Buồn
đến kiếp nào nguôi! Kim Thanh |
Quận
Hoài Nhơn, 1969, một năm sau Tết Mậu Thân. Tôi
nhận lệnh dẫn một nửa Đại đội
202 CTCT, từ Ba Gi (Qui Nhơn), đại bản doanh
của Sư Đoàn 22BB, ra tăng phái cho Trung đoàn
40 –lúc ấy đóng tại Đệ Đức, trên
đường Bồng Sơn và Tam Quan. Nửa đại
đội được chia làm hai toán. Mỗi toán
gồm trên dưới mười người do
một chuẩn úy chỉ huy, hằng ngày, theo lịch
tŕnh, đi xuống các xă ấp thuộc quận,
hoặc bằng xe dodge cơ hữu, hoặc thỉnh
thoảng, v́ lư do an ninh, bằng trực thăng của
Sư đoàn I Không Kỵ (1st Cav) Hoa Kỳ, để làm
công tác, một cách độc lập, nhưng đôi
khi phối hợp với một toán Dân sự vụ
Mỹ. Xuống những xă, ấp xa xôi, hai toán chúng tôi
phải tự bảo vệ lấy, và v́ thế
được trang bị súng ống tương đối
đầy đủ, và các toán viên thường là lính
tác chiến lâu năm hoặc bị thương đổi
về, có nhiều kinh nghiệm chiến trường.
Ít khi phải nhờ đến sự trợ giúp
của những đơn vị địa phương
quân hay nghĩa quân.
Tôi nhớ
buổi sáng hôm đó là ngày 25 tháng 12, đúng lễ
Giáng Sinh. Chuẩn úy Hoàng, một trưởng toán,
bị bệnh. Tôi phải đi thay, dẫn toán của
anh đến ấp Vĩnh Phụng, xă Hoài Xuân
–nằm dọc, cũng như những xă khác của
quận Hoài Nhơn, trên hai bờ sông Lại. Không khí
cuối năm vắng ngắt, đơn điệu,
đến độ nhàm chán. Tại những vùng quê
hẻo lánh Việt Nam thời ấy không có nhà
thờ, không tổ chức mừng Giáng Sinh rầm
rộ như dân thành thị, Sài G̣n, hay Nha Trang của
tôi, chẳng hạn, dù có đạo hay không. Không có
tiếng chuông giáo đường ngân nga, rộn ră. Không
có, như bây giờ, cây sapin giăng đèn lấp lánh,
và ông già Nô-En đứng trước cửa siêu
thị, rung chuông leng keng, chúc lễ và phát quà cho
trẻ em. Chỉ có một ngôi nhà thờ duy nhất
tại thị trấn Bồng Sơn cho toàn quận Hoài
Nhơn, và dân Công giáo, từ các xă ấp, phải lên
đó để dự lễ mỗi sáng Chúa Nhật. Chúng tôi
đến Vĩnh Phụng làm công tác Dân sự vụ
và Tâm lư chiến như thường lệ. Nghĩa là
bắc loa kêu gọi dân trong ấp đến tập
họp trên một khoảng đất trống,
rộng, và chung quanh có bóng cây xanh mát, gần trụ
sở ấp, rất an toàn. Tại đây, họ
được y tá khám bệnh thông thường, phát
thuốc tại chỗ, hoặc được xe
của toán chở về bệnh xá Bồng Sơn trong
trường hợp bệnh nặng, cấp cứu…
Hay được nghe một toán viên nói chuyện,
nhắc nhở: đề cao chính nghĩa quốc gia, kêu
gọi đồng bào đừng bỏ xóm làng, “lên
núi thoát ly” theo Việt Cộng, đừng “ăn cơm
quốc gia thờ ma Cộng sản” v.v… Các em nhỏ
được phát kẹo bánh, tập vở, bút
mực, và sau đó được tập bài quốc
ca VNCH hay những bài hát quen thuộc, ví dụ, tôi
nhớ, Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời…
Việt Nam, nước tôi…hay Đây Bạch Đằng
giang, sông hùng dũng của ṇi giống Tiên Rồng… Làm xong
bấy nhiêu công việc th́ đă hết buổi sáng.
Tôi cho cả toán nghỉ ngơi, ăn trưa và tự
do đi lại trong ấp, nhưng không quá xa, chờ
đến giờ trở về Đệ Đức. C̣n
tôi và một vài anh lính trải poncho nằm trên
cỏ, bên gốc cây, ngước nh́n ánh nắng
lấp lánh chiếu qua ṿm lá và nghe tiếng chim hót líu
lo trên cành. Một số toán viên, c̣n trẻ, xin đi
vào nhà dân, để thăm hỏi các cụ già và, tôi
đoán, để nhân dịp, tán gẫu với các cô
mơn mởn đào tơ, má hồng môi thắm
tự nhiên. Thực vậy, theo cặp mắt cá nhân,
chủ quan, của tôi, gái Bồng Sơn và Tam Quan
nổi tiếng đẹp nhất vùng B́nh Định,
nếu không muốn nói cả Vùng II Chiến Thuật. 2. Tôi đang lim dim mắt, miên man suy nghĩ
chuyện đời, và một anh lính đang nghêu ngao
một bài vọng cổ, th́ bỗng một tiếng ḿn
nổ vang, từ bờ ruộng, không xa chỗ tôi
nằm bao nhiêu. Giật ḿnh chồm dậy, chụp
vội cây súng, và thấy một làn khói đen tỏa
bay trong không gian. Nghe tiếng kêu la của vài em nhỏ
hớt hải chạy về phía tôi: “Ông Thiếu úy
ơi, có con nhỏ Út bị thương nằm kia ḱa…”
Cũng đoán biết được chuyện ǵ đă
xảy ra, cả toán tất tả đi theo các em,
về phía cánh đồng, súng cầm tay, trong tư
thế sẵn sàng nhả đạn. Đến nơi,
thấy nằm gục nửa dưới ruộng,
nửa trên bờ, một bé gái, tức “con nhỏ Út”,
độ tám, chín tuổi, cao và gầy đét như
khúc củi, ḿnh mẩy và mặt mày đầy máu,
nhuộm đỏ cả chiếc áo cụt trắng.
Mấy đứa trẻ mách: Út ra ruộng sớm, mót
lúa, đă đạp phải ḿn gài sẵn. Chưa
biết của bên nào. Tôi thận trọng, đưa
mắt quan sát hiện trường, xem có quả ḿn hay
lựu đạn nào chưa nổ, hay một tên du kích
nào đang ŕnh chờ chúng tôi. Y tá Thám cúi
xuống, cầm lấy tay Út bắt mạch, rồi
đặt ống lên ngực nghe nhịp thở, tiêm
một mũi thuốc không tên, mà anh nói để
“cầm máu”, và cho uống hai viên aspirine để
giảm đau, trong khi tôi choàng tay, cẩn thận,
đỡ bé ngồi dậy. Người bé mềm nhũn,
miệng rên nho nhỏ, liên tục. V́ trái ḿn bẫy
đặt ngược hướng, sợi dây kíp khá dài,
và nổ khi Út đứng khá xa, nên thân thể c̣n nguyên
vẹn, không nát bấy, chỉ bị ghim đầy
những miểng sắt li ti. Gương mặt xinh
xắn của bé, có vẻ già dặn trước
tuổi, lúc ấy xanh như tàu lá, và cặp mắt
lờ đờ ngước nh́n tôi. Thám quay sang, kín
đáo khẽ lắc đầu, và tôi hiểu. Từ
thân thể Út máu tiếp tục chảy từng
giọt, chắc bé đau đớn lắm. Bé kêu khát.
Tôi mở bi đông, đổ nước vào nắp,
cho bé uống vài hớp nhỏ. Vừa suy tính rất
nhanh. Tại các ấp, như Vĩnh Phụng, làm ǵ có
trạm cấp cứu, nhân viên y tế, hay thuốc men.
Chở đi Bồng Sơn không kịp nữa, v́ bé
đă yếu lắm rồi, lả người trong ṿng
tay tôi. Gọi máy PRC 25 về trung đoàn, buổi trưa,
không gặp ai. Gọi thẳng Sư đoàn 1st Cav
Mỹ xin trực thăng tải thương th́ không
biết tần số, và tốn thời gian lắm,
lại sợ họ không tin ḿnh. Không c̣n biết làm ǵ
hơn, tôi dùng khăn ướt lau sơ máu trên
mặt, trên tay của bé và cầu nguyện cho bé
gắng gượng thêm độ nửa giờ
nữa thôi –thời gian vừa đủ để xe
chúng tôi chở kịp về tới Bồng Sơn. Bỗng Út
mở to mắt, nh́n thẳng vào tôi, ngơ ngác, như
vừa tỉnh cơn mê từ một cơi nào rất xa
xôi. Bé thều thào hỏi: – Con qua
nổi không chú? Tôi
liếc nhanh về phía y tá Thám, rồi gật đầu: – Qua
nổi chứ con! Nếu con hứa là con gượng thêm
nửa giờ nữa… Bé mở hé
đôi môi, cố gắng mỉm cười khó khăn,
lắc nhẹ đầu, và đáp khẽ: – Không
kịp đâu chú, con biết con không sống nổi,
con mệt quá rồi. Khi năy trong giấc mơ, con có
gặp ba cô mặc áo trắng tinh, có hai cánh trên lưng,
nói đang chờ để rước con đi… Rồi Út
tiếp, giọng rời rạc, càng lúc càng nhỏ
dần, nhỏ dần: – Chú
ơi, con muốn được ôm, trước khi
chết… con là đứa mồ côi, không cha không
mẹ, không người thân thích… con ở đợ,
mót lúa cho nhà người ta… không có ai thương con
hết… con muốn được ôm, một lần này
thôi… Tôi bật
khóc, ôm bé vào ḷng, hôn lên trán, lên tóc bê bết máu, mà
nước mắt tuôn rơi như mưa, chảy
xuống ướt chiếc áo trận, ḥa lẫn
với máu của bé chưa khô. Vừa lúc ấy, trên
cặp môi tím ngắt bé như cố nở một
nụ cười măn nguyện. Rồi ngoẹo đầu
vào ngực tôi, bé làm động tác muốn giơ hai
cánh tay lên, nhưng không đủ sức, lại
bỏ xuống, và nửa giây sau, bé từ từ nhăm
mắt, và trút hơi thở cuối cùng trong tay tôi.
Tất cả diễn ra không đầy bốn phút,
từ lúc gặp bé nằm ở bờ ruộng. Tôi nhẹ
nhàng buông xác bé xuống, đặt nằm ngay ngắn
trong tấm poncho c̣n mới của tôi. Bé đă
được liệm bằng poncho, giống như
một người lính chiến thật sự.
Giống như những đồng đội của tôi
chết trận, mà tôi được chứng kiến,
tại Ban Mê Thuột, Kontum, Phan Thiết… năm nào.
Chung quanh, mọi người vẫn đứng yên,
lặng thinh, mắt đỏ hoe, kể cả tốp lính
địa phương quân vừa kịp đến
để chứng kiến cảnh tượng thương
tâm này. Tôi biết, cũng như tôi, những người
lính, rất chai ĺ v́ phải thường trực thách
đố với cái chết cận kề, và định
mệnh tàn nhẫn, không khóc dễ dàng. Nhưng trước
thân xác gầy guộc, đẫm máu, của Út,
một bé gái nạn nhân vô tội của chiến tranh
khốc liệt, phi lư, cây cỏ cũng khóc theo,
huống chi người. Khi tôi hỏi, ḿn do ai gài,
một anh địa phương quân nói lớn, có
vẻ tức giận:
– Ḿn
của mấy thằng du kích Việt Cộng gài đó,
ông thầy. C̣n ai trồng khoai đất này. Sáng nay,
tụi em chưa kịp đi gỡ th́ con nhỏ Út ra
ruộng sớm, đạp trúng. Tội nghiệp nó quá. Tôi giao
tấm poncho gói xác Út cho nhóm địa phương quân
và moi tiền từ bốn túi quần, cộng với
tiền gom góp của anh em tự nguyện trong toán, không
đếm bao nhiêu, nhưng đoán khá bộn,
đưa hết cho trung sĩ trưởng nhóm, và nói: – Tôi nghe
nói bé Út mồ côi, nghèo khổ, nên nhờ các anh mua cái
ḥm cho bé và làm phước, chôn cất tử tế giùm.
C̣n thiếu bao nhiêu các anh bù giúp cho. 3.
Trên đường về lại Bồng
Sơn, cả toán không ai nói với ai một lời nào.
Giống như một lần trước đó không lâu,
khi chúng tôi chở đến bệnh xá quận lỵ
một bé trai mười tuổi từ một ấp, xă
khác, gần hơn, đă đạp phải lựu
đạn cũng của Việt Cộng –bị thương
khá nặng, nhưng sống sót, v́ được
cứu kịp thời, chỉ phải cưa một chân.
Tôi ngồi im, như tượng đá, và mắt
vẫn c̣n cay sè. Đến Bồng Sơn, đi ngang nhà
trọ của Thơ Thơ, tôi bảo tài xế
dừng lại, chờ tôi mười phút. Nàng mở
cửa, thấy quần áo tôi dính đầy máu,
hoảng hốt kêu lên: – Trời
ơi, anh bị thương phải không? Tôi lắc
đầu, gượng mỉm cười. Nàng ôm tôi vào
ḷng, siết chặt, như sợ tôi biến thành mây
bay đi, và tôi kể hết câu chuyện bé Út. Nàng
vừa nghe vừa rơm rớm nước mắt.
Rồi nghẹn ngào nói nhỏ: – Tội
nghiệp bé quá. Tối nay em sẽ thắp nhang khấn
vái cho hồn bé được siêu thoát. Sau khi nghe
chuyện này, em yêu anh quá, em yêu anh hơn, em yêu anh măi
măi. Măi măi, anh biết không? Cái chết cũng không bao
giờ có thể chia ĺa hai đứa chúng ta. Hôm sau, Hoàng
hết bệnh, tôi trả lại toán để anh
dẫn xuống Vĩnh Phụng tiếp tục công tác
thường nhật. C̣n tôi, từ đó cho đến
ngày rời bỏ Bồng Sơn trở về Bà Gi,
tức hơn nửa năm sau, không bao giờ đặt
chân lên ấp đó nữa, dù chỉ ghé qua một
lần. Để tránh nhớ một trong những
kỷ niệm thảm thương nhất, nếu không
muốn nói một kỷ niệm thảm thương
nhất, trong suốt đời lính. Sau ba tháng, tôi
được lệnh của trung đoàn ngưng công
tác tại quận Hoài Nhơn, và điều động
cả hai toán ra Tam Quan –một quận lỵ nguy
hiểm nhất của Bắc B́nh Định. 4.
Rồi qua bao nhiêu thăng trầm, trong
suốt bốn mươi bảy năm kể từ Noël
1969 đó, tôi
cố quên cái chết của bé Út, cũng như
của Thơ Thơ –đă gục ngă trên đường
di tản tháng 4 năm 1975, khi đoàn người
chạy loạn bị Việt Cộng pháo kích. Cố
quên và xem tất cả như một dĩ văng tàn
khốc và kỷ niệm thảm thương của
chiến tranh, của một thời để yêu và
một thời để chết. Cố quên, nhưng không
thể được. Đặc
biệt bé Út. Quả thế, cứ mỗi cuối năm
khi mùa Giáng Sinh tới, và cứ mỗi lần tôi giơ
tay ôm hun ai, th́ h́nh bóng tội nghiệp của bé
bỗng dưng lại hiện về trong tâm trí,
với thân xác đầy máu và thương tích,
với vẻ mặt đau đớn tột cùng,
với những lời trối trăn, đứt quăng,
“con muốn được ôm… không ai thương con
hết…” Hỡi ơi, buồn này biết đến
kiếp nào mới nguôi? Bé hiện về như một
ám ảnh dịu dàng, vời vợi. Như một linh
hồn nhỏ mồ côi, trắng tinh như tờ
giấy mới, lạc loài giữa trần ai quỷ ma
ác độc. Như một quư nhân phù trợ mà hương
linh lẻ loi c̣n măi lẩn quất bên người, hơn
cả chiêm bao, qua suốt nửa thế kỷ. Để
cùng với Thơ Thơ –người rất yêu
dấu bên ḍng sông tương tư ngày nào– nắm
tay tôi, dắt đi qua những phong ba của cuộc
đời. Portland, ngày Giáng Sinh, 25/12/2016 Kim Thanh |