Cái
Bóng Cuộc Chiến Và Món Nợ 45 Năm
Phạm Tín An Ninh |
Đă kết thúc đúng 45 năm, nhưng cái bóng
của cuộc chiến ấy dường như
vẫn luôn bám theo, nhiều lúc chụp phủ lấy tôi
như một thứ “bóng đè”, làm tôi muốn
ngộp thở. Từ giă học đường, tôi vào lính khi
c̣n rất trẻ. Cũng không hẳn v́ thích đời
binh nghiệp, nhưng quê hương đang thời
chinh chiến, nh́n quanh bạn bè thân quen đều
lần lượt nhập ngũ, và gần như con
đường nào rồi cuối cùng cũng dẫn
tới một quân trường, nên đúng như
lời một bài hát cũ, “năm 21 tuổi tôi đi
vào quân đội mà ḷng chưa hề yêu ai”. Ra trường, được bổ nhậm
về một đơn vị tác chiến lưu động.
Trải qua nhiều chức vụ, tôi cũng chẳng
phải là một cấp chỉ huy tài năng đảm
lược, những chiến công hầu hết là
nhờ vào máu xương của anh em binh sĩ. Không
nhớ là tôi đă hướng dẫn họ được
những ǵ, nhưng chắc chắn tôi đă học
được ở họ sự trung thành, ḷng can
đảm và nhiều kinh nghiệm chiến trường.
Trong hơn mười năm chiến trận, tôi
từng được thăng cấp đặc cách
ngoài mặt trận và nhận một số huy chuơng
tưởng thưởng. Nhiều lúc trầm tư, tôi
phân vân không hiểu đó có phải thực sự là
công trạng của ḿnh, khi h́nh dung đến khá
nhiều khuôn mặt đồng đội dưới
quyền đă hy sinh, trong lúc ḿnh vẫn đang c̣n
sống? Tôi không bao giờ quên được những
ánh mắt của họ đă nh́n tôi trước khi
trút hơi thở cuối cùng. Không biết họ
muốn trăng trối, gởi gấm hay oán trách điều
ǵ. Tôi thường giành phần để được
vuốt mắt họ khi t́nh h́nh có thể, như
muốn thay một lời tạ lỗi, ít nhất là
đă không bảo vệ được họ. Đau
đón hơn là khi t́nh huống bất khả, phải
đành đoạn bỏ họ nằm lại hay vùi thây
nơi chiến địa. Lời người xưa bao
giờ cũng đúng “Nhất
tướng công thành vạn cốt khô”. Tôi
không hề dám mơ tưởng đến chuyện làm
tướng bao giờ, nhưng dù chỉ là một sĩ
quan cấp nhỏ, tôi cũng đă mắc nợ khá
nhiều xương máu của đồng đội
anh em, mà chắc chắn sẽ không bao giờ c̣n
trả được. Phục vụ trong một đơn vị Bộ
Binh b́nh thường, nhưng chúng tôi chưa hề
một lần bại trận. Ngay cả những
trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với
lực lượng địch đông gấp nhiều
lần và vũ khí tối tân hơn, chúng tôi vẫn
chiến thắng vẻ vang, như trận phản
phục kích trên QL-20 gần Di Linh (Lâm Đồng),
trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Phan
Thiết, trận phản công tiêu diệt một
lực lượng biển người của địch
tại Pu-Brang (Quảng Đức) và đặc
biệt nhất là trận chiến Kontum mùa Hè 1972.
Vậy mà cuối cùng chúng tôi bỗng dưng trở thành
những người bại trận. Bi thảm và
tủi nhục hơn là dù có găy súng, buông súng hay không,
chúng tôi cũng thuộc về phía “đầu hàng”
theo lệnh của ông tướng mới lên làm
tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh.
Sau này, có người bảo ông làm đến đại
tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ,
móc nối của ai đó và một người em
ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập
“chính phủ ba thành phần”. Có người lại
bảo ông giành chức tổng thống chỉ để
làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng
có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu
hàng nên tránh được một cuộc tắm máu,
và có đủ thời gian cho một số người
kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang
Mỹ sớm. Là một thằng lính năm tháng ở
trong rừng núi, ngộp thở với bao nhiêu thứ
lệnh lạc trên chiến trường, tôi không
biết ǵ về chính trị, nhất là các biến
cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày
cuối cùng tại thủ đô Sài g̣n, nhưng tôi
cảm thấy “nhục!” Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là
lẽ thường t́nh. Cuộc nội chiến Mỹ
1861-1865, Nam quân đă đầu hàng Bắc quân, và
trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước
Nhật hùng mạnh đă phải đầu hàng quân
đội Đồng Minh, sau khi hai quả bom nguyên
tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và
Nagasaki. Kẻ chiến thắng đă hành xử văn
minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc
chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp
đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên –
cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận
của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn
quá. Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi
trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một
kẻ địch không đáng để thua. Và một
chế độ tự do nhân bản, văn minh,
phồn thịnh lại phải đầu hàng một
chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. (Có
lẽ trong lịch sử chiến tranh thế giới,
chưa từng có những người lính nào ở phe
thắng trận lại ngồi khóc ở vệ
đường trên phần đất vừa mới
chiếm được – như trường
hợp nhà văn bộ đội Dương Thu Hương
và có thể c̣n nhiều người khác nữa–
bởi nhận ra ḿnh bị lừa dối, uổng phí
cả một thời trai trẻ để đi
“giải phóng” một đất nước tự
do, văn minh, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần
xứ sở của ḿnh.) Điều đau ḷng và đáng tủi nhục
hơn là thua quá nhanh. Hai cuộc triệt thoái sai
lầm tệ hại, từ Pleiku theo Tỉnh Lộ 7B
của Quân Đoàn II và từ bờ biển Thuận
An của Quân Đoàn I, dự trù theo đường
biển, đă thất bại quá nặng nề bi
thảm, không những làm mất hai quân đoàn ở
những tuyến đầu cùng cả một sư
đoàn tổng trừ bị tinh nhuệ, mà quan
trọng hơn, làm mất tinh thần và niềm tin
chiến đấu cho quân, dân cả nước. Điều
đau đớn và tội nghiệp nhất của người
lính chiến là khi họ không c̣n niềm tin vào cấp
chỉ huy, lănh đạo của ḿnh. Đánh giặc mà
không có hậu phương, không c̣n được
tiếp tế, không có viện binh, yểm trợ, có nơi
không có cả cấp chỉ huy, th́ trận đánh
đó trở thành bi thảm, niềm tin chiến
thắng trở nên mong manh, người lính c̣n
chiến đấu chỉ v́ t́nh đồng đội
và tự vệ cho sự sống c̣n của chính cá nhân
ḿnh. Mặc dù ghi được hai điểm son
cuối cùng trong quân sử (-
tại Ban Mê Thuột, chỉ một tiểu đoàn
bộ binh thuộc Trung Đoàn 53 được tăng
cường hai Trung Đội PB 105 ly và một Đại
Đội Trinh Sát, dưới sự chỉ huy của
Trung Tá Vơ Ân, quyết tử thủ tại căn
cứ B50 bên phi trường Phụng Dực, đă dũng
cảm chống trả một lực lượng hùng
hậu của địch, với quân số gấp 5, 7
lần cùng nhiều chiến xa T-54, bao vây đúng
một tuần sau khi cả thành phố Ban Mê Thuột
đă thất thủ, tiêu diệt nhiều đơn
vị, chiến xa địch, cho đến khi cạn
đạn dược, phải mở đường máu
thoát ra – và tuyến thép Long Khánh của Tướng Lê
Minh Đảo đă cầm chân cả hơn một quân
đoàn Cộng sản gần hai tuần lễ, gây
tổn thất nặng nề cho địch, làm ngỡ
ngàng cả thế giới, nhất là Ṭa Bạch
Ốc); nhưng cũng chỉ đúng 55 ngày,
kể từ khi mất Ban Mê Thuột, một quân
lực hùng mạnh gần như tan ră, và cả
miền Nam mất vào tay giặc! Ngoại trừ phần lớn lực lượng
Hải Quân và Lữ Đoàn I Nhảy Dù có phương
tiện ra đi theo kế hoạch, một số
thuộc các đơn vị Không Quân, từng nhóm
hoặc cá nhân mang theo gia đ́nh tự vượt thoát
bằng các loại phi cơ, ghe tàu kiếm được,
hầu hết c̣n lại phải vào tù, từ những
tướng lănh đến sĩ quan mới ra trường,
có cả một số hạ sĩ quan giữ những
chức vụ liên quan tới an ninh, t́nh báo. Một
số không nhỏ đă bị “bên thắng
cuộc” tàn sát dă man tại địa phương,
ngay sau khi cướp lấy chính quyền. Đặc
biệt đáng kính phục, một số tướng
lănh cùng nhiều cấp chỉ huy và binh sĩ khí phách
đă tự sát vào giờ thứ 25 để giữ
tṛn tiết tháo. Cả một miền Nam thua trận
đă nhanh chóng trở thành một vùng đất
chết, khốn cùng, bi thảm. Tiền bạc (có
được từ mồ hôi nước mắt và có
khi bằng xương máu) bỗng chốc không c̣n giá
trị, nhà cửa, tài sản bị cướp
sạch dưới danh nghĩa tịch thu, rất
nhiều gia đ́nh từ ông bà già đến những
đứa con nít sơ sinh bị xua đuổi, cưỡng
bách đi đến những nơi rừng thiêng nước
độc. Người dân có cảm giác như bị
lưu đày ngay trên chính quê hương ḿnh. Tương
lai chỉ c̣n là những cơn ác mộng. Thời
ấy, mọi người chỉ c̣n biết nh́n ra
biển khơi mênh mông để ước mơ
một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia
chân trời mịt mờ vô định. Và c̣n ǵ đau
đớn hơn khi con người nghĩ tới
chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là
một niềm khát vọng! Hơn tám năm bị đày ải qua nhiều
trại tù Nam-Bắc, ngày trở về tôi không c̣n
được nh́n lại mặt cha ḿnh. Ông đă
chết sau gần một năm bị bắt vào
một trại tù khác trong Nam khi tuổi sắp 70. May
mắn là tôi c̣n người vợ chung t́nh cùng tôi qua
bao cuộc biển dâu, bươn chải nuôi đàn
con dại, cho dù bữa no bữa đói. Nh́n thấy vợ con khốn khổ, tả tơi,
mà ḿnh chẳng có thể giúp được điều
ǵ, c̣n tạo thêm gánh nặng, cuối cùng, chỉ c̣n
cách duy nhất – đem hết sinh mạng cả nhà
để đánh một canh bạc cuối cùng – vượt
biển. Tôi đến trại tị nạn khi phong trào
kháng chiến, phục quốc đang trong thời
kỳ đỉnh điểm. Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng
Việt Nam do vị tướng Hải Quân
Hoàng Cơ Minh lănh đạo, nghe nói có căn cứ,
chiến khu ở đâu đó trên đất Thái Lan
gần biên giới Lào-Việt. Có cả tờ báo và
đài phát thanh Kháng Chiến. Tôi cùng rất nhiều
anh em nức ḷng vận động thành lập
“xứ bộ”, hăng hái tham gia, tuyên thệ để
được trở thành đoàn viên. Đứng trước
bàn thờ tổ quốc, đưa tay lên chào lá
quốc kỳ, hô mấy lời thề mà trong trái tim
bừng lên khí thế và nước mắt rưng rưng
cảm động. Nhiều người sẵn sàng
trở về chiến đấu. Riêng tôi c̣n tin tưởng
và phấn chấn hơn khi được xem cuốn
phim quay trong “chiến khu quốc nội”, nhận ra người
bạn học đồng hương thân thiết,
một sĩ quan TQLC, là kháng chiến quân cầm súng
đứng bên cạnh Trung Tá Lê Hồng (bấy
giờ được gọi là Thiếu Tướng
Đặng Quốc Hiền), dưới lá cờ vàng
phất phới tung bay giữa núi rừng biên giới.
Nhưng chỉ vài tuần, sau ngày “Đại
Hội Chính Nghĩa” được
Mặt Trận tổ chức rầm rộ tại
Washington DC-Hoa Kỳ, chúng tôi dồn dập nhận
được bao nhiêu tin tức không vui. Một số
lớn cán bộ chủ chốt kéo theo nhiều đoàn
viên tách ra, chia làm hai ba nhóm, lên án tố cáo lẫn
nhau, lộ ra nhiều điều không thật. Chúng tôi
ở tít mù xa nên chỉ biết tạm thời “án
binh bất động.” để giữ t́nh anh em,
chiến hữu. Chưa kịp phản ứng ǵ th́
nghe tin vị Tướng lănh đạo cùng nhiều cán
bộ, kháng chiến quân đă hy sinh tại Nam Lào. H́nh
ảnh và tin tức có đầy trên báo chí, truyền
h́nh Cộng sản. Lực lượng “quốc
nội” xem như tan ră. Thằng bạn tôi có tên trong
danh sách “bị giết”, Trung Tá Lê Hồng cũng không
c̣n (sau này nghe nói ông chết trong chiến khu v́
trọng bệnh). Như một quả bóng căng đầy
bị x́ hơi, chúng tôi chẳng c̣n ǵ để hy
vọng. Tôi đau đớn rời khỏi tổ
chức mà ḿnh đă hết ḷng góp công gầy
dựng. Nỗi buồn lại tăng lên gấp
bội, khi những người chết, dù ǵ họ cũng
đă hy sinh v́ Tổ quốc, lại không hề
được chính thức công bố, truy điệu,
vinh danh. Tôi ra sau nhà, đứng một ḿnh đốt
ba nén hương hướng về phương Đông
để tưởng nhớ thằng bạn cũ mà
trong ḷng ngậm ngùi đau đớn. Sau này tôi có
dịp liên lạc được với vợ con nó,
sống rất nghèo khổ ở Việt nam, ngay quê
vợ tôi. Ông bà nhạc tôi từng cưu mang đứa
con trai lớn của nó một thời gian, lo cho
việc ăn ở, học hành. Những năm đầu định cư,
sống trên vùng Bắc Âu băng giá, tôi càng lạnh
lẽo hơn khi biết tin người anh hùng Trần
Văn Bá, Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên
Việt Nam ở Pháp cùng các ông Lê Quốc Túy, Mai Văn
Hạnh và một số thành viên trong Mặt
Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước
Giải phóng Việt Nam bị bắt khi xâm
nhập vào bờ biển Cà Mau. Sau đó anh Bá đă
bị CS xử bắn cùng nhiều người khác. Trên
bàn thờ nhà tôi, có thêm tấm di ảnh của anh.
Anh rất xứng đáng để được vinh
danh như một vị anh hùng.
Một tổ chức khác, Liên
Minh Quang Phục Việt Nam của ông Vơ
Đại Tôn, một cựu sĩ quan cao cấp,
từ Úc Châu, gạt lệ từ giă vợ trẻ con
thơ t́m đường về phục quốc. Tôi hoàn
toàn không biết ǵ về sách lược hay kế
hoạch của ông cho đến khi nghe tin ông bị
bắt. (Sau này bất ngờ được xem cuốn
phim quay cảnh ông bị cộng sản đưa ra
một cuộc họp báo quốc tế tại Hà
Nội ngày 13.7.1982. Cuốn phim do phóng viên Neil Davis
của NBC News cùng kư giả Mori của đài truyền
h́nh NHK/ Nhật Bản, thực hiện và may mắn
được mang ra khỏi Việt Nam để tŕnh
chiếu trên đài truyền h́nh Tokyo, Nhật Bản.
Chắc chắn bọn cầm quyền Hà Nội đă
áp lực để bắt ông phải nói theo sự dàn
dựng của chúng, nhưng ông đă khôn khéo lừa
dụ địch, tương kế tựu kế,
nhằm đưa được tiếng nói của ḿnh
ra bên ngoài thế giới. Trước nhiều phóng viên
của các nước cộng sản và thế giới
tự do, với nét mặt đanh thép và giọng nói dơng
dạc, hùng hồn ông tuyên bố (nguyên văn): “Tổ chức của tôi
có cơ sở tại Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu
Úc. Trong một mục đích của tổ chức, chúng
tôi có kế hoạch dự trù xâm nhập trở
về Việt Nam để t́m hiểu t́nh h́nh và
từ đó sẽ đặt kế hoạch cho tương
lai. V́ lẽ đó, tôi sẽ không phản bội
bất cứ ai đă giúp đỡ, ủng hộ tôi.
Tôi tiếp tục lập trường chính trị
của tôi để tranh đấu cho tự do và
giải phóng dân tộc. Tôi đă sẵn sàng nhận
bất cứ bản án nào mà chế độ Công
sản dành cho tôi”
Sau mười năm bị hành hạ kiên giam
trong ngục tối, nhờ sự can thiệp của chính
giới quốc tế và Úc Châu, ngày 11.12.1991, ông
được trở về Úc với thân xác gầy g̣
c̣n hằn những vết đ̣n thù. Nhiều báo chí
trên thế giới và hầu hết cộng đồng
người Việt khắp nơi ca ngợi ông như
một anh hùng, nhưng rồi cũng có ít người
chê trách, kể cả miệt thị ông. Một
lần nữa, tôi có cảm giác cay đắng,
ngậm ngùi. Dù ǵ, ḷng can đảm, tính khí khái và sư
hy sinh lớn lao của ông cũng đă quá đủ
để làm tôi kính phục. Xưa nay mấy ai đem
chuyện thành bại mà luận anh hùng. Và với tôi,
ông xứng đáng là một anh hùng. Rồi tất cả cũng từ từ đi vào
quên lăng. Chuyện kháng chiến, phục quốc
lắng xuống, nhưng mầm móng chia rẽ, nghi
kỵ bắt đầu. Niềm tin mất dần, và dường
như ḷng một số đông người Việt
tị nạn cũng dần dà chán chường,
nguội lạnh. *** Vừa bỏ lại đằng sau gần mười
năm khốn cùng tăm tối, lại vừa thoát
chết trên biển Đông, giờ mới bước
lên bến bờ tự do th́ gặp bao nhiêu điều
hụt hẫng đau ḷng, tôi không c̣n muốn nh́n
lại vùng bóng tối phía sau lưng bằng cách
dồn hết nỗ lực ḥa nhập vào quê hương
mới. Đời sống ở vùng Bắc Âu thật an
b́nh, dân t́nh hiền ḥa, đất nước thơ
mộng với rừng núi, sông hồ quanh năm tĩnh
mịch, như là những liều thuốc nhiệm
mầu tưởng chừng có thể chữa lành
được những vết thương c̣n lại
trong ḷng ḿnh. Tám năm sau, nhân dịp đưa ba cô gái sang
Mỹ học, tôi có dịp gặp lại một
số đồng đội và bạn cùng tù cũ.
Thời gian này, đă có nhiều đợt cựu tù
“cải tạo” đến Mỹ theo diện HO.
Rất vui và cảm động qua bao cuộc trùng phùng.
Một chiều cuối tuần, chúng tôi theo anh bạn,
trước kia là tiểu đoàn trưởng, đến
tham dự buổi họp mặt binh chủng của anh,
một binh chủng từng vang tiếng một thời,
được tổ chức tại một nhà hàng
lớn trong khu Little Saigon. Rất đông đảo người
tham dự. Sau gần hai mươi năm tôi mới
thấy lại nhiều anh em mặc quân phục, có vài
người mang cả cấp bậc, và lần đầu
tiên ở hải ngoại, chứng kiến một nghi
lễ rước quốc, quân kỳ và chào cờ,
với đầy đủ súng ống, có cả
tiếng kèn đồng thổi bài truy điệu, tôi
đă xúc động, nước mắt tuôn trào. Sau
khi vị trưởng ban tổ chức giới
thiệu thành phần ban chấp hành và đọc qua
tiểu sử cùng những chiến công hào hùng của
binh chủng, một vị (cựu) tướng đại
diện cho binh chủng được trịnh trọng
mời lên sân khấu để “có đôi lời” cùng
anh em đồng đội. Mái đầu đă
bạc, nhưng phong cách của ông vẫn uy nghi,
lời nói dơng dạc, lẫn chút xúc động khi
nhắc đến những “thằng em” c̣n nằm
lại ở chiến trường, hay đă chết
trong tù ngục. Không khí như trầm xuống. Nước
mắt tôi lại trào ra. Sau đó, tiếng nhạc
nổi lên và cả chương tŕnh dài c̣n lại dành
cho văn nghệ, dạ vũ. Sự đổi “tông”
ấy đă làm tôi hụt hẫng, tiếc nuối. Như
một giấc mơ đẹp đẽ bỗng
biến mất bởi những h́nh ảnh và âm vang
đưa tôi trở về thực tế. Giá mà tôi
rời khỏi hội trường sớm, sau phần nói
chuyện của ông tướng th́ hay biết bao nhiêu.
Chắc tôi c̣n giữ được trong ḷng nhiều
hơi ấm cùng chút niềm kiêu hănh. Thời gian sau này, sau khi về hưu, tôi sang
Mỹ sống nhiều hơn, đă làm quen với các
sinh hoạt ở đây, dần dà rồi cũng
thấy b́nh thường trước bao điều nhân
t́nh thế thái. Nhưng tôi vẫn thấy nao ḷng, khi
chứng kiến những đồng đội của
ḿnh ngày một già thêm và bộ quân phục trên người
không c̣n tạo cho họ cái oai phong, đẹp đẽ
của ngày xưa, cái thời mà hầu như bản
nhạc nào của miền Nam cũng nhắc đến
và ca ngợi họ như những người hùng lư tưởng
của các cô nữ sinh Gia Long, Trưng Vương, Bùi
Thị Xuân, Đồng Khánh, các cô sinh viên Văn Khoa,
Luật Khoa trên những con đường t́nh có lá me
bay, cây dài bóng mát…, hay h́nh ảnh đẹp đẽ
oai hùng trong các cuộc diễn binh vào những Ngày Quân
Lực năm nào, giờ thỉnh thoảng vẫn c̣n
được nh́n thấy lại trên các video. Một hôm, tôi lặng người khi thấy
trong cuộc diễn hành Tết trên đường
phố Bolsa, có mấy ông bà mặc quân phục mang
cả lon tướng, tá của nhiều quân chủng,
mà tôi chưa hề nghe danh, biết mặt, bởi trông
họ quê mùa, kệch cỡm, mang phù hiệu, giây
biểu chương c̣n không đúng cách. Th́ ra một
đám tướng tá phường tuồng của
một nhóm bệnh hoạn tự phong nào đó. Tôi
giận đến phải buông ra mấy tiếng
chửi thề và trách cứ ban tổ chức sao có
thể để cho họ mạo nhận, diễn tṛ
lố lăng như thế? Chẳng lẽ cái quân
đội của chúng tôi từng có biết bao máu
đào của hàng hàng lớp lớp chiến binh đổ
xuống tô thắm màu cờ, giờ bị “xuống
cấp” đến mức này sao? Từ đó, tôi không
c̣n muốn có mặt trong các buổi họp mặt,
diễn hành khi có những người mặc quân
phục, mang lon lá một cách ô hợp, lố lăng như
thế. Tôi không muốn phải đau ḷng, bởi chính
những h́nh ảnh tệ hại này đă ám ảnh,
nhắc nhớ, để tôi nhận ra ḿnh là người
lính trong đội quân thất trận, điều mà
lúc nào tôi cũng muốn quên đi. Cũng ở Mỹ, đặc biệt Tiểu
Bang California, nơi từng được mệnh danh “thủ
đô người Việt tị nạn” và “thành
tŕ chống Cộng”, tôi đă phải
chứng kiến bao điều thị phi, chia rẽ,
nghe những lời miệt thị giữa những người
từng một thời là huynh đệ, đồng môn,
đồng đội, đă từng quỳ xuống trên
cùng một vũ đ́nh trường đưa tay lên
“xin thề” trong ngày lễ ra trường, và cùng
sống chết bên nhau trên những chiến trường
ngập đầy lửa đạn. Gần như
cộng đồng, tập thể nào cũng chia ba
xẻ bảy. C̣n sức mạnh nào để đối
phó với kẻ thù xảo quyệt, gian trá, bạo tàn,
khi thế hệ chúng tôi tuổi đă già, sức
đă kiệt, và sẽ để lại được
những hoài băo ǵ cho con cháu mai sau? Mảnh đất xấu là nơi cơ hội
cho cỏ dại, thường là loại cỏ đuôi
chó. Tôi thật sự buồn nôn khi nh́n thấy vài
bộ mặt, nhận ḿnh từng là người hùng
của binh chủng này binh chủng nọ, nhưng
chạy về khóc lóc, bợ đỡ kẻ thù. Nghe
những lời xu nịnh, tráo trở của họ mà
tôi lợm giọng Bạn bè chiến đấu cùng tôi ngày xưa,
giờ cũng bị những biến cố của ḍng
đời “lưu vong” này mà chia năm xẻ
bảy. Tệ hơn có một số c̣n xem nhau như
kẻ thù. Từ những bất đồng trong “kháng
chiến”, “phục quốc” đến việc
hội hè, đoàn thể, xây dựng tượng đài,
tu sửa Nghĩa Trang QĐ Biên Ḥa, thậm chí đến
cả việc ủng hộ hay chống TT Trump, và
mới đây là chuyện “Recall” hay “No Recall” trong
Hội Đồng Thành Phố Westminster- đă giết
chết biết bao t́nh chiến hữu, đồng
đội, đồng môn, huynh đệ một
thời. Tôi thực t́nh không hiểu nổi, chỉ
cảm thấy đau ḷng, xót xa, nuối tiếc. Cái bóng
ma cuộc chiến của hơn 45 năm trước mà
tôi luôn muốn quên đi, giờ càng đè nặng lên
tấm thân c̣m cơi, bóp nghẹt trái tim già nua của tôi,
từng khát khao bao niềm hy vọng. Vết thương
cũ trong ḷng, tưởng có thể lành, giờ nhói
đau trở lại. Và món nợ máu xương
của bao đồng đội, đă hơn 45 năm
rồi, biết đến khi nào mới trả
được cho anh em? Cầu xin hồn thiêng sông núi, anh linh tiên tổ
và liệt vị anh hùng, tử sĩ phù trợ cho
cộng đồng người Việt hải
ngoại, đặc biệt những huynh đệ
từng mặc áo lính của tôi, sớm dẹp bỏ
mọi chia rẽ, tị hiềm, đưa tất
cả quy về một mối, cùng một ḷng hổ
trợ đồng bào trong nước, để họ
có đủ can đảm bước qua nỗi sợ
hăi, cùng đứng lên làm ngọn sóng thần nhận
ch́m chế độ Cộng sản man rợ, độc
tài, tham nhũng, bán nước cầu vinh, để
con cháu đời sau không c̣n bị nợ nần, ô
nhục, xích xiềng, vươn lên sánh vai ngẩng
mặt tự hào cùng năm châu bốn bể. Một chế độ đi ngược
lại ḷng dân và xu thế phát triển của nhân
loại, tất yếu phải bị đào thải.
Vấn đề c̣n lại chỉ là thời gian – và
sẽ biến thiên tùy theo những trái tim có cùng
một nhịp đập. Tháng 4/ 2020 |