấm dứt buổi thẩm cung,
- Thôi! Mai ta tiếp
tục anh Long nhé!
Tôi khập
khiễng trên đoạn đường từ ban
chỉ huy trại về buồng giam, sau lưng là
một họng A. K.
Ngày chấp cung
thứ ba...
Viên thượng úy
xoa xoa hai bàn tay vào nhau,
- Hôm nay chủ
đề trao đổi giữa chúng ta sẽ là:
“Quốc-Gia và Cộng-Sản.” Tôi sẽ không đánh
đập anh đâu. Đừng e ngại, sợ
sệt, cứ việc phát biểu một cách công tâm.
Tôi cho phép, và khuyến khích anh nói thật ḷng ḿnh,
về những ǵ anh cho là sai, là đúng của hai
chế độ. Mục đích chuyến công tác
của tôi lần này chỉ có thế!
Tôi ngồi ngẩn
mặt ra. Thật là ngoài mức tưởng tượng!
Tôi đă một lần nếm mùi cái “kinh nghiệm
thương đau” của kẻ bị tra khảo v́
tội trốn trại rồi, nên tôi biết, trong
thời gian chấp cung, tù vượt ngục nào cũng
bị đánh cho tới ḅ lê, ḅ càng, cả tháng sau,
thân ḿnh c̣n ê ẩm.
Tôi nghĩ lần này
cũng lại bị đánh, bị buộc tội
trối chết, rồi phải tỏ ra ăn năn,
hối lỗi những việc ḿnh đă làm, sau cùng là
kư bản cam kết, hứa hẹn sẽ không c̣n tái
phạm nữa...vân vân.
Ấn nút cho máy ghi âm
chạy, thẩm vấn viên hất hàm,
- Theo anh, cuộc
chiến tranh vừa qua chính nghĩa thuộc về phe
Quốc-Gia hay Cộng-Sản?
Tôi đáp liều,
- Mỗi bên tham
chiến có lư lẽ riêng để bênh vực cho
chủ trương của phía ḿnh. Người
Cộng-Sản có lư của họ, c̣n chúng tôi, có lư
của chúng tôi.
Người hỏi
cung lắc đầu, nghiêm giọng,
- Anh hăy nói
thẳng ra ư kiến của cá nhân anh. Phải là “ư
kiến tôi thế này, ư kiến tôi thế kia!” Không
được nói quanh quanh, nói chung chung kiểu...” chúng
tôi thế này, chúng tôi thế kia...”
Tôi nuốt nước
bọt rồi trả lời thẳng thừng,
- Tôi chiến đấu
có chính nghĩa v́ tôi là người tự vệ,
Miền Bắc là kẻ xâm lược.
Hắn ta vội át
giọng tôi,
- Anh nói sai rồi!
Chúng tôi mới có chính nghĩa v́ chúng tôi chiến
đấu để giải phóng Miền Nam thoát ách
cai trị của ngoại bang.
- Không có ngoại
bang nào cai trị Miền Nam cả. Việt-Nam Cộng-Ḥa
là một nước độc lập.
Y hét lên,
- Độc lập
giả tạo! Thực chất Ngụy-Quyền Miền
Nam chỉ là tay sai của đế quốc Mỹ.
- Việt-Nam
Cộng-Ḥa là một quốc gia đồng đẳng
với các nước khác trên thế giới. Miền
Nam có chính phủ riêng, hiến pháp luật lệ riêng.
Tổng Thống và Quốc Hội nước
Việt-Nam Cộng-Ḥa là do dân bầu lên, có nhiệm
kỳ hiến định hẳn hoi, sao lại gọi là
tay sai được?
Tôi ngừng
lại, chờ xem ư kiến của người đối
diện ra sao th́ thấy y đă tắt máy.
Ngồi im một lát
như để tĩnh tâm, rồi thật chậm răi,
hắn ta ôn tồn trở lại,
- Tôi sẽ không
đấu lư với anh nữa. V́ nếu căi nhau th́ anh
sẽ ở vào thế yếu, c̣n tôi ở thế
mạnh, không được công bằng. Từ bây
giờ tôi chỉ đặt câu hỏi. Anh được
tự do trả lời theo ư anh! Như vậy có
được không?
Thấy tôi gục
gục đầu, hắn nhấn nút cho máy quay, rồi
tiếp tục,
- Anh nói rằng
Miền Nam là tự do, vậy hăy diễn tả cái
tự do đó thể hiện ra sao ngay trong cuộc
đời của chính anh.
- Tôi lớn lên
trong một chế độ mà trong đó, chúng tôi
muốn nói ǵ th́ nói, nghe ǵ th́ nghe, đọc ǵ th́
đọc. Không bị ai nhồi nhét tư tưởng
này, tư tưởng kia vào đầu. Ngay như tôi là
một thiếu tá, mà suốt mười hai năm quân
ngũ tôi chưa bị bắt buộc phải vào
dự một buổi học tập chính trị nào
cả. Những hiểu biết về Cộng-Sản,
hay Tự-Do là do cái vốn kiến thức thu thập
từ thực tế và tự t́m hiểu qua báo chí, sách
vở. Không ai ép buộc tôi phải tôn thờ chủ
nghĩa này, đả phá chủ nghĩa kia.
- Nếu nói
rằng Miền Nam tôn trọng tự do tín ngưỡng,
th́ tại sao lại có những cuộc biểu t́nh,
xuống đường của Cha, Cố, Giáo Dân cũng
như của Tăng Ni, Phật Tử?
- Chính v́ có tự
do nên mới xảy ra những chuyện xuống
đường, phản kháng, nếu không có tự do
th́ toàn dân sẽ câm như hến.
- Anh có là
một thành viên của đảng Dân-Chủ không?
Nếu một người lính mà không là đảng viên
đảng Dân-Chủ th́ có bị thiệt tḥi ǵ không?
- Thú thật tôi
không để ư đến vụ đảng phái. Tôi
không gia nhập đảng nào. Tôi cũng chưa
thấy đảng nào công khai gây ảnh hưởng
trong đơn vị tôi bao giờ.
- Trong thời
gian qua, anh đă có dịp tiếp xúc với dân chúng
Miền Bắc, anh có nhận xét ǵ về nếp
sống của dân chúng Miền Bắc không?
Thấy có dịp giải tỏa ấm ức, tôi
hứng chí nói một mạch,
- Miền Bắc và
Miền Nam khác hẳn nhau. Ở trong Nam, người dân
có thể sống theo ư ḿnh muốn. C̣n Miền Bắc
là một xă hội có quy củ, có khuôn phép. Từ
vấn đề cơm, áo, gạo, tiền, nhà
cửa, ruộng vườn, cái ǵ cũng có tiêu
chuẩn cả. Cái ǵ cũng tem phiếu, sổ sách. Hàng
c̣n nằm trong kho quốc doanh có một giá, tới lúc
tuồn ra ngoài, nó thành giá khác, đắt gấp
chục lần. Lao động xă hội chủ nghĩa
th́ người này dựa vào người kia. Làm
việc hợp đồng, vần công chỉ là
chuyện lăng phí nhân lực. Tôi đă thấy có
một mảnh ruộng cỡ nửa sào, mà ào
xuống mười người, với mười con
trâu, và mười cái cày. Họ làm việc chừng
một giờ đồng hồ, mà chấm công là
một ngày. Thời giờ c̣n lại, mạnh ai
nấy đi canh tác riêng để cải thiện. Lư
thuyết là không có quyền tư hữu, tất
cả là tài sản chung, nhưng trên thực tế, ai
cũng lo mưu cầu lợi ích riêng, v́ ai cũng
thiếu thốn cả. Có lẽ v́ thế mà mấy
chục năm nay Miền Bắc vẫn nghèo, không khá lên
được.
Tôi thấy kỹ
thuật thẩm vấn của người
Cộng-Sản có vẻ na ná với kỹ thuật khai
thác của Đức Quốc-Xă thời Thế
Chiến thứ 2 trong những tài liệu mà tôi đă
đọc qua. Thoạt đầu, với đôi ba câu
hỏi bâng quơ, tù binh được nói thoải mái
thả giàn vài phút. Sau đó, thẩm vấn viên
mới ra tay, bằng những câu hỏi dồn dập,
tới tấp, loanh quanh, lẩn quẩn một vấn
đề, làm cho óc người bị thẩm vấn
rối tung lên, không biết đâu mà chống đỡ.
Với những câu
hỏi ngoắt ngoéo, viên thượng úy
Cộng-Sản đă cố gắng moi móc những ǵ tôi
cất dấu trong đầu về cuộc đời
tôi, từ thuở mới di cư, đến khi
ngập ngũ, rồi tới ngày ră ngũ.
Trong thời
chiến, tôi đă qua lớp T́nh-Báo Tác-Chiến
Singapore, rồi nhiều năm, đảm nhận
chức Trưởng Pḥng Quân- Báo của Bộ
Chỉ-Huy Biệt Động Quân, Quân-Khu 2, Việt-Nam
Cộng-Ḥa. Tôi đă thẩm vấn rất nhiều tù
binh, và đă hoàn tất nhiều bản cung từ.
Do đó, tôi đủ
bản lănh để luồn lách, tránh né những bí
mật liên quan tới sinh mạng những người
đă cộng tác với tôi thời trước, như
tên tuổi các mật báo viên trong mạng lưới
mật báo của Pḥng 2 Biệt Động Quân Quân-Khu
2, danh sách các cán binh chiêu hồi đă hướng
dẫn các chuyến xâm nhập vào ḷng địch
của tôi trong thời gian 1972- 1973.
Chỉ sau vài câu
hỏi trùng lặp, tôi đă nghiệm ra ngay chủ
đề của cuộc “thi vấn đáp” trường
chinh hôm ấy là nhằm khai thác tin tức liên quan
tới “Vai tṛ của Chính-Trị và Tôn-Giáo trong Quân-Đội
Việt-Nam Cộng-Ḥa” Về cả hai lănh vực trên
đây, quả t́nh, tôi chỉ là một tay ấm
ớ, nên người tra hỏi chẳng biết
được ǵ.
Cứ thế,
trừ đi cỡ sáu, bảy phút cho hai lần đi
tiểu, và khoảng mười phút cho bữa ăn trưa
với một củ khoai lang luộc, tôi phải
trả lời hàng trăm câu hỏi trong thời gian dài
từ sáng sớm tới xế chiều. Tôi không
nhớ có bao nhiêu cuộn băng mới đă
được thay, mấy lần pin mới được
lắp vào máy.
Chấm dứt ngày
làm việc cuối cùng, không chỉ người bị
chất vấn, mà ngay cả người đặt câu
hỏi cũng thấy mồ hôi vă ra đầy
mặt.
Người cán
bộ châm điếu thuốc lá, rít một hơi,
rồi trao nó cho tôi,
- Anh Long ạ! Tôi
đă thực hiện công tác phỏng vấn này
với một ông sư, một ông cha, một nghị sĩ,
một dân biểu, hai cấp tướng, hai cấp
đại tá, và ba người cầm đầu đảng
phái chính trị. Mỗi anh có nhân cách riêng khi đối
diện với tôi. Cũng những câu hỏi ấy nhưng
mỗi người trả lời khác nhau. Mỗi anh có
lư lẽ riêng. Anh là người tuổi nhỏ
nhất và có địa vị thấp nhất mà tôi
đă gặp trong công tác này đấy! Bây giờ tôi
có một câu hỏi riêng tư với anh. Câu hỏi
cuối cùng. Anh có vui ḷng trả lời tôi không?
Tôi rít một hơi
thuốc dài, nuốt ực vào, ém khói trong phổi,
thấy tỉnh táo dần,
- Vâng! Tôi sẽ
trả lời cán bộ.
- Nào! Anh hăy thành
thật, tuyệt đối thành thật, trả
lời tôi: Quan niệm của anh ra sao đối
với sự sống và sự chết?
Tôi nh́n thẳng vào
đôi mắt người đối diện, ḍ
chừng. H́nh như hắn ta không có âm mưu ǵ
chứa ẩn trong câu hỏi. Tôi hắng giọng,
rồi nhỏ nhẹ trả lời, rơ ràng từng
tiếng một,
-Thưa cán bộ.
Tôi nghĩ, đời tôi bây giờ có sống cũng
chẳng thấy vui thú ǵ, th́ nếu chết, tôi cũng
coi như là trở về cùng cát bụi. Tôi không có
điều ǵ phải hối hận hay vướng
bận cả.
Viên thượng úy
Cộng-Sản đứng lên, bàn tay y xiết bàn tay tôi
một cái rất nhẹ, rồi buông ra ngay. Y nói
với tôi, nhưng có vẻ như nói một ḿnh,
-Tiếc thay! Anh
lớn lên ở Miền Nam. Nếu ngày đó anh không
di cư, th́ có lẽ, giờ này, những người
tầm cỡ như tôi, muốn gặp mặt anh cũng
là một điều khó khăn.
Buổi trưa sau
ngày hoàn tất hồ sơ thẩm vấn, đầu
óc thật thoải mái, tôi nằm im, đón nghe trong gió
vọng về những âm thanh quen: tiếng ve sầu rên
rỉ trên Lũng Ngàn, tiếng chân trâu kéo gỗ
nặng nề qua đoạn đường quanh,
tiếng xẻng cạo chảo bên nhà bếp. Gần tôi
nhứt là tiếng “kẽo! kẹt!” của loài
mọt gỗ đang đục khoét cái cột giữa
nhà.
Tôi ngửa cổ
nh́n lên nóc tranh, trước mắt tôi là cảnh
một con ruồi xanh đang cố gắng một cách
tuyệt vọng t́m cách thoát khỏi cái màng lưới
nhện. Thân phận tôi giờ đây ví như thân
phận con ruồi xanh trên kia, không hơn, không kém.
Nhện và ruồi là hai động vật khác loài. Chúng
giết nhau để sinh tồn. C̣n tôi và những người
đang giam cầm tôi lại cùng chủng loại.
Tuần lễ sau, vào
giờ cơm chiều, cán bộ Vấn bước vào,
ngồi trên bệ cửa, rút bao Cửu-Long ra, bật
lửa châm cho tôi một điếu. Chờ tôi hút xong
điếu thuốc lá thơm, anh ta mới mở
lời,
- Bà mẹ anh ngày xưa
đẹp nhất làng Trác-Châu đó! Anh có biết không?
Tôi trố mắt,
- Cán bộ có
lớn tuổi hơn tôi nhiều đâu? Làm sao mà cán
bộ biết điều này?
- Ngày anh bị
đưa về cùm lần đầu ở trại này,
tôi đă đọc qua lư lịch của anh rồi. Tôi
biết tên bố mẹ anh và tất cả họ hàng
bên ngoại của anh nữa. Nhà tôi ở sát rào nhà
cụ Ngăi, ông ngoại của anh. Thời c̣n là con gái,
bà cụ sinh ra tôi là bạn thân của bà cụ nhà
anh. Mẹ tôi nói hồi đó mẹ anh có làn da
trắng như trứng gà bóc. Mẹ anh không lấy người
trong làng, lại đi lấy người làng bên. Sau
khi bố anh bị giết, mẹ con anh đă bỏ
xứ, ra đi biệt tăm. Không ngờ sau đó gia
đ́nh anh di cư vào Nam, và anh đă làm tới
chức thiếu tá. Dù ǵ th́ chúng ta cũng là người
cùng làng...
Tới lúc đó, tôi
mới hiểu lư do v́ sao viên sĩ quan Cộng-Sản
này lại nương tay với ḿnh.
Cán bộ Vấn
thọc tay vào túi, lôi ra một cái phong b́. Mở phong b́,
móc cái ảnh cỡ 6x9 cm đưa cho tôi, anh ta nói
nhỏ,
- Anh Long có thơ.
Nhưng tôi không được phép đưa thơ cho
anh. Tôi “diếm” cho anh cái ảnh của vợ con
anh. Nhớ giữ kín đừng cho ai biết.
Nói xong câu này,
Vấn nhét vào tay tôi một điếu thuốc
nữa, rồi đứng lên, lững thững đi
về hướng nhà bếp.
Có lẽ cái thư
chứa tấm h́nh đă tới trại trong thời
gian tôi tại đào. Trong h́nh là vợ tôi bế
thằng con út ngày nó vừa biết lật. Nay chắc
thằng bé đă biết nói, biết chạy rồi?
Ấp cái ảnh
vợ con vào ḷng, tôi nghe rơ ràng, tim ḿnh đang thổn
thức...
Tôi được
nh́n thấy mặt bố tôi lần cuối cùng (1946),
ngày tôi lên bốn tuổi. C̣n thằng con tôi, không
biết suốt đời, nó có dịp nào nh́n
thấy mặt bố nó hay không?
Từ lúc đó cho
tới tối mịt, cứ lâu lâu, tôi lại dở cái
ảnh ra xem.
Vằng vặc trăng trôi...
Tôi nằm quay
mặt về hướng Tây. Cửa chính của pḥng
giam không bao giờ đóng. Ngoài kia ánh nguyệt chan ḥa.
“Tưng!...
Tửng!... Từng!... Tưng!...”
có tiếng đờn
ghi ta vọng cổ bay sang từ Lán 1. Tiếp đó là
một câu ḥ (hay sàng xê) năo nuột,
“Đêm nay trăng
sáng...(á!) lung linh, em ngồi trông trăng.
Ḷng nhớ thương
anh, mà ḷng... (ừ!) buồn mông mênh.
Ḿnh cách xa nhau
rồi...(à!) Ḿnh mất nhau muôn đời.
Đêm ngồi trông
trăng, mà mắt lệ ...(ư! à!) tuôn rơi...”
Tôi không phân biệt
được giọng ḥ này là của ông trung tá con
rể bà Bút Trà, hay là của ông đại úy con
rể cụ dân biểu Hoàng Kim Quy?
Ánh trăng lùa
tiếng đờn tràn qua cửa pḥng giam.
“Từng!” ...”Tưng!”...”Tứng!”...”Tứng!”
...”Tưng!”...
Nhịp đờn
bỗng rối rít hẳn lên, quện vào tiếng hát,
xoắn lại như con chốt, rồi vút lên thật
cao,
“ Trời ơi! ...
Bởi sa cơ giữa chiến trường thọ
tiễn
Nên Vơ Đông Sơ
đành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu ... Hà...
...Tưng!
Từng!...Tưng! Tửng!...Từng! Tưng!... Ư...ưng...
ư...ưng...”
Giữa đêm trăng
lạnh, vô t́nh, khúc “Vơ Đông Sơ” đă như
mũi dao nhọn, xoáy vào tim người nghe...
Ngày xưa tôi là chúa
ghét vọng cổ. Cứ thấy mấy anh kép cải
lương “miệt rừng” trong đơn vị
vừa cất giọng,
“Biên cương lá
rơi, Thu Hà em ơi!”
... tôi lại bấm
bụng cười thầm, lỉnh nhanh đi chỗ khác.
Vậy mà giờ
đây, giọng ca của mấy ông nghệ sĩ tay
ngang cũng làm cho tim tôi xốn xang. Tôi nằm trằn
trọc hoài mà không nhắm mắt được.
Đêm sao quá dài...
Từ đầu tháng
Sáu, sau giờ ăn trưa mỗi ngày, tôi được
mở c̣ng cùm vài phút để đi vệ sinh.
Chuyện ỉa đái của tôi xảy ra ngay trong ṿng
rào mà vệ binh cũng phải kè kè đi kèm. Khi
tới đầu Lán 11, v́ sợ thối nên tên bộ
đội đành dừng lại, ôm súng đứng
canh, cách nhà cầu chừng sáu chục thước.
Mắt nó cứ lom lom theo dơi những người tù trên
đường ra nhà xí. Nó soi mói, kiểm soát kỹ càng
những ống vầu chứa nước họ xách
theo để rửa đít. Nó sợ bạn tù lén lút
liên lạc tiếp tế cho tôi!
Bọn cai tù không
thể ngờ rằng, trước khi tôi được
mở cùm, đă có hai ba anh bạn tới ẩn ḿnh
trong cầu tiêu rồi. Họ tranh nhau nhét vào miệng
tôi, cục đường, củ khoai, và cả
những viên thuốc bổ. Tôi chỉ được
phép ở trong chuồng xí có năm phút. Trong năm phút,
tôi vừa ăn, vừa đại tiểu tiện,
vừa nói chuyện với bạn bè.
Hàng ngày, bạn tù
chia phiên nhau giúp đỡ cho ba người đang
bị phạt. Các anh Thiếu Tá Hoàng Văn An, Đại
Úy Vương Thành Lân, Đại Úy Nguyễn Hữu
Quang, Đại Úy Phạm Xuân Độ, và Đại
Úy Đỗ Dũng là những người tôi gặp
mặt thường xuyên, ngoài ra c̣n nhiều bạn khác
nữa. Họ lo cho tôi vào giữa trưa, và lo cho anh
Trụ, anh Cả vào lúc xế chiều. Nếu hôm nào
cả trại phải đi lao động suốt ngày,
th́ các anh trực lán sẽ làm công tác cứu trợ.
Thời gian này người
tù mang cơm cho nhà kỷ luật là Nguyễn Hữu
Quang, bạn cùng khóa Vơ-Bị của tôi. Những khi có
dịp thuận tiện, anh Quang thường lén lút ém
thêm phần ăn cho người bị giam.
Cũng may những
chuyện này không đổ bể. Chứ cai tù mà
biết được th́ các bạn tôi chỉ có nước
vào cùm!
Trong cảnh hoạn
nạn, tôi đă không bị bạn bè bỏ rơi.
Những sự trợ giúp ấy đă khiến tôi tăng
thêm sức lực cả về thể chất lẫn
tinh thần. “Khốn khó có nhau, là huynh đệ chi
binh!” phải gặp cơn nguy biến mới thấy
cái cao đẹp của t́nh đồng đội.
Những tháng
tiếp theo, tôi và hai anh bạn bị đưa đi ṿng
ṿng, lần lượt nhốt trong các trại tù quanh
vùng Cẩm-Nhân, Yên-B́nh. Mỗi khi tới trại
mới, ba “cải tạo viên” vượt ngục
lại trở thành những cái bao cát cho bọn vệ
binh của trại đó thực tập vơ nghệ.
Cuối cùng chúng tôi
bị dẫn vào Trại 2 trong Tích-Cốc, nhốt chung
với một tay “Papillon” của trại này. Anh ta
nằm trong căn b́a của nhà kỷ luật, cách tôi
một tấm phên.
Ghé mơm sát cái lỗ
nhỏ dưới chân vách, tôi hỏi nhỏ,
- Này! Tên ǵ? Cấp
ǵ?
- Thường! Đại
úy!
- Đi lúc nào?
- Sau các cha một tháng.
- Mấy người?
- Bốn.
- Ba ông nội kia
đâu?
- Thoát rồi!
- C̣n cha? Sao lại
nằm đây?
- Ḿnh bị sa
ruột, giữa đường đành bỏ cuộc,
bị dân quân bắt, dẫn về giao lại cho
trại, rồi bị tống vào đây.
- Đă bị
chấp cung chưa?
- Rồi!
- Có bị đánh không?
- Tơi bời! Đau
lắm các cha ơi!
Mấy ngày sau, người
đưa cơm của Trại 2, vốn là một
đại úy Biệt Động Quân th́ thầm
với tôi rằng,
“Một toán vệ
binh của Trại 2 đă kêu gọi được ba
người bạn của anh Thường ra đầu
hàng rồi. Nhưng ngay sau đó, chúng bắn chết
hết ba người này, rồi đổ hô là họ
bỏ chạy lúc ban đêm!”
Nghe chuyện này, tôi
nhớ lại cái đêm trời tối đen như
mực cách đó không lâu, nếu tôi nghe lời tên
vệ binh, bước ra khỏi cổng để lên
ban chỉ huy kư giấy cho về đội lao động,
th́ tôi đă bị bắn chết rồi!
Cuối năm
1978 có tin Trung-Cộng sắp đánh Việt-Cộng, ba
chúng tôi lại bị c̣ng dính vào nhau đưa lên xe,
vượt sông Lô, qua đèo Khế, ghé Tân-Trào,
rồi chạy một lèo về Trại Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên.
Tại đây,
vừa được tháo c̣ng ra, tôi đă bị
tống vào đội trừng giới số 12 toàn là
dân vượt ngục, chuyên làm ḷ gạch. Đồng
cảnh ngộ, nên anh em trong đội này đă thương
yêu, đùm bọc lẫn nhau như người thân
trong một nhà.
Tháng Ba năm
1979 quân Tầu ào qua biên giới, chúng tôi lại
bị c̣ng từng cặp, đưa lên Molotova, chạy
một mạch qua thủ đô Hà-Nội về
tuốt miệt Hà-Nam, Phủ-Lư.
Trong lúc chờ
phà vượt sông Hát, đoàn xe bị dân chúng ném
đá tơi bời. Tù chỉ c̣n nước ôm đầu,
úp mặt xuống sàn xe. Th́ ra dân chúng tưởng chúng
tôi là tù binh Trung-Quốc!
Đến khi
biết trên xe là tù cải tạo Việt-Nam Cộng-Ḥa
th́ dân chúng lại đua nhau ném chúng tôi lần
nữa! Chúng tôi lại lo ôm đầu, úp mặt. Nào
ngờ, lần này đầu cổ, tóc tai lănh toàn là
xôi, đường, kẹo bánh, xu hào, cải bắp!
Quư hóa hơn
mọi món quà mà chúng tôi nhận được ngày hôm
đó là, lần đầu kể từ khi bại
trận, chúng tôi lại được nghe hai tiếng
“Hoan hô!” từ miệng của đồng bào tôi.
Dù chỉ có vài
tiếng “Hoan hô!” rụt rè phát ra trong đám đông
thôi, đă khiến đôi mắt tôi cay xè. Nh́n sang bên,
tôi thấy mặt anh bạn chung c̣ng cũng nhạt nḥa
nước mắt...
Từ ấy,
cứ vài năm một lần, tôi lại bị
chuyển sang trại mới, cuối cùng là Z30 D Hàm-Tân.
Tới năm 1988 tôi được tha.
Nhớ lại,
một ngày mùa đông năm 1965, tôi đă quỳ
xuống giữa vũ đ́nh trường Lê-Lợi Trường
Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam để tuyên thệ
rằng sẽ đem xương máu ḿnh bảo vệ
tổ quốc, phục vụ đồng bào. Sau khi
đứng lên, tôi trở thành một sĩ quan
Biệt Động Quân. Qua bao nhiêu năm xông pha nơi
chiến trường, rồi trầm luân trong tù
ngục, tôi vẫn ghi tạc trong ḷng một lời
khuyên,
“Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm
một viên ngói lành!”
Vương
Mộng Long
|