Ông Thành xuất thân là một quân nhân,
nhập ngũ từ năm mới hai mươi
tuổi. Đất nước chiến tranh tuổi
thanh niên đa số dấn thân vào con đường
binh nghiệp, dù chẳng ham ǵ cảnh cốt nhục tương
tàn, nhưng khổ thay cây muốn lặng mà gió
chẳng chịu ngừng. Muốn ḥa b́nh phải có
chiến tranh, định mệnh đưa đẩy
khiến toàn dân đều chịu chung số phận
nghiệt ngă của một đất nước
bị phân chia kéo dài 20 năm đằng đẵng. .
.
Hơn mười
năm lính, bao lần xông pha trận mạc, trôi nổi
sống chết với đồng đội chiến
hữu của ḿnh trên khắp các chiến trường
miền Đông, rồi lại chuyển qua miền Tây.
Mỗi nơi mỗi vẻ, nhưng in đậm trong trí
nhớ của ông Thành là chiến trường miền
đông, vùng chiến địa đôi khi lại là
một cánh rừng thưa mà mỗi độ Xuân
về, mai rừng nở hoa bát ngát mênh mông một màu
vàng rực rỡ. Ông Trời trớ trêu đem cái
đẹp của rừng mai lúc sang Xuân, lồng vào
nỗi buồn ray rứt của khói lửa binh đao,
khiến ḷng người lính trận thắt lại mênh
mang khi ngắm hoa nở trên đầu súng.
Những năm xa gia đ́nh, ăn Tết trên rừng
với hoa mai vàng óng ả đă ghi đậm trong ḷng
ông Thành một bức tranh tuyệt vời trong đời
quân ngũ. Tết trên rừng nơi vùng hành quân nào có
ǵ, nếu không nhờ những cánh mai vàng hồn nhiên
rung rinh hé nở trong nắng sớm, và chút se sắt
của gió Xuân làm thổn thức con tim người lính
trận. Xa vợ con, xa gia đ́nh, xa phố thị b́nh
yên, những buổi chiều nơi vùng trú quân năm
nào im tiếng súng, thân phận người lính
trận có ǵ vui khi được lai rai ly rượu
đế, món thịt rừng và con khô nướng,
để nhớ về không khí ấm cúng của gia
đ́nh, và những buổi chiều Xuân nhộn
nhịp, an b́nh nơi thành phố. Ông Thành đă có
nhiều năm ăn Tết ở đơn vị
với chiến hữu, đă quen dần với
những mùa Xuân xa nhà, cho đến năm ấy sau
một lần hành quân đụng nặng cấp
tiểu đoàn, ông bị thương nặng ngất
đi v́ mảnh đạn pháo dập đứt ĺa
một chân, và bao nhiêu mảnh nhỏ ghim vào thân
thể
Thế là giă từ vũ khí, giă từ nếp sống
nhà binh rày đây mai đó, ông làm người phế
binh an phận bên lề cuộc chiến, đời
sống tương đối được ổn
định nhờ người vợ hiền tần
tảo buôn bán nuôi con. Lúc nghĩ đến chuyện
mua một căn nhà để có một chỗ ở
cố định, ông Thành chống nạng đi lang
thang khắp hang cùng ngơ hẻm, măi mới ưng ư
một dẻo đất gần bờ sông, uốn cong
theo thế đất để đi vào một con
rạch nhỏ. Ông tính toán thú điền viên cho ḿnh
ở cái tuổi chưa già nhưng xem như đă
phế thải với cuộc đời, thôi th́
một căn nhà tôn vách ván, sân trước sân sau cũng
rộng răi thoáng mát, nuôi con heo con gà quanh quẩn
với vườn rau, bù vào đồng lương khiêm
nhượng của một thương phế binh,
cộng thêm bà vợ tần tảo chăm làm đời
sống cũng không đến nỗi.
Tuy giă từ vũ khí, chấp nhận đời
sống êm ả của một cảnh đời tàn
phế v́ chiến tranh, ông Thành thường nhiều
lần trở lại trong mơ quăng đời của
người lính trận, mỗi lần ngồi tần
ngần nh́n ḍng nước chảy ông miên man nhớ
lại những khuôn mặt bạn bè, chiến hữu
một thời của ḿnh với nỗi nhớ nhung, thương
yêu đằm thắm. Tuy đă xa rồi chiến trường
xưa, bạn bè thời quân ngũ nhưng trong ḷng ông
vẫn vọng về những kỷ niệm in hằn
trong trí nhớ, nhớ nôn nao chén rượu cay, con khô
nướng, ly bia sủi bọt trong cái quán cóc ven
đường có cô hàng xinh xinh ở vùng hậu
cứ , tiếng cười ngất ngưởng
của những Kinh Kha thời đại. Có đi vào
chiến tranh, có chia xẻ tận t́nh với nhau
những lần sống chết mới thấm thía
được nỗi nhớ ấy như thế nào.
Chẳng những thế c̣n in đậm trong ông
nỗi nhớ cánh rừng mai vùng chiến địa năm
xưa, khiến ông quyết định mua một
dẻo đất vuông vức khá đẹp trong Xóm Hoa
Mai để cất một căn nhà làm chỗ an cư
lạc nghiệp.
Vậy là may lắm rồi, khi c̣n biết bao nhiêu người
vợ lính ẵm con thơ chạy theo chồng từng
bước trên các nẻo đường chinh chiến
với đồng lương cố định ít
ỏi, những năm ấy ông rong ruổi một ḿnh
như con chiến mă trên dải đường xa,
để một ḿnh bà vợ lo toan nuôi đám con
ăn học . Chẳng biết cái tên Xóm Hoa Mai có
tự bao giờ, nhưng đặc điểm của
xóm là nhà nào cũng trồng một, hai cây hoa mai ở
sân trước, bên hiên nhà lẫn trong bóng của cây
mận, cây dừa. V́ thế khi xuân về từ đầu
xóm đến cuối xóm, nhà nào cũng có hoa mai vàng
rực rỡ trên cây và thảm hoa rụng đầy
trên mặt đất. Ông Thành đi kiếm đất
cất nhà vào mùa Xuân năm ấy bỗng như
lạc vào rừng hoa mai ở chiến trường xưa
thuở nào. Người chủ đất biết
được cái thích của ông Thành nên v́ thế
miếng đất khá cao giá hơn chỗ khác, ông cũng
biết vậy nhưng nếu so với cái hạnh phúc
của người t́m được điều ḿnh
thích th́ giá ấy chưa phải là đắt.
Khi cất xong ngôi nhà đơn sơ với số
tiền do bà vợ đảm đang dành dụm trong
nhiều năm buôn tần bán tảo, cả nhà cảm
thấy đă an cư lạc nghiệp. Trên mảnh
đất ấy đă có sẵn vài cây dừa và hai cây
mận, đủ làm bóng mát ban đầu cho căn nhà
ven sông thêm thơ mộng, và ở vườn sau
thả thêm một đàn gà, nuôi hai con heo, cộng thêm
vài con vịt xiêm ồn ào đi đi lại lại
rồi nhảy xuống mương lặn lội cũng
vui vui. Việc đầu tiên là ông Thành đi lùng mua
một gốc mai quư để trồng ở sân trước.
Chưa t́m được th́ một sáng kia, đang loay
hoay với cái hàng rào bông bụt trước sân ông
nghe có tiếng gọi quen quen:
- Ông thầy!
Ông ngửng lên nh́n nhưng đôi mắt v́ chói ánh
mặt trời nên nh́n chưa rơ, để rồi khi
nh́n ra, ông suưt làm rơi cái nạng xuống đất,
mừng rỡ nhận ra tiếng nói quen thuộc
của người lính đàn em cùng đơn vị năm
xưa. Đôi con mắt nh́n nhau rươm rướm
lệ, nh́n người đàn em về phép với
bộ chinh y c̣n bám bụi đường xa, khuôn
mặt hằn lên những gian khổ chiến trường
khiến ông chỉ muốn khóc. Ông hỏi, ngỡ ngàng
biết bao khi thốt lên mấy tiếng thân thương
của một người đàn anh cùng đơn
vị thuở nào:
- Ôi! Chú mày! Sao biết anh ở đây mà t́m?
Người lính trẻ toác miệng cười vô tư:
- Em hỏi thăm th́ biết. Sẵn dịp về phép,
ghé thăm ông Thầy và mang về một món quà ở
chiến trường xưa. Ông thầy có nhớ khu
rừng mai hồi xưa ḿnh đụng lớn ở
đó không? Vừa rồi đi qua đó, thấy có loài
mai quư em vội bứng cây mai này để dành
tặng ông Thầy làm kỷ niệm. Cây này khỏe,
xem nhỏ vậy nhưng cũng già rồi, em chăm nó
kỹ lưỡng đợi khi có phép mới mang
về được đây. Ông thầy chịu khó chăm
nó độ mùa Xuân năm sau là hy vọng có bông chưng
Tết.
Ông Thành cảm động nói không nên lời, ôi t́nh
huynh đệ chi binh tưởng chỉ có được
thời gian c̣n tại ngũ, trong sách vở và mấy
bản nhạc bốc thơm đời lính, hóa ra nó
không phải là những lời hoa mỹ trên đầu
môi chót lưỡi, uốn éo trên môi miệng nhũng
cô ca sĩ. Chẳng có ǵ quư hơn khi ḿnh tặng cho
người khác món quà mà người ta đang mơ
ước, mong đợi, cây mai rừng của người
lính trẻ đối với ông Thành quư c̣n hơn vàng
bạc. Lúc khề khà ly bia sủi bọt với người
lính cũ, anh ta ngà ngà say chỉ vào dúm đất ôm
lấy gốc mai xanh mướt, nói với ông Thành:
- Cái nhúm đất ở gốc mai này có khi cũng
đă nhuộm máu binh lửa đó ông thầy à.
Hổng biết sao chứ em mơ hồ là nó sẽ
gắn liền với ông thầy hết cuộc đời
trong cái mảnh sân và căn nhà này đó. Hễ ngày nào
đó thấy mai nở, ông thầy sẽ nhớ đến
em, cho dù em c̣n sống hay chết...
Ông Thành mắng yêu người lính trẻ mà đôi
mắt ông sao ướt nḥa như trời mưa:
- Bậy nà! Khi nào về phép nhớ ghé thăm anh nghe
...
Người lính trẻ giă từ ông thầy cũ
của ḿnh rồi trở ra đơn vị, để
lại cây mai quư mọc lên từ cánh rừng khói
lửa miền Đông. Cây mai cứ thế lớn nhanh
như thổi, v́ ông Thành chăm sóc nó c̣n hơn
mẹ chăm con mọn. Không biết sao từ đấy,
những lúc vui, buồn quanh quẩn bên cây mai với
đôi nạng gỗ, ông Thành dường như
thấy ḷng ḿnh ấm hẳn lại. Ông gửi
lại chiến trường một phần thân thể
của ḿnh, có khi chính những ḍng máu của ông và
bao người lính đă loang chảy và thấm sâu
xuống ḷng đất ấy, để hội tụ
vào những gốc mai trong cánh rừng thưa nở hoa
vàng mỗi độ Xuân về, gom lại thành một
thứ t́nh đồng đội khó nguôi ngoai.
Những sớm mai khi thức dậy, những buổi
chiều gió hiu hiu từ bến sông phả vào khu vườn
nhỏ tiếng lá reo, đă thấy bóng ông lom khom
với đôi nạng gỗ bên cây mai, lắm khi cao
hứng ông c̣n hát một ḿnh:
- "Người về, người về nay
đă cụt chân. Máu đào, máu đào đă thấm
trên thây bao nhiêu quân thù ...u ù, một ngày chinh chiến
mùa thu..."
Cây mai lớn nhanh theo cái t́nh đằm thắm thương
yêu của người thương phế binh đă
một thời xả thân trên chiến trường cũ.
Nó chẳng phụ công ông chăm sóc nên mùa Xuân năm
sau cây đă đơm những bông hoa đầu tiên,
tám cánh vàng tươi rung rung trong nắng sớm, khác
nào nụ cười xinh xinh của các cô em gái hậu
phương thuở ấy. Không có ng̣i bút nào diễn
tả hết được nỗi vui của người
thương binh chống nạng đứng ngẩng nh́n
những đóa mai vàng tám cánh rung rinh trong nắng
sớm, nh́n nó ông Thành lại nghĩ đến h́nh
ảnh người đàn em có cái miệng cười
thật tươi khi đến thăm ông lần
về phép năm trước.
Để rồi vô t́nh có ngày ông Thành bỗng phát
hiện ra mọi buồn, vui trong đời ông h́nh như
đă được cây mai báo trước mà sau khi
chuyện xảy ra, ông mới thấy được
sự kỳ lạ ấy. Hai năm sau, một đêm mùa
hè ông Thành không ngủ được, trời đêm
ấy có trăng nhưng lặng gió, ông quanh quẩn
thả ra gốc mai rồi lại quay vào ngồi trước
hiên nhà hút thuốc.
Đêm khuya rồi mà vẫn khó ngủ, ông vào nhà ghé
ḿnh lên chiếc phản gỗ nhưng vừa đặt
ḿnh xuống và lơ mơ đi vào giấc ngủ, ông
nghe như từ cây mai có tiếng chuyển động
của những bước chân, y hệt tiếng xê
dịch của những gót giày nhà binh mỗi lần
chuyển quân. Từ chỗ gốc mai tự nhiên gió
nổi lên lồng lộng khiến cây lá ŕ rào, th́ thào
với nhau giữa canh trường. Không biết
thức hay ngủ giữa cơn mộng mị, ông Thành
nhác thấy người lính trẻ đàn em tặng ḿnh
cây mai năm nào đang đứng tựa cành mai, dưới
ánh trăng mờ anh ta toác miệng cười với
ông, nụ cười thân thương của người
đàn em khiến ông mừng quá quơ đôi nạng
định chạy ra ôm lấy người chiến
hữu của ḿnh. Ngay khi ấy ông chợt tỉnh, th́
ra đấy chỉ là một giấc mộng. . .
Ông
Thành tỉnh hẳn rồi không ngủ lại
được, hoặc có ngủ th́ cũng chỉ
chập chờn nửa tỉnh nửa mê chờ sáng.
Linh tính cho ông biết có chuyện ǵ ... đă xảy
đến với thằng đàn em dễ thương
của ḿnh, như câu dặn ḍ của hắn trước
khi chia tay, trong lúc ngà ngà men rượu:
- "Một ngày nào đó mai nở, ông thầy
sẽ nhớ đến em, dù em c̣n sống hay đă
chết..."
Từ hôm ấy sau giấc mộng kỳ lạ
giữa đêm trăng, bóng h́nh người lính
trẻ cứ măi chập chờn trong tâm hồn người
đàn anh khiến ông Thành khắc khoải một
nỗi mong đợi khôn nguôi. Không chịu được
nỗi buồn u uẩn đó, ông Thành viết thư
thăm người bạn cũ cùng đơn vị năm
xưa, hỏi thăm đàn em mới biết tin người
lính trẻ tặng ông cây mai quư đă biền biệt
ra đi đúng vào khoảng đêm trăng mùa hè hôm
ấy.
Từ ngày ấy người trong nhà thấy khi
trời nhập nhoạng chiều, gió se sắt thổi
từ bờ sông phả vào sân trước là ông Thành
lặng lẽ cặm ba cây nhang dưới chân cội
mai, nơi cái nhúm đất con con mà người lính
đă mang về từ chiến trường xưa dưới
gốc cây, đôi mắt ông đau đáu một
nỗi buồn dịu vợi. . Hôm đầu tiên nghe
tin người đàn em đă tử trận, ông Thành
ngơ ngẩn suốt buổi chiều cạnh gốc
mai lá xanh mươn mướt, lúc nào ông cũng
chỉ muốn khóc. Khi cặm những cây nhang xuống
đất, ông bật lên khóc rưng rức, rồi vu
vơ mắng yêu vào cái khoảng không trống trải
của hư vô:
- Mồ tổ bây, c̣n trẻ vậy mà sao đi vội
thế!
Mùa Xuân tiếp nối mùa Xuân, người thương
binh giờ đây già đi với mái tóc muối tiêu và
khi gió trở mùa, những vết thương cũ ê
ẩm làm ông khó ngủ hơn. Vẫn chỉ có cây mai
làm bạn để ông hát vu vơ bản nhạc cũ:
"Người về, người về nay
đă bị thương
Nhưng
ḷng vẫn nhớ, người ơi biên cương xa
vời, ơ hờ
Người
về nay đă bị thương...."
Cây mai bây giờ đă thành cội, tính theo tuổi
đời kể từ ngày người lính đem
về tặng ông đến nay th́ nó đă được
sáu tuổi, mỗi độ Xuân về hương
sắc càng rực rỡ theo tuổi dậy th́ của
cô con gái ông Thành đang bước vào tuổi
mộng mơ.
Ông Thành có thêm niềm vui lúc Xuân sang, một lũ
bạn học cùng lớp của con gái ríu rít chen nhau
đứng chụp h́nh dưới gốc mai, cô nào cũng
khoe nụ cười hàm tiếu. Chuyện ấy làm ông
liên tưởng đến mỗi lần hành quân
về thành phố, người hậu phương
đến thăm lính trận từ chiến trường
xa mới về choàng ṿng hoa chiến thắng. Mấy
thằng đàn em của ông khi xung trận ĺ lợm ghê,
vậy mà khi đứng trước giai nhân, lúng túng
vụng về chỉ biết nhe răng ra cười,
đúng là "chí lớn trong thiên hạ, không đong đầy
đôi mắt giai nhân".
Mùa Xuân năm ấy ông Thành vẫn lắng nghe trong
đêm tiếng đại bác ́ ầm từ xa vọng
về thành phố, ánh hỏa châu lơ lửng
giữa đêm đen, chiếc máy bay trực thăng
bắn ra những tia lửa đỏ rực ở vùng
ngoại ô, và bản tin mỗi ngày đọc sao nghe
nặng nề hơn trong ḷng người lính cũ. Ông
thầm nghĩ, ḿnh an phận rồi dù có gửi
lại chiến trường cái chân và những
mảnh đạn ghim vào người vẫn c̣n ê
ẩm lạ, nhưng sao chưa thấy năm nào mùa Xuân
sắp đến mà trời đất lại buồn
như năm nay. Trước Tết ông Thành đă
chọn ngày lặt lá mai, pha mấy chậu nước
ấm tưới vào gốc mai để thúc cho hoa
nở đúng kỳ hạn. Chẳng bao giờ ông Thành
cắt một cành mai để chưng trong nhà hay
tặng cho bằng hữu anh em dù thân t́nh cách mấy.
Ông quan
niệm phải giữ trọn vẹn tất cả
những ǵ của cành mai, như lúc nào ông cũng trân
trọng linh hồn của người đàn em, mà
chẳng những thế cả cái nhúm đất con con
mang theo gốc mai của người lính trẻ đă
chết đem về, ông cũng muốn nó c̣n tồn
tại măi trong mảnh sân này, chỉ ở mảnh sân
này mà thôi . . .
Cũng như mọi năm cây mai ra nụ rất
nhiều, nụ lớn nụ bé chen nhau trên cành chỉ
c̣n thưa thớt ít lá đẹp làm màu xanh cho cây,
cả nhà ai cũng tấm tắc mong đợi khi
chiều ba mươi Tết các nụ hoa đă mơn
mởn lên chúm chím chờ hé nhụy. H́nh như đối
với ông Thành th́ chỉ có cây mai này mới hoàn toàn
đem mùa Xuân đến cho ông, với một nỗi
niềm riêng gửi gấm vào đó mà không cần ai
hiểu, chiều ba mươi Tết cây mai vẫn
hứa hẹn một vẻ đẹp măn khai cho ngày
đầu Xuân đầy hy vọng.
Nhưng không thể ngờ, định mệnh như
một bàn tay tai quái thổi cơn gió hung tàn vào cái
đêm cuối cùng của một Năm, giờ giao
thừa đă qua mà gió ở đâu ào ào thổi qua vườn
làm ông Thành lo lắng thắc thỏm không yên.
Chẳng lẽ không khí chiến tranh hiện diện
trong nỗi thống khổ của dân tộc, đă hơn
hai mươi năm lại gom thành cơn gió oan
nghiệt thổi thốc vào cây mai báo hiệu một mùa
Xuân Khổ chia xa , trong gia đ́nh đang b́nh yên
của ông. Cả nhà đă yên giấc khi nửa đêm
về sáng, ông Thành lại trằn trọc hồi tưởng
đến mùa Xuân trên cánh rừng miền Đông khi
ông c̣n là lính trận, chợt tiếng xào xạc
của cây mai sân trước bị gió xoáy vào trong
đêm trừ tịch, nghe như âm vang của từng
bước chuyển quân năm xưa làm ông rùng ḿnh.
Chợt nhớ đến khuôn mặt của người
đàn em hiện về trong giấc chiêm bao, cũng
đêm đó gió ở đâu lồng lộng quay
cuồng nơi gốc mai sân trước, ông Thành h́nh
dung ra một sự đổ vỡ mà không định
nghĩa được là cho ḿnh hay cho ai. . .
Sáng hôm sau ông dậy sớm, vợ ông đă sửa
soạn bữa cơm cúng đầu năm trên bàn
thờ ông bà tổ tiên, khói hương nghi ngút và
trầm trầm một sự tưởng nhớ
rất thiêng liêng. Ông Thành đốt mấy nén nhang
cắm trên bàn thờ ông bà, rồi đốt thêm ba nén
nhang đem ra cây mai để gọi là mừng tuổi
đất trời và để tưởng nhớ
bạn bè, gọi thầm những h́nh xưa bóng cũ.
Từ trong nhà bà Thành nghe có tiếng rơi của
chiếc nạng gỗ và tiếng kêu thảng thốt
như tiếng khóc khô khốc của ông Thành vọng
lên trong buổi sáng đầu Xuân c̣n mờ hơi sương:
- Trời ơi!
Bà Thành chạy ra sân rồi không tin vào mắt ḿnh. Bao
nhiêu nụ và hoa đều rụng xuống tả tơi
như một tấm thảm trên mặt sân lát gạch
đỏ, c̣n ông Thành th́ ngă lăn ra dưới
gốc cây lịm đi như một xác chết. Mùa Xuân
ấy là mùa xuân năm một chín bảy lăm . . .
Nguyên Nhung
|