Người Việt tới Úc: Những thách thức bước đầu ở Melbourne Nguyễn Quang Duy |
Sang tới nhiệm kỳ 2 của Thủ tướng
Malcolm Fraser, chính sách về người tị nạn
Đông Dương mới được mang ra Quốc
Hội tranh luận và đến gần cuối năm
1978 mới được ban hành. Nhưng phải đợi đến sau Hội
nghị quốc tế về người tị nạn
tại Geneva, ngày 21/7/1979, và vào thời Bộ Trưởng
Di Trú và Sắc tộc Sự Vụ Ian MacPhee (1979-82)
số người Việt được nhận định
cư từ các trại tị nạn Đông Nam Á
mới thực sự gia tăng. Năm 1980, có 12,915 người, năm 1981 và 1982,
mỗi năm chừng 12,000 người được
Úc nhận, nhờ thế người Việt tị
nạn không mạo hiểm dùng thuyền đi thẳng
đến Úc. Bộ Trưởng Ian MacPhee c̣n là người
khởi xướng chính sách Ra Đi Trật Tự
(Orderly Departure Program) thương lượng với nhà
cầm quyền cộng sản để những người
tị nạn được bảo lănh gia đ́nh c̣n
kẹt lại ở Việt Nam. Gia đ́nh đầu tiên được bảo lănh
đến Úc vào giữa năm 1982, có thể gia đ́nh
này đă đến thành phố Melbourne. Theo thống kê ABS vào tháng 6/1976 chỉ với 382 người,
cuối năm 1978 ước tính đă có gần 2,000
người, đến cuối năm 1982 đă có trên
20,000 người Việt định cư tại
Melbourne. Giai đoạn 1978-83 rất đặc biệt trong
nỗ lực phát triển cộng đồng từ
việc ổn định đời sống cá nhân
đến các sinh hoạt tương trợ, xă
hội, văn hóa, dạy tiếng Việt cho con em, sang
đến việc vận động chính giới, chính
trị Việt Nam và xây dựng một cơ chế
cộng đồng liên bang. An cư lạc nghiệp Người Việt tị nạn thường
bắt đầu cuộc sống tại các Trung tâm
tiếp cư (hotstel), được trợ cấp
đặc biệt bằng với tiền trợ
cấp thất nghiệp, được học Anh văn
sơ cấp ngay tại Trung tâm, có nhân viên xă hội
giúp đỡ, con cái có xe đưa đón đến
tận trường. Các sinh hoạt cộng đồng như bầu
cử, biểu t́nh, các sinh hoạt tôn giáo như
Lễ Giáng Sinh, có xe buưt đến tận Trung Tâm
đưa đón. Nhưng ngược lại bà con phải trả đến
3/5 khoản trợ cấp, đồ ăn do Trung tâm
cung cấp lại không hợp khẩu vị, cuộc
sống chung đụng không thoải mái nên nhanh chóng mướn
nhà và dọn ra. Bước ban đầu mọi người đều
dựa vào nhau thu nhặt thông tin, giới thiệu công
việc và nhất là chia sẻ niềm vui nỗi
buồn đời tị nạn. Khu Richmond sát cạnh trung tâm thành phố, cạnh nhà
thờ Linh mục Huỳnh San, giá mướn nhà
rẻ, có nhà cao tầng chính phủ cho mướn
rất rẻ, nên nhanh chóng trở thành Sài G̣n nhỏ
tập trung người Việt. Ba khu Footscray, Springvale và Box Hill v́ ở sát ba Trung tâm
Midway, Enterprise và Eastbridge nên số người Việt
sinh sống buổi ban đầu cũng rất đông. Người tị nạn siêng năng, không đ̣i
hỏi, có việc là làm, thập niên 1970 công việc hăng
xưởng lại nhiều, nên đa số đến
Melbourne hôm trước hôm sau có việc làm. Hầu hết người tị nạn đều
cố gắng làm việc không chỉ để lo cho
bản thân và gia đ́nh ở Úc, họ c̣n phải
gởi quà, gởi tiền cho gia đ́nh c̣n kẹt
lại ở Việt Nam. Nhà cửa khi đó rẻ có việc làm là nhà băng
cho mượn tiền, nhiều người Việt mua
ngay nhà và chỉ trên 5 năm là trả xong nhà, rồi
đổi nhà lớn hơn hay xây nhà ở các khu
vực khác. Một số người không thích công việc làm
tay chân th́ thi vào các công việc chính phủ như lái
hay bán vé xe điện (xe tram), bưu điện hay công
chức bậc thấp. Một số người có ít vốn mở tiệm
buôn, nhà hàng hay hăng xưởng nhỏ. Một số khác tiếp tục học tiếng Anh
để có thể xin được một chỗ
học ở Đại Học hay Cao Đẳng. Sang đầu thập niên 1980, kinh tế Úc suy thoái,
người tị nạn lại sang rất đông, nên
nhiều người phải ở nhà may gia công hay lên
nông trại làm việc. Tôi đến Melbourne tháng 4/1983, thời điểm
kinh tế c̣n khủng hoảng rất khó kiếm
việc làm nên phải vừa học toàn thời,
cuối tuần làm việc ở nông trại, tối
đến chạy bàn ở nhà hàng, sẽ có bài
viết riêng gởi bạn đọc. Không muốn bị gọi là “Việt kiều” Từ ngữ “Việt Kiều” trước đây
mang ư nghĩa công dân Việt Nam Cộng Ḥa sống trên
đất Úc. Sau 30/4/1975, Ṭa Đại Sứ Cộng sản
tại Canberra công khai lôi kéo “Việt Kiều”
nhất là những sinh viên du học trước đây
đứng về phía họ. Ông Nguyễn Hữu Thu có kỷ niệm chua chát là vào
giữa năm 1978, Ṭa Đại Sứ Cộng sản
từ Canberra xuống Melbourne tổ chức một
cuộc họp giải thích “chính sách đối
với kiều bào” có một số sinh viên và cựu
sinh viên tham dự. Bên ngoài buổi họp bà con tị nạn biểu t́nh
phản đối, điểm mặt những người
tham dự là tay sai cho cộng sản. Ít nhất một sinh viên tên L. sau khi tham dự
cuộc họp ít lâu bị đón đánh ở
Richmond. Sau đó một bài viết trên báo Trắng Đen phát
hành tại Mỹ đưa tin cuộc họp, với
danh sách những người được cho là tham
dự buổi họp và ví họ như “cỏ đuôi
chó”. Khi ấy ở Úc chưa có báo chí Việt ngữ, c̣n
ông Thu đang theo học tại viện Đại
Học Melbourne, không tham dự buổi họp, nhưng
không hiểu v́ lư do ǵ trong danh sách lại có tên ông. Ông Thu cùng lúc đang thực tập ngành nhân viên xă
hội tại Ecumenical Migration Centre (EMC) ông báo cho họ
biết, họ khuyên ông nên gởi bài báo cho Bộ Di
Trú. Bộ mời ông lên gặp để t́m hiểu, ông
nói họ muốn biết th́ hỏi sinh viên L. sẽ rơ,
c̣n ông không tham dự và không biết ǵ. Sau đó một người bạn cho ông biết
một số người muốn vào tận kư túc xá
Đại Học nơi ông đang cư ngụ để
t́m ông, nhưng anh ấy cho họ biết ông là người
tị nạn cộng sản và là cựu sĩ quan Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa nên họ mới thôi không
đến. Khi ấy thành phần thiên tả Úc – Việt liên
tục tổ chức các cuộc triển lăm và hội
họp buộc những người tị nạn
mới sang không thể làm ngơ. Nhiều cuộc biểu t́nh dẫn đến xô sát
và việc t́m “thanh toán” giới thiên tả và
cộng sản thường xuyên xảy ra. Linh mục Bùi Đức Tiến cho biết có 2
lần những người bị đánh, v́ bị cho
là theo cộng sản, phải chạy vào nhà thờ
nhờ Cha giúp tránh bị hành hung. Ở thủ đô Canberra căng thẳng hơn khi
một người tị nạn và mấy nhân viên Ṭa
Đại sứ cộng sản đánh nhau ngay giữa
chợ trời. Đưa nhau ra ṭa, người tị
nạn thắng kiện, nhờ được nhân
chứng người Úc thấy nhiều người
tấn công anh. Bạo động nhất là vụ “Quốc
hiệu” nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam treo trước cửa Ṭa Đại sứ
cộng sản bị bắn nát, truyền h́nh báo chí
Úc đưa tin hàng đầu, cảnh sát không bắt
được ai. Theo tôi biết phía Ṭa Đại Sứ không muốn
làm lớn chuyện, v́ họ e ngại báo chí Úc
sẽ biến thành một vụ án chính trị không có
lợi cho họ. Để tránh bị tiếp tục tấn công, Ṭa
Đại Sứ phải lặng lẽ rời về góc
cuối một con đường vùng O'Malley ít người
qua lại đặng dễ bảo vệ. Tôi nhớ vụ này Giáo sư sử học David Marr,
một người thiên cộng, phải lên truyền h́nh
ấp úng nói không lên lời biểu lộ sợ hăi
đến phiên ḿnh và gia đ́nh được
hỏi thăm sức khỏe. Việc này khi đó gây khá nhiều tranh căi. Đến
nay nhiều người vẫn tin rằng trong giai đoạn
đó làm như thế là đúng, mới ngăn
cản ảnh hưởng của Ṭa Đại Sứ
Cộng sản vào sinh hoạt cộng đồng và giúp
cộng đồng phát triển. Vài câu chuyện nêu trên cho thấy ngay từ buổi
ban đầu người Việt tị nạn đă
không chấp nhận Ṭa Đại Sứ Cộng
sản đại diện cho ḿnh, họ không chấp
nhận những người theo cộng sản, họ
cảm thấy từ ngữ “Việt kiều” không c̣n
thích hợp, nên muốn đổi danh xưng thành người
Việt tị nạn, người Việt quốc gia
hay người Việt tự do. Tên tiếng Anh của Hội
Việt Kiều Tự Do sau năm 1978 cũng được
đổi từ Vietnamese Friendly Society thành Vietnamese
Association in Victoria. Bước chuyển đổi… Ông Hoàng Phương, Việt Nam Dân
Xă Đảng, sang Úc ngày 19/6/1978, cho biết tại
Trung Tâm Midway (hostel), Footscray, bà con đă bầu người
đại diện có khả năng nói tiếng Anh
để làm việc với Ban Giám Đốc và nhân
viên. Ở thời điểm này mọi
sinh hoạt từ hội họp đến Hội
Chợ Tết đều có treo Quốc Kỳ và đều
khởi đầu bằng việc hát Quốc Ca
Việt Nam Cộng Ḥa. Ngày 18/8/1979, Thầy Huỳnh San khi
được thụ phong linh mục đă mặc
một chiếc áo lễ với h́nh lá cờ Việt
Nam Cộng Ḥa do một giáo dân tặng. Một sự
kiện có một không hai trong lịch sử Cờ Vàng.
Ông Nguyễn B́nh, Gia đ́nh Hải
Quân, sang Úc vào tháng 12/1978, cho biết trước đó
các nhóm thiên tả hoạt động mạnh nên bà
con đề cử Thiếu tá Nguyễn Khắc Ngà làm
Trưởng Ban và ông Bùi văn Cao làm phó Ban tổ
chức biểu t́nh chống cộng. Sau đó ông Ngà được
đề cử làm Hội trưởng Hội Ái
Hữu Người Việt Tự Do nhưng chỉ vài
tháng ông Ngà từ chức. Bà con đề cử Thầy
Huỳnh San làm Trưởng ban tổ chức Tết
Nguyên Đán Kỷ Mùi 1979, đồng thời vận
động Giáo sư Tôn Thất Ngữ, Đại
Học Nông Lâm Súc Sài G̣n, lên thay làm Hội trưởng
Hội Ái Hữu. Ngày 13/1/1979, Kỹ sư Trần
Ngọc Thọ qua Úc, chừng 1 tháng sau ông được
Giáo sư Tôn Thất Ngữ mời giữ vai tṛ phó
Ngoại vụ. Ban Điều Hành có thêm hai người
là ông Vơ Doăn Ngọc, Phó Nội Vụ và Bác sĩ
Trần văn Đông, Tổng thư kư. Ông Ngữ chỉ làm Hội trưởng
chừng vài tháng th́ tuyên bố xin từ chức vào tháng
3/1979. Ông Thọ được bà con
vận động đứng ra lập một Ban
Quản Trị mới cho Hội. Ông đồng ư
với 2 điều kiện những người cũ
phải tiếp tục giúp ông và phải qua một
cuộc bầu cử tự do để Hội có
được chính danh. Bầu cử tự do và Hội
Chợ Tết đầu tiên Đến tháng 6/1979, cuộc
bầu cử tự do đă diễn ra và liên danh do ông
Trần Ngọc Thọ làm thụ ủy được
bà con tín nhiệm. Đây là cuộc bầu cử
cộng đồng đầu tiên tại Melbourne và cũng
có thể cũng là đầu tiên của người
Việt tại Úc. Một số tiểu bang măi đến
thập niên 1990 vẫn chỉ có hội viên chính
thức mới được quyền tham gia bầu
cử cộng đồng. Ngoài Kỹ sư Trần Ngọc
Thọ là Hội trưởng, Ban Chấp hành c̣n có Giáo
sư Nguyễn văn Nha Phó Ngoại vụ, ông Vơ Doăn
Ngọc Phó Nội Vụ, ông Hồ Xuân Thu, Tổng Thư
kư và ông Trần Trọng Khương, Thủ quỹ. Thêm vào có ông Trần văn Ni là Trưởng
Ban xă hội và ông Đỗ Phát Thanh Trưởng ban văn
nghệ. Trụ sở của Hội đặt
tại số 40 đường Rae, North Fitzoy. Trong nhiệm kỳ 1 năm từ
1979-80 Hội đă thực hiện được các công
việc sau: 1. Về xă hội ông Ni và ông Khương đă mướn
xe giúp bà con di chuyển từ trung tâm ra nhà mới và
vận động Hội Tị Nạn Đông Dương
(ICRA) giúp bảo trợ người tị nạn
từ các trại tị nạn; 2. Về giải trí ông Đỗ Phát Thanh đă liên
lạc với các cơ quan Úc để mượn
những phim Việt Nam về chiếu cho bà con ở
Trung tâm (Hostel) xem; 3. Tổ chức Tết Trung thu rất lớn tại
Dallas Brooks Hall East Melbourne có nhiều khách mời
ngoại quốc; và 4. Tổ chức thành công Hội Chợ Tết đầu
tiên của người Việt tại Melbourne cũng như
tại Úc. Hội chợ kéo dài 2 ngày tại Camberwell
Civic Centre với sự đóng góp của rất
nhiều người đặc biệt của Linh
mục Bùi Đức Tiến, Điêu khắc gia Lê Thành
Nhơn và Ca sĩ Đăng Lan. Tài chánh để
tổ chức Hội Chợ đều do các thiện
nguyện viên đóng góp. Sau Hội Chợ Tết, Thủ tướng
Malcolm Fraser gởi thư chúc mừng Hội Chợ thành
công và chúc Tết Cộng Đồng. Đáng tiếc ông Trần Ngọc
Thọ không c̣n giữ lá thư này đồng thời
cũng không c̣n giữ h́nh ảnh sinh hoạt. Từ đó, Hội Chợ Tết
Melbourne hằng năm đều được tổ
chức. Vài năm sau, thành phố Sydney và các thành
phố khác cũng tổ chức. Riêng tại Melbourne ngày nay ngoài
Hội Chợ do Cộng đồng tổ chức c̣n có
6 Hội Chợ Tết do các Hội thương gia
Richmond, Footscray, Springvale, St Albans, Sunshine và Boxhill tổ
chức. Trước đây các lễ
hội đều mang sắc thái của người da
trắng gốc Anh, Hội Chợ Tết trở thành
một lễ hội sắc tộc đầu tiên đóng
góp vào sự h́nh thành và phát triển của chính sách
đa văn hóa của nước Úc. Ông Thọ cho biết văn hóa chính
là gạch nối giữa người Việt với người
các sắc tộc khác và giữa thế hệ thứ
nhất với các thế hệ tiếp nối. V́
thế ông rất quan tâm đến các sinh hoạt văn
hóa. Chỉ một năm phục vụ
cộng đồng, đóng góp của Kỹ sư
Thọ và Ban Chấp Hành vô cùng quan trọng, đă
mở ra sinh hoạt bầu cử công khai và việc
tổ chức Hội Chợ Tết làm nền tảng
để Hội Ái Hữu được nh́n nhận
như tiếng nói chính thức của cộng đồng
người Việt tự do tại Victoria. Hầu như tất cả những
thông tin phổ biến trước đây về
Cộng Đồng Victoria đều không nhắc đến
giai đoạn trước 1980, nay nhiều người
không c̣n nữa, nhưng có trước mới có sau,
nỗ lực của họ cần thiết được
ghi nhận. Giai đoạn 1980-82 Ông Trần Ngọc Thọ c̣n
nhớ khi Linh mục Bùi Đức Tiến ra ứng
cử có rất đông đồng bào tham dự và
ủng hộ Cha. Ban Chấp Hành gồm Chủ
tịch Linh mục Bùi Đức Tiến; Phó Chủ
Tịch Nội Vụ, ông Vơ Doăn Ngọc; Phó Chủ
Tịch Ngoại Vụ, bà Kiều Renaud; Tổng Thư
Kư, Tiến sĩ Nguyễn văn Hưng. Cha Tiến cho biết Ban Chấp Hành
giữ 2 nhiệm kỳ một năm 1980-81 và 1981-82. Văn pḥng tuyên úy Công giáo cũng
được sử dụng làm văn pḥng Cộng
đồng. C̣n các sinh hoạt như Hội Chợ
Tết và Tết Trung Thu được tổ chức
tại sân Nhà thờ St John’s, East Melbourne. Đóng góp chính của Hội trong
thời gian này là giúp những người mới
tới mướn được nhà, rời khỏi các
Trung Tâm tiếp cư dành chỗ cho người từ
các trại tị nạn. Khi các Trung tâm có chỗ trống,
Hội vận động với chính phủ nhận thêm
người từ các trại tị nạn đến
Melbourne. Đồng thời Hội vận
động với Hội Tị Nạn Đông Dương
(ICRA) giúp bảo trợ người từ các trại
tị nạn. Thời gian này mỗi năm có tới trên
5 ngàn người đến định cư tại
Melbourne. Hội cùng các tiểu bang khác trong
cơ chế Liên Bang c̣n vận động và hỗ
trợ Chính phủ Fraser, giữa năm 1982, Úc đạt
được thỏa thuận với nhà cầm
quyền Hà Nội để người Việt tị
nạn được bảo lănh gia đ́nh c̣n kẹt
lại ở Việt Nam. Một số người cho
biết là nhờ công của bà Kiều Renaud một người
hết sức năng nổ và nhiệt thành trong
việc định cư người Việt tại
Melbourne. Linh mục Bùi Đức Tiến
(1980-82) Cha Tiến là người Việt
tị nạn đầu tiên được thụ phong
linh mục tại Melbourne, và là linh mục tiên khởi
xây dựng Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam
tại Melbourne, cũng như xây dựng Trung tâm Vinh Sơn
Liêm. Cha Tiến là cựu quân nhân Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa, thuộc Khóa 4/1970 Vơ Khoa
Thủ Đức, nhưng giữa Khóa Cha được
phép về Đại Chủng Viện Long Xuyên học. Vào ngày 19/6/1981, khi Cha đang làm
chủ tịch Hội Ái Hữu, Cha giúp thành lập
Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
tại Victoria. Trong Đại Hội cấp Liên
Bang họp tại Trung Tâm Vinh Sơn Liêm, do Cha làm linh
mục quản nhiệm, vào ngày 4/1/1987, Cha tham dự và
giúp thành lập Tổng Hội Cựu Quân Nhân Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Cha c̣n tham gia Ủy Ban Cứu Người
Vượt Biển, hằng năm khi được
nghỉ, Cha theo tầu ra Vịnh Thái Lan cứu người
vượt biên, đi t́m những thuyền nhân bị
hải tặc Thái giam giữ trong đất liền hay
trên các đảo, và giúp đồng bào trong trại
tị nạn. Năm 2007, Cha và Thượng
tọa Thích Phước Tấn thành lập HOPE – AVHWA
một Hội Từ thiện quy tụ một số bác
sĩ chuyên khoa về mắt trên toàn thế giới,
về chữa trị cho những người khiếm
thị tại các vùng quê Việt Nam. Cha Tiến cho biết ngay khi đến
Úc năm 1978, cha có ra nguyệt san Quê Hương nhưng
chỉ phát hành được vài tháng. Đến năm 1980 Cha cộng tác
với Linh mục Việt Châu ở Mỹ ra ấn
bản Dân Chúa Úc châu, hiện vẫn phát hành hằng
tháng. Cha c̣n viết và phát hành 10 sách
Đạo tiếng Việt. Chính trị và Hội Đoàn Giai đoạn 1980-82 là giai đoạn
nhiều Hội Đoàn địa phương
được thành lập trong đó có Cộng đoàn
Công Giáo, Hội Cựu Quân Nhân và Hội Sinh Viên. Cũng trong thời gian này nhiều
tổ chức chính trị người Việt h́nh thành
trên đất Úc, Mỹ, Pháp, rồi lan tỏa
khắp nơi. Một mặt các tổ chức
nhắc nhở người Việt tị nạn về
thảm họa cộng sản phải được
giải quyết ngay tại Việt Nam. Nhưng mặt khác v́ bất đồng
trong phương cách đấu tranh và khác tổ
chức gây không ít tranh căi thậm chí đến xô sát
ngay trong những sinh hoạt cộng đồng. Hội chính thức thành Cộng
Đồng Tại Úc, chỉ có 2 cộng đồng
đă thiết lập được một cơ
chế cấp liên bang là Do Thái và Việt Nam. Cộng đồng Việt Nam
được thành lập ngày 26/12/1977, tại Canberra,
dưới danh xưng Liên Hội Việt Kiều
Tự Do Úc Châu. Đến Đại Hội tại
Adelaide, Nam Úc, vào ngày 12/4/1982, Liên Hội được
đổi tên thành Cộng Đồng Người
Việt Tự Do tại Úc châu. Tất cả các
tiểu bang cũng được đề nghị thay
danh xưng thành Cộng Đồng Người Việt
Tự Do tại tiểu bang. Cộng Đồng Người
Việt Tự Do tại Victoria đă sử dụng danh
xưng này từ đó đến nay. Trong khi Hội Đoàn bị
giới hạn bởi số hội viên, chỉ có
hội viên mới được tham dự vào các
buổi họp của Hội và được bầu
Ban Chấp Hành, th́ mọi người Việt có thường
trú nhân, sống tại Victoria, đều có quyền
bầu Ban Chấp Hành Cộng Đồng cũng như
tham gia mọi sinh hoạt, hội họp và biểu
quyết. Ban Chấp Hành Cộng đồng giữ vai tṛ điều
hợp các Hội Đoàn thuộc Cộng đồng
người Việt tự do, trong các sinh hoạt về
văn hóa, xă hội và chính trị. Cộng Đồng cấp liên bang giữ vai tṛ điều
hợp các Cộng Đồng tiểu bang trong sinh
hoạt vận động chính giới và chính trị
cộng đồng. Để hiểu rơ hơn về khía cạnh sinh
hoạt chính trị của Cộng Đồng bài
kế tiếp sẽ nói về cơ chế Liên bang và
một số các hoạt động đáng ghi nhớ
được Liên Bang điều hợp trên 40 năm
nay. Nguyễn Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi |