Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ là một
trong các tài liệu có ư nghĩa nhất trong lịch
sử của nước Mỹ. Không những Bản
Tuyên Ngôn này công bố Hoa Kỳ là một quốc gia
độc lập mà c̣n hùng hồn đề cập
tới nhiều nguyên tắc trên đó hệ thống
chính trị của Hoa Kỳ được xây
dựng.
Sự việc các nhà lập quốc Bắc Mỹ
viết ra được Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập năm 1776 hay Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ năm
1787 không phải bỗng nhiên mà có. Người dân
Bắc Mỹ vào thời kỳ đó đă bị
ảnh hưởng bởi nhiều sự kiện
của các thời thuộc địa khá lâu dài và
trong gần 200 năm của nền lịch sử
thuộc địa, từ khi thị trấn Jamestown
được thành lập năm 1607 tới Hội
Nghị Lập Hiến năm 1787, các thái độ chính
trị và các h́nh thức chính quyền mới tại Tân
Thế Giới đă được thành h́nh.
Các truyền thống chính trị, luật pháp và chính
quyền của nước Anh đă được mang
qua Bắc Mỹ, đă bị thay đổi để
đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng của
cư dân sống trên lục địa này.
1/ Các di sản chính
trị của nước Anh.
Từ
năm 1066, thời của Vua William nhà chinh phục (the
Conqueror), các người cai trị xứ sở Anh đă
cố công thiết lập nên một chính quyền trung
ương mạnh. Tuy nhiên, họ đă không thể
đạt được một vương quyền
tuyệt đối với quyền lực không giới
hạn và toàn diện giống như các vua chúa của
châu Âu bởi v́ các nhà quư tộc Anh và các gia đ́nh
chủ đất đă nắm giữ một số
thẩm quyền.
Năm 1215, các nhà quư tộc Anh đă nổi dậy,
bắt buộc Vua John phải chấp nhận Bản
Hiến Chương Lớn (the Magna Charta) và bản văn
này đă đặt ra các giới hạn xác định
trên quyền lực của nhà vua. Bản Magna Charta
được coi là nền móng của các tự do
hiến định của người dân nước
Anh. Theo bản văn này, Vua John chấp nhận một
số quyền quan trọng như sự tự do tôn giáo,
sự bảo vệ tài sản tư, việc xét xử
trước một bồi thẩm đoàn và các
giới hạn trong việc đánh thuế. Mặc dù vào
thời đó, Bản Hiến Chương Lớn
chỉ bảo đảm các quyền lợi cho các nhà
quư tộc nhưng đây vẫn là một bước
quan trọng trong việc thiết lập nguyên tắc
về chính quyền có giới hạn (limited government).
Cũng vào thế kỷ 13 đó, có các thay đổi
khác trong việc tổ chức chính quyền của nước
Anh. Quan trọng nhất là sự xuất hiện
của Nghị Viện Anh (Parliament) tức là cơ quan
có quyền lực để làm ra các luật lệ.
Nghị Viện Anh phát xuất từ hội đồng
các tổng giám mục (bishop) và các nhà quư tộc, là
những người cố vấn cho nhà vua.
Tới cuối thế kỷ 13, các thành thị của
nước Anh đă phát triển và trở nên quan
trọng. Tại các địa phương này, các lănh
chúa hay các hiệp sĩ cùng các người dân giàu có
đôi khi được mời tham dự vào các
buổi hội họp của Nghị Viện. Tập
tục này được tiếp nối và nhân viên
của Nghị Viện phải họp riêng rẽ,
tại hai “Viện” (two Houses). Viện Quư Tộc (the
House of Lords) hay Viện Trên gồm có các tổng giám
mục và các nhà quư tộc, họ là những người
thừa kế hay được chỉ định.
Viện này đă chế ngự Nghị Viện cho
tới đầu thế kỷ 18.
Viện Dưới hay c̣n được gọi là
Viện Dân Biểu (the House of Commons) bao gồm các
hiệp sĩ và các đại biểu. Việc bầu
ra đại biểu vào Nghị Viện thời đó
chưa có tính phổ thông, chỉ một số người
có tài sản mới được phép đi bầu và
những người này thường là giáo dân của
Nhà Thờ Anh Cát Lợi (the Anglican Church). Như vậy,
tuy việc chọn lựa đại biểu c̣n bị
giới hạn, nhưng vào thời kỳ đó,
một số người dân Anh đă có quyền
chọn ra người đại diện tại
Nghị Viện. Nguyên tắc chính quyền có đại
diện đă được áp dụng tại các
định chế của các xứ thuộc địa
Anh, để rồi sau này dùng cho cách tổ chức chính
quyền tại Hoa Kỳ.
Bản Hiến Chương Lớn của năm 1215 cũng
đề cập đến nguyên tắc về tự
do cá nhân theo đó các thần dân của nước
Anh có một số quyền mà vương quyền không
được vi phạm, chẳng hạn như sự
xác định sau: “không một người dân
tự do nào bị bắt bớ hay cầm tù mà không có
sự xét xử theo luật pháp bởi các người
đồng đẳng với họ hay bởi luật
pháp của đất nước“. Câu xác định
“xét xử bởi các người đồng đẳng“(peers)
có nghĩa là một người quư tộc chỉ có
thể bị kết tội qua một bồi thẩm
đoàn gồm các người cùng là quư tộc.
Quyền lợi này về sau được nới
rộng ra cho mọi công dân Anh khi có việc xét xử
bởi bồi thẩm đoàn và khi cần tới
việc bảo vệ của luật pháp.
Trước vương quyền, Nghị Viện Anh
đă tranh đấu, đ̣i hỏi nhiều quyền
lợi cho người dân và nhiều giới hạn
đặt lên vương quyền. Trong tiến tŕnh này,
“Bản Đ̣i Hỏi Quyền Lợi" (the
Petition of Rights) năm 1628 cũng là một thành công.
Khi Vua Charles I cho rằng nhà vua đă cai trị nước
Anh do một thứ quyền thiêng liêng (divine right) th́
Nghị Viện Anh đă từ chối cung cấp
tiền bạc cho nhà vua, trừ khi nhà vua đồng ư
với các đ̣i hỏi liệt kê trong Bản
Quyền Lợi kể trên.
Một số điều đ̣i hỏi được
kể như sau:
- Nhà
vua không có quyền bắt giữ các nhân viên
Nghị Viện hay tống giam các công dân nếu không
có lư do hợp pháp.
- Không
được đánh thuế nếu không có sự
chấp thuận của Nghị Viện.
|
Charles I
|
Vua
Charles I đă kư vào Bản Đ̣i Hỏi Quyền
Lợi nhưng rồi đă không giữ lời
hứa. Nhà vua c̣n t́m cách giải tán Nghị Viện,
cai trị nước Anh theo chế độ quân
chủ tuyệt đối. Việc tranh chấp giữa
vua nước Anh và Nghị Viện cuối cùng đă
phải bùng nổ thành cuộc nội chiến năm
1642. Nhờ tài lănh đạo của Oliver Cromwell, các
lực lượng hoàng gia đă thất bại, vua
Charles I bị chặt đầu vào ngày 27-1-1649 và
một nước cộng ḥa được thiết
lập. Năm 1660, nước Anh lại trở về
chế độ quân chủ nhưng từ nay, Nghị
Viện Anh đă hoàn toàn có quyền hành tối thượng,
hơn cả vương quyền.
Tới năm 1688, một biến cố chính trị khác
đă xẩy ra và được gọi là “Cuộc
Cách Mạng Rực Rỡ“ (the Glorious Revolution). Vào lúc
này, Nghị Viện Anh đă chọn ra Nữ Hoàng Mary
II và Vua William III và hai nhà vua này sẵn ḷng kư tên vào
Bản Dân Quyền Anh (the English Bill of Rights).
Qua tài liệu lịch sử này, các nhà cai trị
xứ sở Anh công nhận một số quyền căn
bản của người dân và những cam kết
gồm một số điều như:
1.
quyền của người
dân Anh được đ̣i hỏi vương
quyền trả lời các khiếu nại.
2.
quyền của người
dân Anh được che chở không bị đóng
tiền thế chân (bail) quá đáng và không bị
trừng phạt tàn nhẫn hay bất thường,
3.
quyền của người
dân Anh được xét xử nhanh chóng và công
bằng,
4.
quyền của
Nghị Viện, chứ không phải là nhà vua, chấp
thuận việc duy tŕ một đạo quân trong
thời b́nh,
5.
quyền tự do ngôn
luận và thảo luận trong các buổi hội
họp của Nghị Viện,
6.
quyền của một
số thần dân nước Anh được giữ
và mang vơ khí.
Trong việc điều hành chính quyền của nước
Anh, đă có nhiều thay đổi. Để cắt
nghĩa và bênh vực cho các cải cách này, triết
gia John Locke đă cho xuất bản vào năm 1689-90
cuốn sách có nhan đề là “Hai Khảo Sát
về Chính Quyền“(Two Treatises on Government). Qua tác
phẩm này, John Locke đă làm phát triển hai ư tưởng
mà về sau đă ảnh hưởng lớn lao tới
chính quyền Hoa Kỳ.
John Locke đă đề cao mục đích của chính
quyền qua lư thuyết “Khế Ước Xă
Hội” với mục đích của chính quyền
là phải bảo vệ các quyền căn bản
của người dân, đó là đời sống,
sự tự do và tài sản. Nếu một chính
quyền nào không làm tṛn nghĩa vụ đó th́ người
dân có quyền nổi dậy và lật đổ chính
quyền đó. Các tư tưởng rất tiến
bộ vào thời đó của John Locke đă ảnh hưởng
rất mạnh đến các nhà lập quốc Hoa
Kỳ, đặc biệt là các ông Thomas Jefferson, James
Madison và Benjamin Franklin và được phản ánh trong
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.
Đồng thời với việc phát triển sự
tự do cá nhân, nền luật pháp của nước
Anh cũng được bắt đầu cải
tiến tại Bắc Mỹ. Từ đầu thế
kỷ 12, một hệ thống luật pháp đă thành
h́nh trên toàn thể nước Anh với luật
tập tục (the common law). Loại luật pháp này không
căn cứ trên các điều lệ do cơ quan
lập pháp thông qua, mà được xây dựng
dần dần do các quyết định của các quan
ṭa, đặt căn bản trên các phong tục và
tập quán. Những quyết định pháp lư này
đă trở thành các mẫu mực, các tiền lệ
(precedent) cho các công cuộc xét xử về sau.
Tại nước Anh vào thời đó, Nghị
Viện là cơ quan lập pháp chính thức nhưng
quan ṭa lại là nhà diễn giải và áp dụng
luật pháp. Luật tập tục từ gốc đă
không do các lệnh của nhà vua mà được căn
cứ vào các tập quán, v́ thế người dân nước
Anh cho rằng luật tập tục là thứ bảo
vệ các quyền lợi của họ. Nguyên tắc căn
bản của luật tập tục là luật pháp
được áp dụng cho cả nhà vua lẫn
thần dân và nguyên tắc này đă ở trong các văn
kiện như Bản Hiến Chương Lớn,
Bản Đ̣i Hỏi Dân Quyền và Bản Dân
Quyền Anh. Khi các người dân Anh di cư qua
Bắc Mỹ, họ đă mang theo niềm tin tưởng
vào việc cai trị bằng luật pháp, và tại các
xứ thuộc địa, các nguyên tắc của
luật tập tục đă đóng một vai tṛ quan
trọng.
2/ Chính quyền
tại các thuộc địa Bắc Mỹ.
Vào
thế kỷ 16, các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ḥa Lan và
Anh đă tranh giành nhau đất đai tại lục
địa Bắc Mỹ. Người Anh sau đó đă
kiểm soát được toàn thể phần bờ
biển Đại Tây Dương. Dưới triều
đại Nữ Hoàng Elizabeth I, công ty Virginia của thành
phố London đă được Nữ Hoàng Anh cho
thẩm quyền thiết lập các xứ thuộc
địa tại Tân Thế Giới, rồi vào năm
1607 thị trấn Jamestown được thành lập.
Sau đó là các thuộc địa thiết lập
tại vùng Massachusetts do nhóm người Pilgrims (1620) và
nhóm người Puritans (1628). Đây là những người
muốn rời khỏi nước Anh, di cư qua vùng
đất mới để được hưởng
thụ tự do tôn giáo. Việc thuộc địa hóa
phần đất Bắc Mỹ được tiếp
tục trong 125 năm và xứ thuộc địa
cuối cùng Georgia được thành lập vào năm
1732.
Các thuộc địa tại Bắc Mỹ đă lôi
cuốn nhiều loại người dân của châu Âu,
không chỉ từ nước Anh hay các xứ Tô Cách
Lan, Ái Nhĩ Lan, Wales, mà c̣n từ các vùng đất khác
của châu Âu như nước Pháp và nước
Đức. Có những người đă t́nh nguyện
ra đi do bị đàn áp tôn giáo, do nợ nần không
trả nổi, do muốn mưu t́m một cuộc
sống tốt đẹp hơn, nhưng cũng có
những người dân bị bắt cóc và bị bán
làm nô lệ, họ từ phía tây và phía bắc
của châu Phi. Mặc dù có các nguồn gốc khác
nhau, các người định cư tại các xứ
thuộc địa Bắc Mỹ đều bị
ảnh hưởng bởi di sản chính trị của
nước Anh.
Các người thuộc địa tại Bắc
Mỹ đă mang theo từ nước Anh 4 nguyên tắc
quan trọng để về sau trở thành 4 căn
bản cho tư tưởng chính trị Hoa Kỳ. Các
nguyên tắc này là:
1.
chính quyền có
giới hạn,
2.
chính quyền có đại
diện,
3.
tự do cá nhân,
4.
việc cai trị
bằng luật pháp.
Đây là những tư tưởng và kinh nghiệm
được phát triển trong nhiều trăm năm
của lịch sử nước Anh.
Khởi đầu, những người dân Anh nào qua
sống nơi xứ thuộc địa Bắc Mỹ
đều do sự cho phép của vương quyền
Anh qua h́nh thức một văn bản pháp lư hay
hợp đồng (charter). Các công ty mậu dịch Anh
đă được phép lập nên các thuộc địa
tại miền Tân Anh Cát Lợi và tại xứ Virginia
và căn bản pháp lư kể trên đă cho cư dân khá
nhiều quyền tự trị. Đối với các
phần đất miền trung và miền nam, việc
khai thác được giao cho các cá nhân hay các bạn bè
và bà con của nhà vua. Những cá nhân này được
gọi là “chủ nhân“ (proprietors), đă tổ
chức các thuộc địa theo ư của họ. Do
sự cho phép từ các hợp đồng, nên vào đầu
thế kỷ 18, phần lớn các công ty mậu
dịch đă bị rút đi các giấy phép và các
thuộc địa được đặt dưới
quyền của hoàng gia.
Từ nay, phần lớn các thuộc địa đều
có một thống đốc, một hội đồng
cố vấn và một hệ thống ṭa án. Thống
đốc là một nhà quư tộc được nhà
vua Anh chỉ định hay là một chủ nhân
được sự chấp thuận của nhà vua.
Vị thống đốc sau đó chọn ra các cố
vấn, là những người có cùng quan điểm
chính trị. Thống đốc và các cố vấn là
sợi dây nối với chính quyền Anh và thi hành các
chính sách của nước Anh. Dần dần, Hội
Đồng Cố Vấn trở thành Viện Trên
của cơ quan lập pháp thuộc địa đồng
thời cũng là ṭa án cao cấp nhất.
|
The House of Burgesses
|
Trong
khi vị thống đốc và hội đồng
cố vấn của ông ta đại diện cho
thẩm quyền của nước Anh th́ người dân
thuộc địa lại đ̣i có quyền bầu ra
các hội đồng đại biểu. 12 năm sau
cuộc định cư tại Jamestown, một hội
đồng đầu tiên làm ra luật pháp được
thành lập năm 1619 tại xứ thuộc địa
Virginia. Từ mỗi miền định cư nhỏ, các
đại biểu hay burgesses được bầu vào
hội đồng, v́ vậy nghị viện của
Virginia được gọi là Ṭa Nhà Burgesses (the House
of Burgesses) và mặc dù vài năm sau, khi nhà vua nước
Anh hủy bỏ bản hợp đồng với công
ty Virginia, Ṭa Nhà Burgesses vẫn c̣n tồn tại.
Truyền thống về tự quản trị cũng
được duy tŕ tại phần đất Tân Anh Cát
Lợi. Ngày 21-11-1620, các người Pilgrims đă lên
bờ tại Princetown, Mass., và trước khi đổ
bộ, họ đă đồng ư lập ra và kư tên vào
“Bản Điều Lệ Mayflower” theo đó
mọi người đều bằng ḷng sống dưới
một chính quyền mà sau này sẽ “làm ra các
luật pháp đúng đắn và công bằng… dùng cho
các điều tốt lành của thuộc địa”,
và một người trong bọn họ được
bầu làm thống đốc.
Tập quán có đại diện tại các hội
đồng quản trị địa phương
được thấy tại mọi xứ thuộc
địa và vào các thời kỳ đó, chỉ
những người da trắng, có tài sản mới
được bầu làm đại biểu. Điều
kiện để được bầu cử thay đổi
từ xứ này qua xứ kia nhưng thông thường
th́ đại biểu phải là những người có
một nông trại nhỏ hay các cơ sở thương
mại tại miền Bắc và các đồn điền
lớn tại miền Nam.
Năm
1636, hai thuộc địa Rhode Island và Connecticut
được thành lập. Ông Roger Williams và các người
bất đồng tôn giáo đă bị nhà thờ Anh
bắt buộc phải rời khỏi miền
Massachusetts của nước Anh, và do vậy, ông Williams
và các đồng chí đă thành lập ra một
thứ chính quyền tách biệt khỏi nhà thờ. Khi
vương quyền Anh được phục hồi năm
1660, Vua Charles II đă cấp cho xứ Rhode Island một
hợp đồng qua đó các người thuộc
địa được quyền chọn ra vị
thống đốc và các phụ tá cũng như các
đại biểu, và vị thống đốc không có
quyền cấm đoán các hoạt động của
hội đồng đại biểu, một hành động
thường xẩy ra tại các xứ thuộc địa
khác.
C̣n tại xứ Connecticut, thuộc địa này
được thành lập do hợp đồng của
Vua Charles II vào năm 1662 và một loại hiến pháp
đầu tiên được viết ra tại Bắc
Mỹ, đó là văn bản mang tên là “Các
Lệnh Căn Bản“ (the Fundamental Orders). Văn
bản này đ̣i hỏi một chính quyền có
trật tự và hợp lư, công nhận các người
dân tự do (freemen) của các thị trấn là
giới thẩm quyền cao cấp nhất. Người
dân tự do có quyền triệu tập hội nghị,
bầu ra thống đốc và các viên chức ṭa án.
Như vậy, cho tới thập niên 1750, chỉ có hai
xứ thuộc địa được quyền
tự lựa chọn các thống đốc, đó là
2 xứ Rhode Island và Connecticut và hai xứ này đă
sửa đổi một phần bản hợp đồng
thuộc địa ban đầu để trở thành
các hiến pháp của tiểu bang.
Qua các thống đốc thuộc Hoàng Gia Anh, các
hội đồng được chỉ định và
qua các cách kiểm soát khác, có vẻ như nước
Anh đă chi phối mọi sinh hoạt chính trị
của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Nhưng
từ năm 1760, người dân thuộc địa
đă dùng các hội dồng được bầu ra,
tức là các Viện Dưới, để chi phối
nền lập pháp tại mọi địa phương.
Có ba lư do khiến cho việc chuyển quyền
xuống các Viện Dưới được thực
hiện.
1.
Thứ nhất các nhà làm luật địa
phương đă được sự ủng hộ
của dư luận dân chúng, bởi v́ dân chúng đă
coi các đại biểu của họ là chính quyền
chính thống, hợp pháp.
2.
Thứ hai, do truyền thống đặt
ra từ Nghị Viện Anh, các hội đồng dân
cử địa phương có quyền quyết định
về lương bổng của vị thống đốc
và ấn định các thứ thuế địa phương.
Các đại biểu của dân chúng thường
đ̣i hỏi được những thứ ǵ họ
cần, bằng cách cắt giảm ngân quỹ của
vị thống đốc.
3.
Thứ ba, một số các hội đồng
địa phương đă được chính
quyền Anh cho phép quyết định về các chính sách
thuộc địa.
Mặt khác, xét về phương diện kinh tế, các
thuộc địa Bắc Mỹ là một thị trường
của hàng hóa sản xuất từ nước Anh, là
nơi cung cấp các tài nguyên cho các nhà máy đặt
tại nước Anh và người dân thuộc địa
phải trung thành với nước Anh. Đó là nguyên
tắc, nhưng thực tế lại khác.
Nước Anh ở xa, cách các thuộc địa 3,000
dặm nên việc liên lạc và các mệnh lệnh
từ London đă phải mất cả tháng trường
mới đến được Bắc Mỹ và v́
vậy, vương quyền Anh không thể kiểm soát
được các biến cố xẩy ra hàng ngày
tại các xứ thuộc địa. Trong khi đó, các
người dân thuộc địa cũng bắt đầu
lập ra các cơ xưởng, các cơ sở mậu
dịch để cạnh tranh với các hàng hóa
của nước Anh. Do ở xa, các người
thuộc địa đă được hưởng khá
nhiều tự do và chỉ phải trả thuế
rất thấp.
Sự liên lạc giữa các thuộc địa
Bắc Mỹ và chính quyền Anh đă không bị thay
đổi cho tới thập niên 1760, khi xẩy ra
cuộc “Chiến Tranh Pháp và Da Đỏ“ (the French
and Indian War), dẫn tới cuộc “Chiến Tranh
7 Năm“ (the Seven Years’ War), lan rộng khắp châu
Âu và tới cả Ấn Độ. Kết quả
của cuộc chiến này là nước Pháp phải kư
Ḥa Ước Paris năm 1763, công nhận nhường
hết đất đai tại Bắc Mỹ cho nước
Anh.
|
George III
|
Nước
Anh tuy thắng trận thật nhưng đă mang nợ
v́ các chi phí chiến tranh trong nhiều năm. Và quan
trọng hơn nữa, quân đội Anh vẫn
phải bảo vệ các thuộc địa Bắc
Mỹ tránh khỏi sự quấy phá của binh lính Pháp,
các bộ lạc da đỏ và các toán quân Tây Ban Nha
ở phía nam. Phí tổn bảo vệ các xứ
thuộc địa đă làm cho các người
chịu thuế tại nước Anh phản đối,
họ đ̣i hỏi ngưới dân Bắc Mỹ
phải gánh chịu thứ phí tổn quốc pḥng
đó. Năm 1760, Vua George III lên ngôi khi 22 tuổi, đă
cùng Nghị Viện Anh thông qua một số luật
mậu dịch để thu lợi tức từ các
xứ thuộc địa Bắc Mỹ, nơi thường
xẩy ra các vụ buôn lậu, trốn thuế.
Sáu năm về trước, người Anh đă kêu
gọi các đại biểu thuộc địa
hội họp tại Albany, New York, để thảo
luận về các hậu quả của chiến tranh. Chính
trong cuộc hội họp này, ông Benjamin Franklin đă
đề cập tới một chương tŕnh đoàn
kết lại các xứ thuộc địa, được
gọi là “Kế hoạch thống nhất Albany“
(the Albany Plan of Union) qua đó có gợi ư một chính
quyền liên minh thuộc địa để giải
quyết các vấn đề thuế vụ, vấn
đề người da đỏ và việc thiết
lập nên quân đội với hải quân. Kế
hoạch Albany đă bị các hội đồng
thuộc địa bác bỏ v́ họ e sợ một
chính quyền trung ương mạnh và các nhà chức
trách Anh cũng e ngại ban cho các thuộc địa quá
nhiều quyền lực. Dù sao, kế hoạch Albany cũng
đă là một trong các bước đầu của
phương cách đoàn kết các thuộc địa.
Sau đó, chính quyền Anh đă thông qua Đạo
Luật Tem Thuế năm 1765 (the Stamp Act of 1765), đánh
thuế vào mọi ấn phẩm kể cả báo chí, hóa
đơn, văn bản tư pháp, các thứ lịch và
các cỗ bài. Quyết định bất công này đă
làm cho người dân thuộc địa Bắc Mỹ
bất măn. Họ đ̣i hỏi rằng chỉ các
đại biểu do họ bầu lên mới có
quyền quyết định về thuế vụ dùng
tại các xứ thuộc địa.
Sau đó, đạo luật Townshend thông qua năm 1767
của nước Anh đánh thuế vào mọi hàng hóa
như giấy, thủy tinh, sơn, trà… làm cho các
xứ thuộc địa Bắc Mỹ cùng đứng
lên phản đối. Đạo luật Trà được
Nghị Viện Anh thông qua năm 1773, để cứu
nguy công ty Đông Ấn, đă gây ra “Biến
Cố Trà Boston“ (the Boston Tea Party), đă giúp cho
sự đoàn kết của các xứ thuộc địa.
|
Quốc Hội Lục Địa
Lần Thứ Nhất
|
Ngày
5 tháng 9 năm 1774, các đại biểu của 12
xứ, trừ xứ Georgia, đă hội họp tại
thành phố Philadelphia để cứu xét các liên
hệ với nước Anh. Quốc Hội Lục
Địa Lần Thứ Nhất này đă gồm các
nhà chính trị xuất sắc như các ông George
Washington, John Adams, Samuel Adams, Patrick Henry, John Jay, Richard Henry
Lee, John Rutledge và Roger Sherman…
Nước Anh đă đối phó với Quốc
Hội này bằng các biện pháp mạnh mẽ hơn.
Tháng 4-1775, quân đội Anh được phái tới
hai thị trấn Lexington và Concord để phá hủy
các kho vơ khí của dân quân thuộc địa và
bắt giữ hai ông John Hancock và Samuel Adams v́ tội
phản nghịch. Chiến tranh địa phương
đă bùng nổ và vào ngày 10-5-1775, Quốc Hội
Lục Địa Thứ Hai hội họp tại
Philadelphia, để rồi trở nên chính quyền
Mỹ đầu tiên, tồn tại tới năm 1781.
Ngày 7 tháng 6 năm 1776, Quốc Hội Lục Địa
Thứ Hai đă cứu xét nghị quyết của ông
Richard Henry Lee đ̣i gián đoạn hoàn toàn mọi liên
hệ với nước Anh và sau đó, đồng
thanh chấp thuận “Bản Tuyên Ngôn Độc
Lập Hoa Kỳ” vào ngày 4 tháng 7 năm 1776.
Phạm
Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia,
Western Civilizations by Robert E. Lerner, Standish Meacham & Edward
Mcnall Burns, W.W. Norton & Co., Inc., 1993.
|