Những gương mặt trong cộng đồng người Việt tị nạn đến thành phố Melbourne, Úc từ 1976. Nguyễn Quang Duy |
Theo
phần mở đầu Bản Nội Quy, Cộng
Đồng Người Việt Tự Do tại Victoria
đă được h́nh thành vào những năm
cuối của thập niên 1970, nhưng Bản Nội
Quy không cho biết ngày thành lập. Theo
thông tin về Liên Hội Ái Hữu người
Việt Tự Do Úc châu tiền thân Cộng Đồng
Úc châu đă được thành lập vào ngày
26/12/1977, tại thủ đô Canberra. Đại
diện cho Victoria tham dự cuộc họp có Tiến sĩ
Nguyễn Triệu Đan, bà Huỳnh Bích Cẩm và ông
Đoàn Việt Trung. Tiến sĩ Nguyễn văn Hưng
mặc dầu không tham dự cuộc họp nhưng sau
đó được mời làm Tổng thư kư
Hội từ năm 1977 đến năm 1983. Nhờ
thông tin của bà Huỳnh Bích Cẩm và nhờ một
số tài liệu t́m được cho biết Hội
Ái Hữu Việt Kiều Tự Do được thành
lập ngày 10/2/1976 chính là tiền thân của Cộng
Đồng Người Việt Tự Do tại Victoria. Hội
Ái Hữu Việt Kiều Tự Do Tiến
sĩ Nguyễn Văn Hưng dưới bút danh Đào
Phụ Hồ trên báo Văn Nghệ phát hành tại Úc
châu vào ngày 12/8/2004, cho biết Hội Ái Hữu
Việt Kiều Tự Do được thành lập ngày
10/2/1976. Theo
hồi kư Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan sau khi
Thủ tướng Malcolm Fraser quyết định
nhận người tị nạn chính trị vào tháng
2/1976, ông và một số sinh viên tổ chức một
cuộc họp để thành lập Hội Ái Hữu
Việt Kiều Tự Do dự tính hợp tác với chính
quyền tiểu bang Victoria tiếp đón và giúp đỡ
đồng bào mới qua. Ông
Đan cho biết Hội bầu một Ban Chấp Hành Lâm
Thời gồm 4 người, trong đó có ông và bà
Huỳnh Bích Cẩm hiền thê của ông, ít lâu sau
mọi người cử ông làm Hội trưởng. Bà
Huỳnh Bích Cẩm cho biết cuộc họp chỉ có
7 hay 8 người, Ban Chấp Hành c̣n có Tiến sĩ
Nguyễn văn Hưng và Thầy Huỳnh San, cuối năm
1979 Thầy San chịu chức linh mục. Bà
Cẩm không nhớ tên các hội viên sáng lập khác v́
họ hầu hết là sinh viên sau này không c̣n sinh
hoạt. Theo
thống kê dân số vào tháng 6/1976, có 382 người
Việt sống rải rác tại Melbourne, nên so ra
số hội viên sáng lập tuy khiêm nhượng nhưng
chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Bà
Cẩm cho biết nhu cầu chính của Hội lúc ban
đầu là tạo mối dây liên lạc với người
Úc, ông Đan có kinh nghiệm và quen biết với chính
giới, lănh đạo tôn giáo, kư giả và giới
khoa bảng Úc nên được các hội viên đề
cử giữ vai tṛ Hội trưởng. Trong
hồi kư ông Nguyễn Triệu Đan nói rơ hơn: “Mang
tên là Hội Ái Hữu Việt Kiều Tự Do, song trên
thực tế chúng tôi chỉ là một nhóm nhỏ nhoi
tự nguyện hoạt động, phương
tiện không có, đọc báo theo dơi tin tức,
thấy nói có người ḿnh tới th́ bảo nhau
đến thăm. Bà con gặp nhau tay bắt mặt
mừng, song giúp đỡ cụ thể th́ người
đến trước chỉ có thể giúp đồng
hương tới sau bằng cách thông ngôn và cung
cấp chỉ dẫn về đời sống địa
phương.” Danh
xưng Việt kiều Bà
Huỳnh Bích Cẩm cho biết tên tiếng Anh của
Hội là Vietnamese Friendly Society. Chữ Vietnamese v́
thế có thể được dịch là Việt
kiều, người Việt hay người Việt
tự do. Ông
Đoàn Việt Trung, cựu chủ tịch Cộng
Đồng Úc châu, giải thích chữ Việt kiều
khi ấy mang ư nghĩa công dân Việt Nam Cộng Ḥa
sống trên đất Úc. Ngược
lại chữ hội trưởng hay chủ tịch
đều được dịch sang Anh ngữ là
president. Trong khi đó phía cộng sản dịch
chữ chủ tịch là chairman. Nhóm
tị nạn đầu tiên. Ngày
19/3/1976, nhóm người Việt tị nạn đầu
tiên gồm chừng 20 người đến định
cư tại Melbourne từ Thái Lan. Ông
Nguyễn Hữu Thu là một người trong nhóm này
cho chúng tôi biết Tiến sĩ Nguyễn văn Hưng,
Thầy Huỳnh San cùng một nhóm nhỏ nữ sinh viên
tại đại học Monash đến đón bà con
ngay tại phi trường Tullamarine rồi đưa
về thẳng bệnh viện ở vài ngày để
khám sức khỏe tổng quát trước khi
chuyển về Eastbridge Hostel, Nunawading. Đến
ngày 7/2/1977, nhóm người Việt tị nạn
thứ hai gồm chừng 250 người trong số có
Thầy Bùi Đức Tiến, đến cuối năm
1979 Thầy được thụ phong linh mục. Tương
tự, Linh mục Tiến cho biết Thầy Huỳnh
San, Tiến sĩ Nguyễn văn Hưng và Tiến sĩ
Trần Minh Hà đă ra tận phi trường Tullamarine,
Melbourne, đón bà con mới sang và giúp đỡ bà con
trong bước đầu định cư. Thuyền
nhân đề tài chính trị. Ngày
26/4/1976, tàu Kiên Giang chở 5 thuyền nhân đến
thẳng Úc. Khi tàu ghé Malaysia định đi Guam
họ được một thuyền trưởng người
Úc cho bản đồ, hướng dẫn đường
đi và khuyên họ nên đi thẳng tới Úc theo
luật (khi đó) họ sẽ được nhận. Trong
năm 1976, 3 tàu khác với 111 thuyền nhân cũng
đến thẳng Úc. Sang năm 1977, có thêm gần 30 tàu
với tổng số 868 người cập bến Úc. Ngày
13/12/1975, đảng Lao Động thất cử, Gough
Whitlam mất chức thủ tướng, nhưng
tiếp tục giữ chức thủ lănh đối
lập và vẫn giữ đường lối cứng
rắn hầu ngăn cản người Việt tị
nạn được đến Úc định cư.
Gough Whitlam lợi dụng việc thuyền nhân từ
Việt Nam đến thẳng Úc để mở
chiến dịch tranh cử. Thủ
Tướng Gough Whitlam là người băi bỏ chính sách
di dân da trắng của Úc, nhưng lại mâu thuẫn
trong chính sách đối với người tị
nạn cộng sản, nên đến nay nhiều người
vẫn xem ông là thiên cộng và kỳ thị người
miền Nam Việt Nam. Ngày
10/12/1977, Thủ tướng Malcolm Fraser thắng cử
nhiệm kỳ 2 nhưng thuyền nhân vẫn là đề
tài tranh luận tại Quốc Hội. Năm
1978, có thêm 746 thuyền nhân Việt đến thẳng
Úc, phe đối lập đề nghị lập
trại tạm giam, kéo tàu tị nạn trở ra
biển và giới hạn những trợ cấp an sinh
xă hội. Tất
cả mọi ư kiến của phía đối lập
đều bị Thủ tướng Fraser bác bỏ, ngược
lại phe đối lập không cho phép chính phủ
nhận thêm nhiều người Việt từ các
trại tị nạn. Trong
khi đó, các trại tị nạn tại Đông Nam Á
lại chật cứng thuyền nhân mới tới. Năm
1977 có 21,276 người; năm 1978 có tới 106,489 người;
và chỉ 6 tháng đầu năm 1979 có đến
166,604 người đến được các trại
tị nạn. Nhiều
người bị hải tặc Thái Lan cướp, cưỡng
hiếp và bắt cóc, nhiều tàu cập bến bị
đuổi ra, nhiều người chết trên
biển, và nhiều con tàu tiếp tục cuộc hành
tŕnh đến Úc. Theo
ước tính của Phủ Cao Ủy Tị Nạn Liên
Hiệp Quốc có tới nửa triệu người
Việt mất tích trên đường t́m tự do. Ngày
21/7/1979, Hội nghị quốc tế về người
tị nạn được triệu tập tại
Geneva với 66 quốc gia tham dự để t́m ra
những giải pháp cho người tị nạn Đông
Dương. Chính
phủ Fraser đồng ư Úc sẽ nhận thêm mỗi
năm hằng chục ngàn người tị nạn.
Đồng thời tiến hành thương lượng
với nhà cầm quyền cộng sản để
những người tị nạn được
bảo lănh gia đ́nh c̣n kẹt lại ở Việt
Nam. Hội
trưởng đầu tiên Tiến
sĩ Nguyễn Triệu Đan là hội trưởng
đầu tiên của Hội nhiệm kỳ 1 năm
1976-77. Ông
tốt nghiệp luật khoa Đại học Paris,
ở Pháp, sau đó phục vụ ngoại giao cho chính
phủ Việt Nam Cộng Ḥa từ 1955 đến năm
1975. Ông
từng làm Tổng lănh sự tại Ấn Độ,
thành viên phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa tại Ḥa
Đàm Paris, Pháp, và là Đại sứ tại
Nhật. Giữa tháng 7/1975 ông cùng gia đ́nh đến
Úc định cư. Ông
c̣n nhiều đóng góp khác cho cộng đồng, như
đầu năm 1983, ông làm trưởng nhóm 25 người
vận động đưa tiếng Việt vào Chương
tŕnh Trung Tiểu học tại Victoria. Đến đầu
năm 1987 tiếng Việt đă được công
nhận là môn thi để lấy bằng tốt
nghiệp trung học tại Victoria. Ông
Nguyễn Việt Long, cựu chủ tịch Cộng
Đồng và cựu chủ tịch Hội Cựu Quân
Nhân, cho biết ông Đan cũng giúp vận động
để các cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa được hưởng quyền lợi
hưu trí theo tiêu chuẩn cựu quân nhân Úc. Vào
tháng 10/1991, Tiến sĩ Đan thành lập Câu Lạc
Bộ thứ Sáu là diễn đàn chính trị vận
động cho nhân quyền, tự do và dân chủ
tại Việt Nam. Ông
Nguyễn Triệu Đan qua đời ngày 15/5/2013
tại Melbourne hưởng thọ 84 tuổi. Hiền
thê ông Đan là bà Huỳnh Bích Cẩm ở tuổi bát
tuần (tuổi 80) vẫn tích cực hoạt động
xă hội. Bà sáng lập Hội Phụ Nữ Việt
Úc năm 1983 và vẫn giữ vai tṛ Tổng Thư Kư
kiêm Giám Đốc của Hội. Chúng tôi sẽ có bài
viết riêng về Hội Phụ Nữ Việt Úc. Hội
trưởng thứ hai Ông
Đoàn Việt Trung, cựu chủ tịch Cộng
Đồng Liên Bang, cho biết Tiến sĩ Nguyễn Văn
Hưng là người soạn bản Nội Quy và là
Hội trưởng thứ hai trong thời gian 1977-78. Ông
Trung là Trưởng ban Văn Nghệ nhưng không
nhớ người nào khác trong Ban Chấp Hành dưới
thời ông Hưng. Ông
Hưng là sinh viên Colombo sang Úc năm 1965, tốt
nghiệp ngành Kỹ sư Hóa Học ở Viện
đại học Queensland và Tiến sĩ Hóa học
tại Viện đại học Monash. Từ
tháng 11/1975 đến cuối năm 1978, ông Hưng là
chủ bút tạp chí Người Việt Tự Do, quay
roneo và phổ biến miễn phí cho bà con mới sang. Ông
Đoàn Việt Trung chịu trách nhiệm vẽ cho
tạp chí. Ông Hưng và ông Trung xin thư viên Đại
Học Monash một góc riêng để giữ các
tạp chí và sách báo của người Việt tự
do. Ông
Hưng cộng tác với Bộ Di Trú Úc đón
tiếp người tị nạn ngay tại phi trường,
giúp đỡ bà con tại các trung tâm tiếp cư di
dân, giúp đỡ bà con xin việc làm cũng như
chuẩn bị cho họ khả năng hội nhập và
định cư. Ông
đứng ra tổ chức Tết Trung Thu, Tết Nguyên
Đán, Tưởng niệm biến cố 30/4/1975,
biểu t́nh chống các phái đoàn cộng sản. Ông
Hưng c̣n là Tổng thư kư của Liên Hội Ái
Hữu người Việt Tự Do Úc châu trong 5 năm,
liên tục từ 1977 đến 1982. Ông
vận động đài sắc tộc 3EA cho chương
tŕnh phát thanh tiếng Việt và được 3EA
mời giữ Trưởng ban Việt ngữ. Đài
phát thanh hàng tuần buổi đầu tiên vào ngày
25/4/1978 cho đến giữa năm 1992 đài sáp
nhập với 2EA Sydney thành đài phát thanh toàn
quốc SBS. Ông
Hưng và ông Nguyễn Ngọc Phách trong một thời
gian dài c̣n thực hiện chương tŕnh phát thanh hàng
tuần trên đài phát thanh Radio Australia phát về
Việt Nam. Ông
Hưng là tác giả hằng ngàn bài báo và nghiên
cứu, dưới các bút hiệu Đào Phụ
Hồ, Nguyễn Lương Triều, Nguyễn Nhất
Đ́nh, Ngụy Ông, Nguyễn Tất Thắng, Đằng
Phong Hầu, được đăng trên nhiều
tờ báo hải ngoại. Khoảng
đầu thập niên 1990, khi biết tôi viết
tiểu luận cao học về “T́nh h́nh giáo dục
tại Việt Nam”, chính ông Hưng đă đến
tận nhà hỏi mượn bài viết cùng tài
liệu để nghiên cứu và viết bài. Ông
Hưng, Giáo sư Bửu Khải và Giáo sư Nguyễn
Ngọc Phách c̣n thành lập và phụ trách giảng
dạy khoa Thông Ngôn Phiên Dịch, thuộc trường
Ngôn Ngữ Viện Cao Đẳng Kỹ Thuật RMIT
ở Melbourne. Trong
ṿng 20 năm cộng tác với RMIT ông đào tạo hàng
trăm thông ngôn và phiên dịch viên. Ông cũng
dịch nhiều tác phẩm từ tiếng Việt sang
tiếng Anh, như quyển “Chuyện kể năm
2000” của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Công
việc chính của ông Hưng là Giám Đốc kỹ
thuật Công ty hóa chất ICI (sau đổi thành Orica),
những đóng góp của ông cho cộng đồng
đều hoàn toàn bất vụ lợi. Ông
Hưng tiêu biểu cho những người tiên phong khai
dựng Cộng đồng người Việt tự
do tại Victoria và Úc châu, ông qua đời ngày 5/8/2012
tại Melbourne hưởng thọ 65 tuổi. Linh
mục Huỳnh San Cha
San luôn gắn bó với sinh hoạt Cộng Đồng,
Cha là chủ tịch Cộng đồng Người
Việt Tự Do tại Victoria, nhiệm kỳ 1982-83. Cha
về chốn Vĩnh Hằng ngày 10/10/2019, hưởng
thọ 71 tuổi, với một tang lễ thật
đơn sơ. Quan tài của Cha được đặt
dưới đất với di ảnh Cha mặc áo
lễ có h́nh lá cờ vàng ba sọc đỏ. Chiếc
áo lễ với h́nh lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa này,
Cha được một giáo dân tặng và đă
mặc trong buổi lễ thụ phong linh mục trên 40
năm trước. Người
Việt Tự Do Đến
khoảng cuối năm 1978 thành phố Melbourne đă có
trên 2,000 người, để tránh bị coi là công dân
nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, những người tị nạn mới
sang không c̣n đồng ư sử dụng Danh xưng
Việt kiều nữa. Danh
xưng được đổi thành người
Việt tự do và Hội đổi tên thành Hội Ái
Hữu người Việt Tự Do tại Victoria. Mời
các bạn đón xem số tới về những thách
thức của người tị nạn tại thành
phố Melbourne trong giai đoạn 1978-83. Nếu
có thông tin chưa chính xác, xin quư bạn chia sẻ
để chúng tôi có thể hiệu đính. Nguyễn
Quang Duy Melbourne,
Úc Đại Lợi
|