BẠN XƯA TÌNH CŨ VŨ NGỌC VĂN |
-Tatic…tatic…tatic…tatic…tatic… Tiếng
còi nhiệm sở vận chuyển vang lên dồn
dập. Thủy thủ đoàn Hải Vận Hạm
Hậu Giang HQ-406 vội vàng đi tới nhiệm
sở của mình. Lúc đó vào khoảng 2 giờ
chiều 23 tháng Chạp 1966 âm lịch, ngày đưa Ông
Táo về trời, chiến hạm đang cặp
cầu Tự Do bên tả hạm và nước ròng
đang rút. Từ
phòng ngủ sĩ quan, Hải Quân Trung úy Lê Văn Cát và
người bạn đồng khóa Trần Văn Tâm
với quân phục chỉnh tề, vội leo lên boong tàu
rồi tách ra đi về hai hướng. Trung úy Tâm là
sĩ quan đệ tam chỉ huy sân mũi, còn Cát sĩ
quan đệ tứ trách nhiệm sân lái. Trên đài
chỉ huy, Hạm trưởng là Hải Quân Đại
úy Trần Văn Lâm với biệt danh “Lâm Đen”,
Hạm phó là Hải Quân Trung úy Phạm Trọng
Quỳnh đã có mặt, đặc biệt có thêm
vị khách danh dự là phu nhân Hạm trưởng theo
tàu ra thăm hải đảo Côn sơn nhân kỳ
nghỉ Tết. Chiến hạm được lệnh
chuyển vận toán công chức và một đại
đội Địa phương quân thuyên chuyển ra
hải đảo để thay thế đại đội
cũ trở về đất liền. Suốt buổi
trưa nay, họ đã ồn ào lũ lượt
xuống tàu cùng vợ con và đủ loại hành lý
cồng kềnh, gánh theo các lồng tre gà vịt, heo con
để trú đóng và sinh sống nơi hải đảo.
Cát
đeo mũ nghe và ống điện thoại để
nhận lệnh và báo cáo với đài chỉ huy. Năm
phút sau, tất cả mọi nhiệm sở từ phòng
lái, phòng máy, sân trước, sân giữa và sân sau báo
cáo sẵn sàng. Sân giữa được lệnh cho nhân
viên kéo hạm kiều lên tàu. Cát
nghe tiếng Hạm trưởng dõng dạc ra lệnh
cho phòng lái: Tiếng
báo cáo đáp lại từ các sân trên boong tàu: Máy
tàu chuyển động ầm ầm, thân tàu rung lên.
Chân vịt bắt đầu quạt nước
tống về sau. Một lúc sau, con tàu mới từ
từ nhích lên phía trước, cạ mũi vào
cầu tàu và lái tàu từ từ tách ra. -
Hai
máy tiến hai. Tay lái ba mươi bên trái. Con
tàu rú lên tăng tốc độ. Mãi vài phút sau, lái tàu
mới tách ra khỏi cầu tàu và giây số 2 đã căng
thì Hạm trưởng cho lệnh bớt máy. -
Hai
máy tiến một. Nhờ
xuôi nước chiến hạm nhẹ nhàng lùi lại,
giây số 2 vừa chùng xuống thì Hạm trưởng
ra lệnh: -
Tháo
giây số 2. Chỉ
một phút sau, tiếng báo cáo của Trung úy Tâm từ
sân mũi vang lên: -
Giây
cuối cùng đã về tàu. Trên
đài chỉ huy, viên Trung sĩ Giám lộ cầm tu huýt
thổi một hồi còi, báo hiệu chiến hạm
đã thật sự rời bến. Lập tức
quốc kỳ nơi sân lái của Cát được
hạ xuống, đồng thời quốc kỳ và 4 lá
cờ danh hiệu chiến hạm được kéo lên
trên cột cờ chính. Hạm
trưởng bận rộn liên tục lái tàu đi ngược
nước tiến lên hướng thượng dòng,
len lỏi qua các chiến hạm và thương
thuyền đang cột phao giữa dòng sông Sài Gòn. Qua
khỏi cầu dầu, đến khúc sông rộng, ông
cho tàu quay mũi và xuôi dòng rời bến Sài Gòn.
Quang
cảnh thủ đô trong những ngày cuối năm
thật tưng bừng, náo nhiệt. Dân chúng đổ
xô đi mua sắm Tết. Cát nhìn vào trong bờ, đại
lộ Nguyễn Huệ thênh thang, thẳng tắp đến
tòa Đô chánh, giờ đã chật cứng người
qua lại, một thoáng bâng khuâng len đến hồn
anh. Một chú thủy thủ vận chuyển vừa
xếp dọn giây cột tàu lại cho ngay ngắn,
vừa nhún nhảy hát bài ‘Tình
Yêu Thủy Thủ’: “Chiều
nay ra khơi thoáng thấy mắt em nhuốm buồn.
Đời anh là gió sương, anh đi khắp muôn phương…”.
Cát mỉm cười, bài ca diễn tả thật
đúng tâm trạng của anh trong chuyến hải hành
cuối năm này. Mới thuyên chuyển xuống tàu
được vài tháng, anh được gặp
lại người bạn đồng khóa, cùng ở
chung phòng suốt gần hai năm của thời sinh viên
sĩ quan tại quân trường Nha Trang. Chiến
hạm đã đưa Cát đi khắp miền đất
nước, từ Đà Nẵng đến tận
hải đảo Phú Quốc xa xôi, cặp bến
nhiều thành phố, ghi dấu cho anh thật nhiều
kỷ niệm. Là sĩ quan trẻ, độc thân Cát
đã thỏa mộng hải hồ của một đời
trai ngang dọc. Trong những lần tàu cặp bến,
đôi khi anh cảm thấy hồn mình chơi vơi,
đắm đuối vì sóng mắt của giai nhân,
nhất là ở đất thành đô hoa lệ. Anh còn
nhớ rõ đêm dạ vũ hôm nào trong ngày họp khóa
Đệ Nhất Song Ngư, hồn anh đã say
chếnh choáng như trong mấy vần thơ của
cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương:
Bóng
hình tha thướt Tiếng
còi giải tán nhiệm sở vận chuyển và
gọi chi đội 3 đi phiên làm Cát chợt
tỉnh. Chiến hạm đã qua khỏi thương
cảng Sài Gòn, đang gia tăng tốc độ để
kịp ra cửa biển Vũng Tàu trước lúc hoàng
hôn. Là
sĩ quan trưởng phiên chi đội 3, Cát cho toán
nhân viên giải tán vả rảo bước leo lên
đài chỉ huy nhận nhiệm vụ. Anh đưa
tay chào Hạm trưởng. Hạm trưởng vui
vẻ chào đáp lại, ông rất mực ga lăng vì
có phu nhân đứng cạnh. Niên trưởng
Quỳnh vỗ vai bàn giao phiên trực cho anh rồi
lặng lẽ rút lui. Hạm trưởng vẫn
trực tiếp lái tàu qua Nhà Bè theo hướng sông Lòng
Tàu để ra biển. Con tàu tiến rất nhanh
nhờ xuôi dòng nước, nhưng khó khăn giữ
cho chiến hạm đi đúng hướng. Khi
Cát vừa mãn phiên trực lúc 6 giờ chiều,
chiến hạm đã ra tới cửa biển. Cát nhìn
bầu trời đầy mây u ám, mặt trời
trốn biệt từ lâu, từng luồng gió thổi
mạnh, xa xa ngoài khơi nhấp nhô hoa sóng giăng
đầy báo trước chuyến ra khơi đầy
sóng gió hãi hùng. Hạm trưởng vội vã
đưa bà xã xuống phòng tránh sóng rồi vội vàng
trở lên đài chỉ huy để đưa
chiến hạm ra khơi vì Vũng Tàu vẫn còn xác tàu
chìm của Nhật để lại. Bàn
giao phiên trực hải hành cho chi đội 1, Cát
xuống phòng ăn sĩ quan dùng cơm chiều. Anh
vội vàng ăn cho xong bữa vì con tàu đã bắt
đầu lắc lư, chao đảo, mọi vật
trên bàn xê dịch theo từng cơn sóng lắc.
Trở về phòng ngủ, ngồi tán gẫu với bàn
bè một lát, anh leo lên giường cố dỗ
giấc ngủ vài tiếng để nửa đêm
thức dậy đi “ca cách
mạng”. Nằm ngủ trên giường Cát
cảm thấy đôi khi mình bị ném tung văng
xuống sàn tàu. Gần
12 giờ đêm, Cát nai nịt áo mũ đi mưa
cẩn thận, lảo đảo từng bước
leo lên đài chỉ huy nhận phiên hải hành từ
chi đội 2. Liếc nhìn bạn mình mặt mũi bơ
phờ hốc hác vì vật lộn với con tàu trong cơn
biển động suốt 4 giờ qua, anh lắc đầu
ngao ngán. Chiến hạm đang ở giữa đường
Vũng Tàu – Côn Sơn, hải hành khá nhàn hạ,
định vị trí chiến hạm bằng radar, đo
khoảng cách con tàu tới đỉnh núi Côn Sơn
mỗi 15 phút. Bên ngoài bầu trời đen kịt, mưa
gió sấm chớp đầy trời. Con tàu cứ
lầm lũi đâm sầm vào từng ngọn sóng cao
hung hãn. Chiến hạm khi thì bị nhấc lên, chơi
vơi rồi đập mạnh lườn tàu
xuống mặt biển làm cho con tàu rung chuyển
dữ dội, kinh hoàng như muốn bị gẫy làm
đôi. Đài chỉ huy nằm ở trên cao, lệch
một bên phía hữu hạm, thỉnh thoảng bị
những con sóng ngang xô tới, tròng trành, chao qua đảo
lại như muốn lật úp. Ai nấy phải bám
cứng vào thành tàu, sẩy tay là như bị ném tung
xuống biển. Cát cắn răng chịu đựng,
ruột gan nhộn nhạo từng cơn, nhưng vì trách
nhiệm nặng nề, anh vẫn cố gắng đứng
vững, nép vào thành tàu cho đỡ ướt át,
thỉnh thoảng dùng ống nhòm quan sát mặt
biển chung quanh. Được
chừng nửa phiên, Cát chỉ thị cho viên sĩ
quan phụ tá khóa 14 đi tuần phòng tai một vòng
chiến hạm. Một lúc sau, viên Thiếu úy đó
chạy lên báo cáo cho Cát biết có một vợ lính
Địa phương quân đang bị đau bụng
đẻ vì bị cơn say sóng dữ dội ảnh hưởng
đến bào thai. Cát vội bảo anh ta đi gọi
các y tá trên tàu thức dậy để làm công tác
hộ sinh bất đắc dĩ cho chị ta. Một
giờ sau, nhờ sự tận tụy giỏi tay
nghề của các y tá, Cát được cho biết
chị ấy đã hạ sinh một bé gái an lành, hôm
sau chiến hạm cấp giấy khai sinh đặt tên
là NGUYỄN THỊ HẬU GIANG làm kỷ niệm. Một
thủy thủ trẻ vừa ói, vừa ôm hải bàn
điện theo dõi hướng đi chiến hạm,
vừa càu nhàu với Cát: -
Tàu
mình có đàn bà đẻ xui lắm, ngóc đầu không
lên đó trung úy! Dù
đang mệt nhừ vì say sóng, Cát chỉ mỉm cười
với anh ta, nhướng mắt ra vẻ không tin. Mãn
phiên trực lúc 4 giờ sáng, mặt biển đột
nhiên dịu lại, giông tố đã qua mọi người
như được hồi sinh, chiến hạm cũng
gần đến Côn Sơn. Bàn giao phiên trực và báo
cáo chuyện vừa qua cho Hạm phó, Cát xuống phòng
ngủ chìm vào giấc ngủ mệt nhoài.
Chuyến
hải hành trở về khá êm ả, chiến hạm
cặp bến Sài Gòn nghỉ ngơi ăn Tết vài ngày.
Cát được hạm trưởng ưu ái thưởng
cho mấy ngày phép về sum họp với gia đình
trong dịp Tết. Đấy cũng là mấy ngày phép
hiếm hoi quý báu đối với anh từ khi
nhập ngũ được về nhà ăn tết cùng
cha mẹ và đàn em nhỏ. Khi
Cát mãn phép trở về, chiến hạm nhận
lệnh chuyển vận một tiểu đoàn Bộ
binh ra Qui Nhơn hành quân. Hạm trưởng hôm nay cáu
gắt khác thường, ai nấy đều ngạc
nhiên e dè né tránh. Vài nhân viên thầm thì thắc
mắc: “Có
lẽ đêm qua về nhà ổng bị bà xã không cho nên
sáng nay sao mà khó khăn thế!”.
Vì
mới đi phép về, Cát gõ cửa phòng Hạm trưởng
chào trình diện cấp chỉ huy. Nhìn gương
mặt kém vui của ông, anh ngạc nhiên hỏi: -
Có
chuyện gì vậy Commandant? Hạm
trưởng Lâm lúc đó mới thở ra tâm sự: -
Xui
quá, bà xã moa sau chuyến đi Côn sơn về, bả
vừa bị sẩy thai! Cát
chợt hiểu, pha trò an ủi ông: -
Có
gì đâu mà Hạm trưởng phải lo. Sẩy
kỳ này thì còn kỳ khác, đời còn dài mà
Commandant! Chuyến
hải hành ra Qui Nhơn vô cùng vất vả vì biển
động mạnh. Chiến hạm chạy ngược
gió, ngược sóng ba ngày mới tới nơi.
Mọi người quá giang trên tàu bị say sóng ói
mửa liên hồi nằm rũ liệt khắp nơi.
Khi tàu tiến vào vịnh Qui Nhơn ủi bãi thì
hải cảng tấp nập các chiến hạm Hoa
Kỳ và Đại Hàn ở đó rồi. Lúc ấy vào
đầu năm 1967, thời điểm chiến tranh
Việt Nam leo thang mãnh liệt, quân lực Đồng
Minh lũ lượt đổ bộ vào tham chiến nên
các hải cảng trên quê hương đều có
sự hiện diện của tàu bè ngoại quốc. Các
chiến hạm Mỹ thấy tàu Việt Nam muốn vào
ủi bãi bên cạnh, viện lý do an toàn nên đánh
đèn hiệu đuổi ra. Hạm trưởng Lâm
giận lắm, bảo tàu Mỹ láo lếu vì chiến
hạm Việt Nam có quyền cặp cầu hoặc
ủi bãi bất cứ hải cảng nào trên lãnh
thổ chủ quyền của mình, không cần xin phép
chiến hạm ngoại quốc. Ông lờ đi,
tiếp tục cho tàu tiến vào ủi bãi, vì thủy
thủ đoàn và đơn vị bạn quá bơ
phờ hốc hác. Chiến hạm Mỹ phản đối
ồn ào, nhưng cuối cùng đành chào thua. Hôm
sau, chiến hạm được lệnh nhổ neo
rời bến. Cát trách nhiệm sân lái với trách
nhiệm chính là kéo neo lái lên tàu. Chiến hạm đang
lùi dần, đồng lúc với giây neo đang
được máy kéo neo quay dần lên. Bất ngờ
neo bị kẹt cứng, giây neo căng cứng không kéo
lên được, rồi neo bị đứt nằm
luôn dưới đáy biển. Chiến hạm đang
lùi bỗng nhiên bị lệch hướng, bị sóng
đánh xô giạt, ngoằn ngoèo lùi ra, suýt va chạm vào
các tàu khác. Hạm trưởng ngoài mặt điềm
tĩnh điều khiển con tàu trong cơn nguy
cấp, trong lòng bối rối tê tái cõi lòng. Cái neo trên
tàu gắn liền với chức vụ hạm trưởng,
mất neo rồi ông biết ăn nói với thượng
cấp làm sao đây? Khi
tàu về lại Sài Gòn, ông lặng lẽ không phúc trình
chuyện mất neo lên Hạm Đội. Ông đi cùng
với Quản Nội Trưởng lên Hải Quân Công
Xưởng lân la đến sân để neo cạnh
ụ lớn tìm xem neo lái của loại Hải Vận
Hạm để ở đâu? Sau đó ông mượn
bạn bè cùng khóa một chiếc xe Dodge, chờ đêm
tối chở một toán nhân viên đi trộm neo
đem về tàu. Thủy thủ đoàn ôm bụng nín
cười, thầm phục cấp chỉ huy mưu lược. Sau
đó ít lâu, chiến hạm lên đường
xuất ngoại sang Thái Lan mua gỗ đem về cho
Hải Quân Công Xưởng đóng ghe Yabuta trang bị
cho các Duyên Đoàn. Thái Lan bấy giờ cũng
giống như nước ta là quốc gia đang phát
triển, nhưng dân chúng được hưởng
cảnh thanh bình không bị chiến tranh tàn phá. Trong
mấy ngày ở hải cảng Vọng Các, chiến
hạm của Cát bị tai họa liên tiếp. Một
thiếu úy bị tử nạn vì đạn lạc trên
tàu và neo lái bị mất một lần nữa khi tàu
rời bến. Trở về Sài Gòn, Hạm Trưởng
Lâm quá chán nản, buồn phiền vì các rủi ro liên
tiếp nên đã đệ đơn từ chức
Hạm trưởng để phục vụ tại các
đơn vị bờ, chấm dứt cuộc đời
hải nghiệp. Toàn thể thủy thủ đoàn
đều bùi ngùi lưu luyến, kính phục và thương
cảm ông. Giờ
đây mỗi khi nhắc tới con tàu cũ, dù đã
ba mươi năm qua, lòng Cát lại đầy vơi
bao nỗi niềm thương nhớ. Hạm Trưởng
Trần Văn Lâm mà thuộc cấp một lòng thương
yêu, kính phục đã thành người thiên cổ
trong một chuyến vượt biển năm 1987. Giai
thoại con tàu mất neo hai lần của ông trong
Hải Quân ít ai được biết, nhắc nhở
để tiếc thương ông. Con tàu Hậu Giang
HQ-406 ở lại với quê hương sau ngày quốc
nạn 30-04-1975. Hạm phó Phạm Trọng Quỳnh và
sĩ quan đệ tam Trần Văn Tâm may mắn theo
đoàn tàu di tản sang định cư ở Hoa
Kỳ. Riêng Cát hứng chịu bao cay đắng
nhục nhằn khi làm thân chiến bại trong cuộc
bể dâu: mười ba năm lính, chin năm tù
cộng thêm đến nay tròn mười lăm năm
lưu lạc trên đất Úc. Thỉnh thoảng liên
lạc với Tâm, người bạn thân cùng khóa năm
xưa, gợi nhớ cho Cát bao kỷ niệm đáng yêu
của một thời sinh viên sĩ quan và những tháng
ngày lênh đênh trên con tàu Hậu Giang thân thương.
Một lần trong tiệc vui cùng bạn bè áo
trắng, kỷ niệm ngày nào sống lại trong
hồn anh, Cát cảm thấy hồn thơ lai láng,
dệt mấy vần thơ chuyển lên mạng
gửi thăm bạn hiền:
Còn đâu mai
cũ trường xưa Có
lẽ khi đọc thơ, bạn anh sẽ cảm
động bồi hồi. Biết đâu trong buổi sáng
mùa Đông cuối tuần ở tiểu bang New Jersey
lạnh giá bạn anh ngồi nhâm nhi tách trà nóng, bâng
khuâng nhìn tuyết rơi bên ngoài mà mơ màng nhớ
lại khung trời kỷ niệm nơi miền thùy dương
cát trắng:
Thoáng
hiện em về trong đáy cốc Thời
gian vùn vụt trôi qua,từ ngày ra trường đến
nay đã hơn 36 mùa lá rụng. Dù cho dâu bể
cuộc đời đã chia lìa mỗi người
mỗi hướng, hẹn ước tan tành nhưng
vẫn còn tơ vương tiếc nuối:
Xa nhau lâu quá là lâu Bạn
bè cùng khóa với nhau, dù cho lâu ngày không gặp nhưng
dễ hiểu thấu lòng nhau. Cát gợi nhớ kỷ
niệm ‘một đêm mơ’ của thời sinh viên
sĩ quan hào hùng thì bạn anh hồi âm nhắc
nhở ‘một đêm say’ của thuở chung một
chiến hạm. Trong đêm dạ vũ họp mặt
khóa 12, Cát đã say túy lúy quên đường về vì
men tình ngây ngất:
Âm ba gờn gợn nhỏ Khi
say quên cả đát trời, mọi vật chung quanh Cát
mơ hồ chỉ nhớ “ta
quá say rồi, sắc ngã màu trôi”
để rồi như có ai nhắc nhở bên tai
giai thoại lý thú của cụ Nguyễn Công Trứ ngày
xưa:
Giang
sơn một gánh giữa đồng Phong
cách lịch lãm, tao nhã của Uy Viễn tướng công
đã làm cho các chàng trai một thời vẫy vùng
ngang dọc như Cát say mê ngưỡng mộ “chơi
cho lịch mới là chơi”.
Con tàu mất neo năm xưa đã ghi dấu cho Cát
thật nhiều kỷ niệm. Cô bé Nguyễn thị
Hậu Giang được sinh ra trên tàu đến nay
đã trưởng thành 34 tuổi rồi. Cát hạnh
phúc tràn đầy khi được sum họp với
đứa con gái yêu xinh đẹp trên đất Úc, cũng
tuổi sấp sỉ với cô gái Hậu Giang kia.
Được tin, bạn bè cùng khóa kéo đến chúc
mừng, trầm trồ thán phục vì thấy bạn mình
trẻ tuổi tài cao, lên chức ông ngoại tự bao
giờ, qua mặt bạn bè chẳng thèm bóp còi chi
cả! Bây
giờ, Cát cũng như các bạn cùng khóa Đệ
Nhất Song Ngư đã đến tuổi về
chiều, sâp sỉ sáu mươi. Kinh nghiệm hải
nghiệp năm xưa đã cho anh cơ hội lái
thuyền vượt biển đến bến bờ
tự do, ổn định cuộc sống mới. Hàng
ngày đi làm trả nợ áo cơm, cuối tuần
gặp gỡ bạn bè tiêu khiển dăm bảy lon
bia láo lếu, tối về thỉnh thoảng hát bài
Hoa Biển để dỗ dành cô vợ Bắc kỳ
nho nhỏ như niệm một câu thần chú: “Em ơi, giận hờn xin như
hoa sóng tan trong đại dương…”. Trung
tuần tháng 5/1999 vừa qua, Cát dự tiệc sinh
nhật lục tuần của người bạn cùng
khóa Nguyễn Khương Ninh. Gia đình Cát di chung xe
với vợ chồng người bạn cùng quê, cùng
họ và cùng màu cờ sắc áo, chuyện trò vui
vẻ. Từ ngoại ô vùng Đông Nam Melbourne, xe
chạy vào trung tâm thành phố trước khi tiến
vào xa lộ Westgate. Khi xe đang chạy dọc bờ sông
Yarra, cạnh vườn Bách thảo Hoàng Gia, một
trời thu tuyệt đẹp hiện ra trước
mắt Cát. Hai bên đường là những thảm
cỏ xanh rì, với những hàng cây cổ thụ
đầy lá úa vàng thỉnh thoảng rơi rụng
theo từng cơn gió thoảng, trước mặt là
trung tâm thành phố với các tòa biệt thự nguy
nga xinh đẹp. Bất giác Cát thấy lòng mình
ngất ngây rung động, nhớ đến mùa thu
của Lưu Trọng Lư bên quê nhà, cất tiếng
ngâm:
Em
không nghe rừng thu Người
bạn của Cát đang lái xe bên cạnh, cũng
hồn thơ lai láng, cất tiếng ngâm:
Ta sống mãi trong niềm thương nỗi
nhớ Cát
sững sờ quay lại, ngạc nhiên nhìn bạn mình
chăm chú. Mùa thu có lá vàng rơi, có con nai vàng ngơ
ngác chứ mùa thu làm gì có “Hổ nhớ rừng’
với một thời oanh liệt của Thế Lữ
ở đây? Nhìn bạn mình lái xe với hai cánh tay lom
khom anh chợt hiểu. Cát bật cười, vừa
nhớ đến mấy vần thơ cay đắng
của Thanh Nam trong bài “Thơ Xuân Đất Khách”
diễn tả tâm sự u buồn của một
chiến binh bại trận, ủ rũ gục đầu
hồi tưởng đến Tháng Tư Đen:
Một
năm người có mười hai tháng Tâm
sự của bạn anh nào có khác gì Hà Huyền Chi lúc
nào cũng tiếc nuối một thuở hào hùng khi còn
khoác áo hoa dù mũ đỏ:
Áo
hoa trả lại núi ngàn Đón
Tết năm 2000, bước sang thế kỷ 21, Cát
được bạn bè trong khóa báo tin Đệ
Nhất Song Ngư sẽ long trọng tổ chức ngày
họp khóa tại California, kỷ niệm 38 năm ngày
nhập trường. Lòng Cát nôn nao, bồi hồi
chờ mong ngày tái ngộ bạn bè cũ năm xưa.
Những cánh hải âu lưu lạc khắp bốn phương
trời sau ngày tan đàn sẩy nghé. Cát còn nhớ rõ
100 khuôn mặt của những chàng trai anh tuấn năm
nào, cùng nhau gian khổ học tập gần hai năm dưới
mái quân trường, cùng về thủ đô tham
dự diễn hành nhân ngày Quốc khánh 26-10-1963.
Những chàng trai trong lứa tuổi thanh xuân đó, có
người nay đã trở thành ông già da mồi tóc
bạc “nước
thời gian gội tóc trắng phau phau” sẽ
gặp lại nhau rộn rã tiếng nói cười không
dứt. Còn gì quý hơn trên đời tình bạn
thắm thiết gần bốn mươi năm trường,
trải qua bao vinh nhục thăng trầm, được
gặp lại nhau, nghe và kể cho nhau bao chuyện
bể dâu sau nhiều năm dài xa cách, để
thấy đời mình được một lần
trẻ lại như Xuân Diệu của thuở nào:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Từ
phương trời Úc châu của miền Nam bán
cầu, Lê Văn Cát với biệt danh ‘Cát Bụi’
chờ mong từng ngày gặp lại người
bạn thân chung tàu cũ, nay đã trở thành nhà văn
với cái tên mang vẻ tu hành thoát tục: TRẦN
QUÁN NIỆM “Mùi thiền đã bén muối dưa, màu
thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng”.
Cát sẽ gặp thêm người bạn hiền,
thủ khoa Trần Trọng Ngà một đời
vất vả bôn ba trên bước đường tranh
đấu, phục hưng cho một nước
Việt Nam tự do. Cát sẽ được gặp
lại chàng nhạc sĩ tài hoa chung tình Trường
Sa NGUYỄN THÌN với những nhạc phẩm bất
hủ mà cuộc đời quá nhiều khổ đau
lận đận: trở về trên con tàu Việt Nam
Thương Tín bị tù tội, vượt biên không
thoát bị tù tiếp, ra tù vượt biển cuối
mùa thanh lọc, định cư tận miền Canada giá
rét, giờ ôm nỗi sầu cô đơn vì góa vợ.
Cát sẽ cùng các bạn ôn lại những kỷ
niệm thân yêu ngày cũ, cùng bùi ngùi nhắc đến
các bạn bè đã nằm xuống cho quê hương
như NGỤY VĂN THÀ trong trận hải chiến Hoàng
Sa. VŨ
NGỌC VĂN (Xuân Canh Thìn – 2000) |