BẠN XƯA TÌNH CŨ

VŨ NGỌC VĂN

 

-Tatic…tatic…tatic…tatic…tatic…

Tiếng còi nhiệm sở vận chuyển vang lên dồn dập. Thủy thủ đoàn Hải Vận Hạm Hậu Giang HQ-406 vội vàng đi tới nhiệm sở của mình. Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều 23 tháng Chạp 1966 âm lịch, ngày đưa Ông Táo về trời, chiến hạm đang cặp cầu Tự Do bên tả hạm và nước ròng đang rút.

Từ phòng ngủ sĩ quan, Hải Quân Trung úy Lê Văn Cát và người bạn đồng khóa Trần Văn Tâm với quân phục chỉnh tề, vội leo lên boong tàu rồi tách ra đi về hai hướng. Trung úy Tâm là sĩ quan đệ tam chỉ huy sân mũi, còn Cát sĩ quan đệ tứ trách nhiệm sân lái. Trên đài chỉ huy, Hạm trưởng là Hải Quân Đại úy Trần Văn Lâm với biệt danh “Lâm Đen”, Hạm phó là Hải Quân Trung úy Phạm Trọng Quỳnh đã có mặt, đặc biệt có thêm vị khách danh dự là phu nhân Hạm trưởng theo tàu ra thăm hải đảo Côn sơn nhân kỳ nghỉ Tết. Chiến hạm được lệnh chuyển vận toán công chức và một đại đội Địa phương quân thuyên chuyển ra hải đảo để thay thế đại đội cũ trở về đất liền. Suốt buổi trưa nay, họ đã ồn ào lũ lượt xuống tàu cùng vợ con và đủ loại hành lý cồng kềnh, gánh theo các lồng tre gà vịt, heo con để trú đóng và sinh sống nơi hải đảo.

Cát đeo mũ nghe và ống điện thoại để nhận lệnh và báo cáo với đài chỉ huy. Năm phút sau, tất cả mọi nhiệm sở từ phòng lái, phòng máy, sân trước, sân giữa và sân sau báo cáo sẵn sàng. Sân giữa được lệnh cho nhân viên kéo hạm kiều lên tàu.

Cát nghe tiếng Hạm trưởng dõng dạc ra lệnh cho phòng lái:  
-     Hai mươi bên trái. (Tay lái bẻ góc 20 độ về bên trái)  
-     Mở hết giây đôi.

Tiếng báo cáo đáp lại từ các sân trên boong tàu:  
-        
Giây đôi đã về tàu.  
-        
Hai máy tiến một. Giữ chặt giây số 2. Mở hết các giây khác.

 Máy tàu chuyển động ầm ầm, thân tàu rung lên. Chân vịt bắt đầu quạt nước tống về sau. Một lúc sau, con tàu mới từ từ nhích lên phía trước, cạ mũi vào cầu tàu và lái tàu từ từ tách ra.

-         Hai máy tiến hai. Tay lái ba mươi bên trái.

Con tàu rú lên tăng tốc độ. Mãi vài phút sau, lái tàu mới tách ra khỏi cầu tàu và giây số 2 đã căng thì Hạm trưởng cho lệnh bớt máy.

-         Hai máy tiến một.  
-         Hai máy ngừng. Tay lái số không.  
-        
Hữu lùi một.

Nhờ xuôi nước chiến hạm nhẹ nhàng lùi lại, giây số 2 vừa chùng xuống thì Hạm trưởng ra lệnh:

-         Tháo giây số 2.

Chỉ một phút sau, tiếng báo cáo của Trung úy Tâm từ sân mũi vang lên:

-         Giây cuối cùng đã về tàu.

Trên đài chỉ huy, viên Trung sĩ Giám lộ cầm tu huýt thổi một hồi còi, báo hiệu chiến hạm đã thật sự rời bến. Lập tức quốc kỳ nơi sân lái của Cát được hạ xuống, đồng thời quốc kỳ và 4 lá cờ danh hiệu chiến hạm được kéo lên trên cột cờ chính.

Hạm trưởng bận rộn liên tục lái tàu đi ngược nước tiến lên hướng thượng dòng, len lỏi qua các chiến hạm và thương thuyền đang cột phao giữa dòng sông Sài Gòn. Qua khỏi cầu dầu, đến khúc sông rộng, ông cho tàu quay mũi và xuôi dòng rời bến Sài Gòn.

Quang cảnh thủ đô trong những ngày cuối năm thật tưng bừng, náo nhiệt. Dân chúng đổ xô đi mua sắm Tết. Cát nhìn vào trong bờ, đại lộ Nguyễn Huệ thênh thang, thẳng tắp đến tòa Đô chánh, giờ đã chật cứng người qua lại, một thoáng bâng khuâng len đến hồn anh. Một chú thủy thủ vận chuyển vừa xếp dọn giây cột tàu lại cho ngay ngắn, vừa nhún nhảy hát bài ‘Tình Yêu Thủy Thủ’: “Chiều nay ra khơi thoáng thấy mắt em nhuốm buồn. Đời anh là gió sương, anh đi khắp muôn phương…”. Cát mỉm cười, bài ca diễn tả thật đúng tâm trạng của anh trong chuyến hải hành cuối năm này. Mới thuyên chuyển xuống tàu được vài tháng, anh được gặp lại người bạn đồng khóa, cùng ở chung phòng suốt gần hai năm của thời sinh viên sĩ quan tại quân trường Nha Trang. Chiến hạm đã đưa Cát đi khắp miền đất nước, từ Đà Nẵng đến tận hải đảo Phú Quốc xa xôi, cặp bến nhiều thành phố, ghi dấu cho anh thật nhiều kỷ niệm. Là sĩ quan trẻ, độc thân Cát đã thỏa mộng hải hồ của một đời trai ngang dọc. Trong những lần tàu cặp bến, đôi khi anh cảm thấy hồn mình chơi vơi, đắm đuối vì sóng mắt của giai nhân, nhất là ở đất thành đô hoa lệ. Anh còn nhớ rõ đêm dạ vũ hôm nào trong ngày họp khóa Đệ Nhất Song Ngư, hồn anh đã say chếnh choáng như trong mấy vần thơ của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương:

         Bóng hình tha thướt 
        
Lưng mềm não nuột dáng tơ 
        
Hàng chân lả lướt 
        
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ…  

Tiếng còi giải tán nhiệm sở vận chuyển và gọi chi đội 3 đi phiên làm Cát chợt tỉnh. Chiến hạm đã qua khỏi thương cảng Sài Gòn, đang gia tăng tốc độ để kịp ra cửa biển Vũng Tàu trước lúc hoàng hôn.

Là sĩ quan trưởng phiên chi đội 3, Cát cho toán nhân viên giải tán vả rảo bước leo lên đài chỉ huy nhận nhiệm vụ. Anh đưa tay chào Hạm trưởng. Hạm trưởng vui vẻ chào đáp lại, ông rất mực ga lăng vì có phu nhân đứng cạnh. Niên trưởng Quỳnh vỗ vai bàn giao phiên trực cho anh rồi lặng lẽ rút lui. Hạm trưởng vẫn trực tiếp lái tàu qua Nhà Bè theo hướng sông Lòng Tàu để ra biển. Con tàu tiến rất nhanh nhờ xuôi dòng nước, nhưng khó khăn giữ cho chiến hạm đi đúng hướng.

Khi Cát vừa mãn phiên trực lúc 6 giờ chiều, chiến hạm đã ra tới cửa biển. Cát nhìn bầu trời đầy mây u ám, mặt trời trốn biệt từ lâu, từng luồng gió thổi mạnh, xa xa ngoài khơi nhấp nhô hoa sóng giăng đầy báo trước chuyến ra khơi đầy sóng gió hãi hùng. Hạm trưởng vội vã đưa bà xã xuống phòng tránh sóng rồi vội vàng trở lên đài chỉ huy để đưa chiến hạm ra khơi vì Vũng Tàu vẫn còn xác tàu chìm của Nhật để lại.

Bàn giao phiên trực hải hành cho chi đội 1, Cát xuống phòng ăn sĩ quan dùng cơm chiều. Anh vội vàng ăn cho xong bữa vì con tàu đã bắt đầu lắc lư, chao đảo, mọi vật trên bàn xê dịch theo từng cơn sóng lắc. Trở về phòng ngủ, ngồi tán gẫu với bàn bè một lát, anh leo lên giường cố dỗ giấc ngủ vài tiếng để nửa đêm thức dậy đi “ca cách mạng”. Nằm ngủ trên giường Cát cảm thấy đôi khi mình bị ném tung văng xuống sàn tàu.

Gần 12 giờ đêm, Cát nai nịt áo mũ đi mưa cẩn thận, lảo đảo từng bước leo lên đài chỉ huy nhận phiên hải hành từ chi đội 2. Liếc nhìn bạn mình mặt mũi bơ phờ hốc hác vì vật lộn với con tàu trong cơn biển động suốt 4 giờ qua, anh lắc đầu ngao ngán. Chiến hạm đang ở giữa đường Vũng Tàu – Côn Sơn, hải hành khá nhàn hạ, định vị trí chiến hạm bằng radar, đo khoảng cách con tàu tới đỉnh núi Côn Sơn mỗi 15 phút. Bên ngoài bầu trời đen kịt, mưa gió sấm chớp đầy trời. Con tàu cứ lầm lũi đâm sầm vào từng ngọn sóng cao hung hãn. Chiến hạm khi thì bị nhấc lên, chơi vơi rồi đập mạnh lườn tàu xuống mặt biển làm cho con tàu rung chuyển dữ dội, kinh hoàng như muốn bị gẫy làm đôi. Đài chỉ huy nằm ở trên cao, lệch một bên phía hữu hạm, thỉnh thoảng bị những con sóng ngang xô tới, tròng trành, chao qua đảo lại như muốn lật úp. Ai nấy phải bám cứng vào thành tàu, sẩy tay là như bị ném tung xuống biển. Cát cắn răng chịu đựng, ruột gan nhộn nhạo từng cơn, nhưng vì trách nhiệm nặng nề, anh vẫn cố gắng đứng vững, nép vào thành tàu cho đỡ ướt át, thỉnh thoảng dùng ống nhòm quan sát mặt biển chung quanh.

Được chừng nửa phiên, Cát chỉ thị cho viên sĩ quan phụ tá khóa 14 đi tuần phòng tai một vòng chiến hạm. Một lúc sau, viên Thiếu úy đó chạy lên báo cáo cho Cát biết có một vợ lính Địa phương quân đang bị đau bụng đẻ vì bị cơn say sóng dữ dội ảnh hưởng đến bào thai. Cát vội bảo anh ta đi gọi các y tá trên tàu thức dậy để làm công tác hộ sinh bất đắc dĩ cho chị ta. Một giờ sau, nhờ sự tận tụy giỏi tay nghề của các y tá, Cát được cho biết chị ấy đã hạ sinh một bé gái an lành, hôm sau chiến hạm cấp giấy khai sinh đặt tên là NGUYỄN THỊ HẬU GIANG làm kỷ niệm.

Một thủy thủ trẻ vừa ói, vừa ôm hải bàn điện theo dõi hướng đi chiến hạm, vừa càu nhàu với Cát:

-         Tàu mình có đàn bà đẻ xui lắm, ngóc đầu không lên đó trung úy!

Dù đang mệt nhừ vì say sóng, Cát chỉ mỉm cười với anh ta, nhướng mắt ra vẻ không tin. Mãn phiên trực lúc 4 giờ sáng, mặt biển đột nhiên dịu lại, giông tố đã qua mọi người như được hồi sinh, chiến hạm cũng gần đến Côn Sơn. Bàn giao phiên trực và báo cáo chuyện vừa qua cho Hạm phó, Cát xuống phòng ngủ chìm vào giấc ngủ mệt nhoài.

Chuyến hải hành trở về khá êm ả, chiến hạm cặp bến Sài Gòn nghỉ ngơi ăn Tết vài ngày. Cát được hạm trưởng ưu ái thưởng cho mấy ngày phép về sum họp với gia đình trong dịp Tết. Đấy cũng là mấy ngày phép hiếm hoi quý báu đối với anh từ khi nhập ngũ được về nhà ăn tết cùng cha mẹ và đàn em nhỏ.

Khi Cát mãn phép trở về, chiến hạm nhận lệnh chuyển vận một tiểu đoàn Bộ binh ra Qui Nhơn hành quân. Hạm trưởng hôm nay cáu gắt khác thường, ai nấy đều ngạc nhiên e dè né tránh. Vài nhân viên thầm thì thắc mắc: “Có lẽ đêm qua về nhà ổng bị bà xã không cho nên sáng nay sao mà khó khăn thế!”.

Vì mới đi phép về, Cát gõ cửa phòng Hạm trưởng chào trình diện cấp chỉ huy. Nhìn gương mặt kém vui của ông, anh ngạc nhiên hỏi:

-         Có chuyện gì vậy Commandant?

Hạm trưởng Lâm lúc đó mới thở ra tâm sự:

-         Xui quá, bà xã moa sau chuyến đi Côn sơn về, bả vừa bị sẩy thai!

Cát chợt hiểu, pha trò an ủi ông:

-         Có gì đâu mà Hạm trưởng phải lo. Sẩy kỳ này thì còn kỳ khác, đời còn dài mà Commandant!

Chuyến hải hành ra Qui Nhơn vô cùng vất vả vì biển động mạnh. Chiến hạm chạy ngược gió, ngược sóng ba ngày mới tới nơi. Mọi người quá giang trên tàu bị say sóng ói mửa liên hồi nằm rũ liệt khắp nơi. Khi tàu tiến vào vịnh Qui Nhơn ủi bãi thì hải cảng tấp nập các chiến hạm Hoa Kỳ và Đại Hàn ở đó rồi. Lúc ấy vào đầu năm 1967, thời điểm chiến tranh Việt Nam leo thang mãnh liệt, quân lực Đồng Minh lũ lượt đổ bộ vào tham chiến nên các hải cảng trên quê hương đều có sự hiện diện của tàu bè ngoại quốc.

Các chiến hạm Mỹ thấy tàu Việt Nam muốn vào ủi bãi bên cạnh, viện lý do an toàn nên đánh đèn hiệu đuổi ra. Hạm trưởng Lâm giận lắm, bảo tàu Mỹ láo lếu vì chiến hạm Việt Nam có quyền cặp cầu hoặc ủi bãi bất cứ hải cảng nào trên lãnh thổ chủ quyền của mình, không cần xin phép chiến hạm ngoại quốc. Ông lờ đi, tiếp tục cho tàu tiến vào ủi bãi, vì thủy thủ đoàn và đơn vị bạn quá bơ phờ hốc hác. Chiến hạm Mỹ phản đối ồn ào, nhưng cuối cùng đành chào thua.

Hôm sau, chiến hạm được lệnh nhổ neo rời bến. Cát trách nhiệm sân lái với trách nhiệm chính là kéo neo lái lên tàu. Chiến hạm đang lùi dần, đồng lúc với giây neo đang được máy kéo neo quay dần lên. Bất ngờ neo bị kẹt cứng, giây neo căng cứng không kéo lên được, rồi neo bị đứt nằm luôn dưới đáy biển. Chiến hạm đang lùi bỗng nhiên bị lệch hướng, bị sóng đánh xô giạt, ngoằn ngoèo lùi ra, suýt va chạm vào các tàu khác. Hạm trưởng ngoài mặt điềm tĩnh điều khiển con tàu trong cơn nguy cấp, trong lòng bối rối tê tái cõi lòng. Cái neo trên tàu gắn liền với chức vụ hạm trưởng, mất neo rồi ông biết ăn nói với thượng cấp làm sao đây?

Khi tàu về lại Sài Gòn, ông lặng lẽ không phúc trình chuyện mất neo lên Hạm Đội. Ông đi cùng với Quản Nội Trưởng lên Hải Quân Công Xưởng lân la đến sân để neo cạnh ụ lớn tìm xem neo lái của loại Hải Vận Hạm để ở đâu? Sau đó ông mượn bạn bè cùng khóa một chiếc xe Dodge, chờ đêm tối chở một toán nhân viên đi trộm neo đem về tàu. Thủy thủ đoàn ôm bụng nín cười, thầm phục cấp chỉ huy mưu lược.

Sau đó ít lâu, chiến hạm lên đường xuất ngoại sang Thái Lan mua gỗ đem về cho Hải Quân Công Xưởng đóng ghe Yabuta trang bị cho các Duyên Đoàn. Thái Lan bấy giờ cũng giống như nước ta là quốc gia đang phát triển, nhưng dân chúng được hưởng cảnh thanh bình không bị chiến tranh tàn phá.

Trong mấy ngày ở hải cảng Vọng Các, chiến hạm của Cát bị tai họa liên tiếp. Một thiếu úy bị tử nạn vì đạn lạc trên tàu và neo lái bị mất một lần nữa khi tàu rời bến. Trở về Sài Gòn, Hạm Trưởng Lâm quá chán nản, buồn phiền vì các rủi ro liên tiếp nên đã đệ đơn từ chức Hạm trưởng để phục vụ tại các đơn vị bờ, chấm dứt cuộc đời hải nghiệp. Toàn thể thủy thủ đoàn đều bùi ngùi lưu luyến, kính phục và thương cảm ông.

Giờ đây mỗi khi nhắc tới con tàu cũ, dù đã ba mươi năm qua, lòng Cát lại đầy vơi bao nỗi niềm thương nhớ. Hạm Trưởng Trần Văn Lâm mà thuộc cấp một lòng thương yêu, kính phục đã thành người thiên cổ trong một chuyến vượt biển năm 1987. Giai thoại con tàu mất neo hai lần của ông trong Hải Quân ít ai được biết, nhắc nhở để tiếc thương ông. Con tàu Hậu Giang HQ-406 ở lại với quê hương sau ngày quốc nạn 30-04-1975. Hạm phó Phạm Trọng Quỳnh và sĩ quan đệ tam Trần Văn Tâm may mắn theo đoàn tàu di tản sang định cư ở Hoa Kỳ. Riêng Cát hứng chịu bao cay đắng nhục nhằn khi làm thân chiến bại trong cuộc bể dâu: mười ba năm lính, chin năm tù cộng thêm đến nay tròn mười lăm năm lưu lạc trên đất Úc. Thỉnh thoảng liên lạc với Tâm, người bạn thân cùng khóa năm xưa, gợi nhớ cho Cát bao kỷ niệm đáng yêu của một thời sinh viên sĩ quan và những tháng ngày lênh đênh trên con tàu Hậu Giang thân thương. Một lần trong tiệc vui cùng bạn bè áo trắng, kỷ niệm ngày nào sống lại trong hồn anh, Cát cảm thấy hồn thơ lai láng, dệt mấy vần thơ chuyển lên mạng gửi thăm bạn hiền:

         Còn đâu mai cũ trường xưa 
     
Thùy dương bến cũ Tâm ù nhớ không? 
        
Còn đâu một thuở vẫy vùng 
     
Bao giờ tái ngộ trùng phùng bên nhau?

Có lẽ khi đọc thơ, bạn anh sẽ cảm động bồi hồi. Biết đâu trong buổi sáng mùa Đông cuối tuần ở tiểu bang New Jersey lạnh giá bạn anh ngồi nhâm nhi tách trà nóng, bâng khuâng nhìn tuyết rơi bên ngoài mà mơ màng nhớ lại khung trời kỷ niệm nơi miền thùy dương cát trắng:

         Thoáng hiện em về trong đáy cốc 
        
Nói cười như chuyện một đêm mơ.

Thời gian vùn vụt trôi qua,từ ngày ra trường đến nay đã hơn 36 mùa lá rụng. Dù cho dâu bể cuộc đời đã chia lìa mỗi người mỗi hướng, hẹn ước tan tành nhưng vẫn còn tơ vương tiếc nuối:

         Xa nhau lâu quá là lâu 
    
Ba mươi sáu năm chửa gặp nhau một lần  
  
       Nhưng dù núi cách sông ngăn 
   
Đường đi khác hướng tình thân không nhòa…

Bạn bè cùng khóa với nhau, dù cho lâu ngày không gặp nhưng dễ hiểu thấu lòng nhau. Cát gợi nhớ kỷ niệm ‘một đêm mơ’ của thời sinh viên sĩ quan hào hùng thì bạn anh hồi âm nhắc nhở ‘một đêm say’ của thuở chung một chiến hạm. Trong đêm dạ vũ họp mặt khóa 12, Cát đã say túy lúy quên đường về vì men tình ngây ngất:

         Âm ba gờn gợn nhỏ 
        
Ánh sáng phai phai dần 
        
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân 
        
Lui đôi vai, tiến đôi chân 
        
Siết đôi tay, ngã đôi thân 
        
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió…  

Khi say quên cả đát trời, mọi vật chung quanh Cát mơ hồ chỉ nhớ “ta quá say rồi, sắc ngã màu trôi” để rồi như có ai nhắc nhở bên tai giai thoại lý thú của cụ Nguyễn Công Trứ ngày xưa:

         Giang sơn một gánh giữa đồng 
      
Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ không?  

Phong cách lịch lãm, tao nhã của Uy Viễn tướng công đã làm cho các chàng trai một thời vẫy vùng ngang dọc như Cát say mê ngưỡng mộ “chơi cho lịch mới là chơi”. Con tàu mất neo năm xưa đã ghi dấu cho Cát thật nhiều kỷ niệm. Cô bé Nguyễn thị Hậu Giang được sinh ra trên tàu đến nay đã trưởng thành 34 tuổi rồi. Cát hạnh phúc tràn đầy khi được sum họp với đứa con gái yêu xinh đẹp trên đất Úc, cũng tuổi sấp sỉ với cô gái Hậu Giang kia. Được tin, bạn bè cùng khóa kéo đến chúc mừng, trầm trồ thán phục vì thấy bạn mình trẻ tuổi tài cao, lên chức ông ngoại tự bao giờ, qua mặt bạn bè chẳng thèm bóp còi chi cả!

Bây giờ, Cát cũng như các bạn cùng khóa Đệ Nhất Song Ngư đã đến tuổi về chiều, sâp sỉ sáu mươi. Kinh nghiệm hải nghiệp năm xưa đã cho anh cơ hội lái thuyền vượt biển đến bến bờ tự do, ổn định cuộc sống mới. Hàng ngày đi làm trả nợ áo cơm, cuối tuần gặp gỡ bạn bè tiêu khiển dăm bảy lon bia láo lếu, tối về thỉnh thoảng hát bài Hoa Biển để dỗ dành cô vợ Bắc kỳ nho nhỏ như niệm một câu thần chú: “Em ơi, giận hờn xin như hoa sóng tan trong đại dương…”.

Trung tuần tháng 5/1999 vừa qua, Cát dự tiệc sinh nhật lục tuần của người bạn cùng khóa Nguyễn Khương Ninh. Gia đình Cát di chung xe với vợ chồng người bạn cùng quê, cùng họ và cùng màu cờ sắc áo, chuyện trò vui vẻ. Từ ngoại ô vùng Đông Nam Melbourne, xe chạy vào trung tâm thành phố trước khi tiến vào xa lộ Westgate. Khi xe đang chạy dọc bờ sông Yarra, cạnh vườn Bách thảo Hoàng Gia, một trời thu tuyệt đẹp hiện ra trước mắt Cát. Hai bên đường là những thảm cỏ xanh rì, với những hàng cây cổ thụ đầy lá úa vàng thỉnh thoảng rơi rụng theo từng cơn gió thoảng, trước mặt là trung tâm thành phố với các tòa biệt thự nguy nga xinh đẹp. Bất giác Cát thấy lòng mình ngất ngây rung động, nhớ đến mùa thu của Lưu Trọng Lư bên quê nhà, cất tiếng ngâm:

         Em không nghe rừng thu 
        
Lá thu kêu xào xạc 
        
Con nai vàng ngơ ngác 
        
Đạp trên lá vàng khô.  

Người bạn của Cát đang lái xe bên cạnh, cũng hồn thơ lai láng, cất tiếng ngâm:

         Ta sống mãi trong niềm thương nỗi nhớ 
        
Thuở tung hoành hiển hách những ngày xưa  

Cát sững sờ quay lại, ngạc nhiên nhìn bạn mình chăm chú. Mùa thu có lá vàng rơi, có con nai vàng ngơ ngác chứ mùa thu làm gì có “Hổ nhớ rừng’ với một thời oanh liệt của Thế Lữ ở đây? Nhìn bạn mình lái xe với hai cánh tay lom khom anh chợt hiểu. Cát bật cười, vừa nhớ đến mấy vần thơ cay đắng của Thanh Nam trong bài “Thơ Xuân Đất Khách” diễn tả tâm sự u buồn của một chiến binh bại trận, ủ rũ gục đầu hồi tưởng đến Tháng Tư Đen:

         Một năm người có mười hai tháng 
        
Ta trọn năm dài một tháng Tư.  

Tâm sự của bạn anh nào có khác gì Hà Huyền Chi lúc nào cũng tiếc nuối một thuở hào hùng khi còn khoác áo hoa dù mũ đỏ:

         Áo hoa trả lại núi ngàn 
     
Nỗi đau chiến bại chung mang suốt đời.  

Đón Tết năm 2000, bước sang thế kỷ 21, Cát được bạn bè trong khóa báo tin Đệ Nhất Song Ngư sẽ long trọng tổ chức ngày họp khóa tại California, kỷ niệm 38 năm ngày nhập trường. Lòng Cát nôn nao, bồi hồi chờ mong ngày tái ngộ bạn bè cũ năm xưa. Những cánh hải âu lưu lạc khắp bốn phương trời sau ngày tan đàn sẩy nghé. Cát còn nhớ rõ 100 khuôn mặt của những chàng trai anh tuấn năm nào, cùng nhau gian khổ học tập gần hai năm dưới mái quân trường, cùng về thủ đô tham dự diễn hành nhân ngày Quốc khánh 26-10-1963. Những chàng trai trong lứa tuổi thanh xuân đó, có người nay đã trở thành ông già da mồi tóc bạc “nước thời gian gội tóc trắng phau phau” sẽ gặp lại nhau rộn rã tiếng nói cười không dứt. Còn gì quý hơn trên đời tình bạn thắm thiết gần bốn mươi năm trường, trải qua bao vinh nhục thăng trầm, được gặp lại nhau, nghe và kể cho nhau bao chuyện bể dâu sau nhiều năm dài xa cách, để thấy đời mình được một lần trẻ lại như Xuân Diệu của thuở nào:

Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua  
Xuân còn non nghĩa là xuân sắp già  
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời quá chật                
Không cho hoài tuổi trẻ với thời gian            
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn  
Nếu tuổi trẻ không một lần thắm lại…
 

Từ phương trời Úc châu của miền Nam bán cầu, Lê Văn Cát với biệt danh ‘Cát Bụi’ chờ mong từng ngày gặp lại người bạn thân chung tàu cũ, nay đã trở thành nhà văn với cái tên mang vẻ tu hành thoát tục: TRẦN QUÁN NIỆM “Mùi thiền đã bén muối dưa, màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng”. Cát sẽ gặp thêm người bạn hiền, thủ khoa Trần Trọng Ngà một đời vất vả bôn ba trên bước đường tranh đấu, phục hưng cho một nước Việt Nam tự do. Cát sẽ được gặp lại chàng nhạc sĩ tài hoa chung tình Trường Sa NGUYỄN THÌN với những nhạc phẩm bất hủ mà cuộc đời quá nhiều khổ đau lận đận: trở về trên con tàu Việt Nam Thương Tín bị tù tội, vượt biên không thoát bị tù tiếp, ra tù vượt biển cuối mùa thanh lọc, định cư tận miền Canada giá rét, giờ ôm nỗi sầu cô đơn vì góa vợ. Cát sẽ cùng các bạn ôn lại những kỷ niệm thân yêu ngày cũ, cùng bùi ngùi nhắc đến các bạn bè đã nằm xuống cho quê hương như NGỤY VĂN THÀ trong trận hải chiến Hoàng Sa.

VŨ NGỌC VĂN

(Xuân Canh Thìn – 2000)

Trở lại