Đời tù Hải Quân Trung Úy Nguyễn Thành Trạng và cuộc ‘nổi loạn’ đêm Giáng Sinh 1978 Văn Lan/Người Việt |
Sinh
Viên Sĩ Quan Hải Quân Nguyễn Thành Trạng tại
trường Hải Quân OCS Hoa Kỳ năm 1970. (H́nh: Văn
Lan/Người Việt chụp lại) WESTMINSTER,
California (NV) –
Được gia nhập quân chủng Hải Quân
Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) để thỏa chí
hải hồ, cưỡi lên đầu ngọn sóng trong những
chuyến hải hành là mơ ước của
bao thế hệ thanh niên thời tao loạn. Chàng sinh viên
Nguyễn Thành Trạng cũng trong số đó, xếp
bút nghiên lên đường ṭng quân. Tiếp
phóng viên Người Việt tại công viên Bowling
Green, Westminster, ông Trạng kể: “Sau trận Mậu
Thân 1968, khi tôi đang là sinh viên Đại Học Khoa
Học Sài G̣n th́ Cộng Sản mở đợt
tấn công vào miền Nam, cùng lúc lệnh tổng động
viên được ban hành. Lúc ấy, sẵn mộng
hải hồ, tôi bèn xin gia nhập quân chủng Hải
Quân đang tuyển Khóa 20 Sĩ Quan Hải Quân tại
Nha Trang.” “Nhưng
sau đó Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam
gởi tôi qua Mỹ học khóa Hải Quân và tốt
nghiệp Khóa 6 trường OCS (Naval Officer Candidate School),
bản doanh tại Newport, tiểu bang Rhode Island, Hoa
Kỳ. Đây là một trong những trường đào
tạo sĩ quan Hải Quân nổi tiếng của Hoa
Kỳ, từng có sáu vị tổng thống Hoa Kỳ
xuất thân từ trường này, đó là các
cựu Tổng Thống John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson, Richard
Nixon, Gerald Ford, Jimmy Carter, và George H. W. Bush,” ông nói. Ông
Trạng cho hay lúc mới ra trường Hải Quân OCS,
kỷ niệm đẹp không bao giờ quên trong đời
là khi ông được làm phụ tá sĩ quan trưởng
phiên hải hành, phụ giúp người chỉ huy thâm
niên hơn, mục đích là để cho cơ thể
chịu được những cơn say sóng, thích
ứng với sóng gió, làm quen với đối vật
trên biển. “Tàu
đi tuần sáu ngày mới được lên bờ
một lần, ai đă từng là chiến sĩ
Hải Quân mới biết cơ thể phải chịu
đựng say sóng khổ sở như thế nào, đến
nỗi có câu thơ được lưu truyền ‘Hỡi
biển cả giờ đây ta mới biết/ Mộng
hải hồ giết chết cuộc đời trai.’ Khi ra biển
mới biết say sóng như thế nào, có những cơn
say sóng phải ói ra bọt, tới mật vàng, cuối
cùng là ói ra máu,” ông nhớ lại. “Nhớ
nhất là lần đầu tôi đi biển, ra
tới Côn Đảo khi trở vô bờ, nằm nh́n lên
trần của chiến hạm thấy quay cuồng,
những con số trên tờ lịch chập chờn lên
xuống như trên sóng biển, nhưng rồi cơ
thể cũng quen dần. Kinh nghiệm của tôi để
quen với sóng gió là đừng thức khuya, nhất là
mấy anh em hay nhậu với bạn bè thâu đêm
suốt sáng trước khi ra khơi là coi như tiêu,” ông vui vẻ kể. Lúc
đó ông Trạng thường xuyên đi tuần trên
chiếc hộ tống hạm Nhật Tảo HQ.10 do Hải Quân Thiếu Tá Lê Văn Thự chỉ
huy, sau đó do
Hải Quân Trung Tá Nguyễn Thái Lai chỉ huy, đi
tuần từ vĩ tuyến 17 Vùng 1 Duyên Hải cho
tới Vùng 5 Duyên Hải, từ Côn Đảo cho
tới mũi Cà Mau. Sau
hai năm, ông được đổi về Giang Đoàn
47 Ngăn Chận, hoạt động vùng Đồng Tháp
Mười, Mộc Hóa, Tuyên Nhơn, Tuyên B́nh, Mộc Hóa,
Kiến Tường, thuộc Vàm Cỏ Tây. Sau đó
lại về Giang Đoàn 44 Ngăn Chận, hoạt
động vùng Bến Lức, Nhật Tảo, Lương
Ḥa Thượng, Lương Ḥa Hạ, Hậu Nghĩa,
Trà Cú, Trảng Bàng, thuộc Vàm Cỏ Đông. “Tàu
của tôi thường đi tuần trên sông rạch,
phối hợp với Bộ Binh, tùy theo tàu, có khi
chở lính Bộ Binh đi hành quân, tối đi
tuần tiễu trên sông, cũng có mấy lần đụng
độ Việt Cộng, bị phục kích mấy
quả B40 nhưng may không hề hấn ǵ. Tôi thấy
thương hết sức những người lính
chiến miệt Kiến Tường, Đồng Tháp Mười,
nhất là những anh em ở trong đồn ‘Ba
Thằng Minh,’ suốt ngày trấn thủ trong đồn,
cả vợ con người lính cùng ở trong đó,
chiến đấu rất gan ĺ. Lúc đó tôi là
thiếu úy, cấp nhỏ nên nhiều khi ở cùng
với họ mới hiểu được đời
lính Địa Phương Quân và Nghĩa Quân như
thế nào, họ chính là những anh hùng!” ông
Trạng kể qua đời lính của ḿnh lúc
hoạt động trên các vùng sông rạch. Ông
Nguyễn Thành Trạng, chủ tịch Hội Liên Vùng
tại trại Bataan Philippines năm 1988. (H́nh: Văn
Lan/Người Việt chụp lại) Dùng
dằng nửa ở nửa đi ngày 30 Tháng Tư Tối
ngày 29 Tháng Tư, 1975, ông Nguyễn Thành Trạng và
đồng đội c̣n trên chuyến tàu pḥng thủ
hải cảng Vũng Tàu, lúc đó đang ở vùng
cửa biển Cần Giờ, đang chờ lệnh có
thể di chuyển qua Côn Đảo hoặc Phú
Quốc. Tới sáng 30 Tháng Tư, 1975, qua radio nghe
được lệnh của Tổng Thống Dương
Văn Minh, kêu gọi quân đội bỏ súng đầu
hàng, ông bần thần. “Lúc
đó rất nhiều tàu lớn từ Sài G̣n ra
tới Cần Giờ, nếu muốn theo đi luôn cũng
dễ. Nhưng tôi quyết định ở lại,
theo chiến hạm 457 của Đại Úy Dương
Ngọc Chấn, từ ngoài biển vô bờ. Đến
chiều 30 Tháng Tư, ông Chấn ghé tàu vô bờ, tôi
đổi ư, lại muốn đi theo tàu ông Chấn ra
khơi, khi chạy tới Côn Đảo th́ hạm
đội Việt Nam đóng ở đó đă rút
hết đi qua vịnh U.S Naval Subic ở Philippines
hết rồi. Cuối cùng ông Chấn lại quay
trở về Vũng Tàu, nên tôi cũng ở lại luôn,”
ông kể thêm. “Coi
như số phận dung rủi cho tôi phải ở
lại quê hương, kéo dài thêm 6 năm 8 tháng 20 ngày
ở tù trong ‘trại cải tạo,’ nhưng nhờ
vậy mà tôi có dịp hiểu Cộng Sản nhiều
hơn. Qua đây những khi họp cộng đồng
mới giải thích cho các em hậu duệ VNCH, hoặc
các em sinh ra ở Mỹ biết được Cộng
Sản là như thế nào,” ông Trạng nhớ
lại thời gian đi qua nhiều trại tù. Rồi
ông bắt đầu đời tù tại trại
Rạch Dừa, Vũng Tàu, nơi tập trung khoảng
vài trăm quân nhân đủ các binh chủng, chờ sáng
hôm sau Việt Cộng cho xe chở vô Long Khánh, nhốt
tới trưa, đưa thêm một số quân nhân Sư
Đoàn 5, Tiểu Khu B́nh Dương, cùng các anh em các nơi
khác tập trung về, chờ sàng lọc lại,
một số đưa ra Bắc. Ở
trại Long Khánh khoảng hơn một năm, ông
lại bị chuyển về Thành Ông Năm, Hóc Môn, nơi
có nhiều trại từ T1 đến T6, trại
cuối cùng là nhốt riêng nữ quân nhân. Những chuyện kể trong đời
tù Riêng trại T4, nơi ông Trạng
ở, được bọn cai tù liệt kê là
trại “đại phản động,” gồm
nhiều thành phần chống “cải tạo,” mà người
tù đặt tên là “Trại
Trừng Giới.” “Trong đó có một người tù
bất khuất, anh Vơ Văn Tưng, người
được anh em rất kính nể, khi lúc mới vô
nhốt ở Hóc Môn, ai cũng phải học 10 bài thu
hoạch chính trị, sau đó làm bài tổng kết
thu hoạch,” ông nhớ lại. Ông kể: “Thường bọn cai tù
hay nhục mạ quân nhân Quân Lực VNCH là bọn
phản quốc, chạy theo đế quốc Mỹ, là
có tội với tổ quốc Việt Nam. Riêng anh Tưng
không đồng ư, lư luận với bọn cai tù
rằng nếu chúng tôi có tội, th́ chỉ có tội
với đảng Cộng Sản Việt Nam, chứ không
có tội với Tổ Quốc Việt Nam. Nếu có
tội th́ tất cả người miền Nam đều
có tội với tổ quốc hết sao? Không
được nhập nhằng gán ghép Tổ Quốc
Việt Nam và đảng Cộng Sản là một, hai
danh từ này hoàn toàn đối nghịch!” “Bọn cai tù tức tối nhốt anh
Tưng vào conex (loại thùng lớn bằng sắt, như
một nhà kho nhỏ quân đội Mỹ dùng để
chứa đồ), để riêng một ḿnh, nửa
đêm bọn chúng ria hàng loạt đạn vô,
lủng hết khắp thùng. Sáng ra bọn chúng chắc
mẩm anh Tưng đă chết, nhưng khi mở
cửa bọn chúng mới biết anh c̣n sống. Hóa ra
khi bọn chúng ở ngoài rải đạn, chúng
chỉ bắn ở phía dưới chân của conex, nhưng
anh Tưng chắc có vơ, đă nhảy lên bám vào nóc bên
trên, nên thoát chết, chỉ bị nát bàn chân. Bọn
chúng thấy vậy bèn đem anh nhốt lại vào
conex, không cần chữa trị cho anh,” ông Trạng
kể chuyện về người tù thoát chết. “Có lúc mấy anh em tù khi đem cơm
tiếp tế thường lấy chút cơm trộn
với viên B1, hoặc đường để ăn
cho có chất. Mấy năm liền như vậy,
mỗi ngày chỉ được ra ngoài trời 15 phút
để tắm rửa, cơ thể chỉ c̣n da
bọc xương, vậy mà anh Tưng không chết, chân
từ từ lành hẳn,” ông cho hay. Ông Trạng kể thêm: “Sau đó
bọn cai kêu anh Tưng lên làm bài thu hoạch như cũ,
anh vẫn không chịu làm, lại bị nhốt riêng
một chỗ riêng biệt ở khu biệt lập. Có
hôm tôi được vô dọn dẹp vệ sinh,
thấy da anh trắng bệt v́ không có ánh sáng
trời, như bộ xương khô biết đi, tôi
chỉ đứng chào, và anh Tưng có gởi lời
thăm anh em, sau đó anh trở vô conex liền.” Ông Nguyễn Thành Trạng và Ḥa
Thượng Thích Quảng Thanh lúc sinh thời, viện
chủ chùa Bảo Quang, Santa Ana, trong Lễ Hội Dâu Tây
Garden Grove năm 2018. (H́nh: Văn
Lan/Người Việt chụp lại) Chuyện “kinh khủng” xảy ra
lần đầu ở Đội 3/T4 Một giờ đêm rạng sáng ngày 2
Tháng Chín, 1978, ở T4 có một nhà sơn trắng
rất lớn, kế bên Đội 3 ông Trạng đang
ở, bên ngoài hội trường xảy ra một
việc náo động cả khu trại. “Đó là bức h́nh Hồ
Chí Minh trên bàn thờ bị đập phá tan, bị trét
phân vô mặt, kèm theo những câu khẩu hiệu
‘Đả
đảo đảng Cộng Sản Việt Nam độc
tài khát máu, tay sai Nga Xô và Trung Cộng,’ ‘Hoan hô tinh
thần chiến đấu của Quân Lực VNCH,’
‘Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm’… tất
cả đều viết bằng lối khắc chữ
in trên giấy để không thể nhận diện
được nét chữ của ai. Sáng hôm sau Bộ
Chỉ Huy đến không phải để dẹp
loạn, mà chúng chỉ chụp h́nh hiện trường
sau đó gọi lên Quân Khu 7, là cấp lớn xuống
giải quyết,” ông kể. “Chúng tập hợp cả T4 lại,
sau đó đưa giấy bắt mọi người
viết chữ trên đó để truy t́m thủ
phạm. Nhờ chúng tôi cảnh giác trước,
chỉ khắc chữ bằng dao, viết bằng
chữ in hoa nên cai tù không nhận diện được
chữ viết của ai. Bọn chúng tức tối truy
lùng thêm ba lần nữa cũng không t́m ra manh mối.
Từ đó trở đi chúng luôn nghi ngờ Đội
3 của bọn tôi chuyên môn xách động chống
lại chúng. Đặc biệt chúng luôn nghi ngờ tôi
là một trong những người chủ mưu,” ông
Trạng cười cho biết. Ông kể tiếp: “Một buổi trưa,
bọn chúng kêu tên một nhóm người, đưa
đến một nơi khác để ‘học
tập’ tốt hơn, trong đó có tôi, hành trang lên
đường mỗi người được
một nắm cơm và con cá khô, chuyển thẳng lên
trại Suối Máu, Tân Hiệp. Khi đang xét đồ
ở cổng trại, tên sĩ quan bộ đội
lớn giọng gọi giật ngược. Có
chuyện ǵ nữa đây? Sau khi tôi xưng danh tánh, hóa
ra bọn chúng cho biết chọn tôi làm nhà trưởng.” “Tôi nghĩ ngay trong đầu là
bọn cai tù đă có ư nghi ngờ tôi là kẻ cầm
đầu trong những chuyện lộn xộn xảy
ra trong tù, nên cho tôi làm nhà trưởng là có ư theo dơi
tôi, chứ chẳng có ǵ tốt lành cả, từ
đó tôi càng để ư nhiều hơn đến
những mưu mô xảo quyệt bọn chúng giăng
bẫy để bắt tôi,” ông kể thêm. Khoảng hai tháng sau, trại Suối Máu
do quân đội cai quản bàn giao lại cho công an
quản lư. “Bọn giám thị công an cho sắp
xếp lại, gọi là Đội, có từ K1 đến
K6, riêng K6 dành cho những người bệnh,” ông cho
hay. Ông Trạng thuộc K1, được
chỉ định là đội trưởng Đội
13 kiêm trưởng khối an ninh trật tự của
trại, ngoài ra có khối báo chí văn nghệ,
khối vệ sinh. Trong nhiệm vụ này, ông Trạng
đă âm thầm giúp các anh em trong K1 những lúc phá
kẽm gai đi qua các trại khác, khi bị bắt
về có lúc bị đánh, ông Trạng phải lên xin
xỏ đủ điều để lănh về. Cũng
có những buổi họp của các binh chủng
Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, hay Biệt
Động Quân, Hải Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh…
với đầy đủ lễ nghi quân cách. Ông
Nguyễn Thành Trạng kể chuyện phục vụ
Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa được 6 năm
20 ngày. (H́nh: Văn Lan/Người Việt) Cuộc
biểu t́nh lịch sử trong trại tù Suối Máu Để
chuẩn bị cho Lễ Giáng Sinh năm 1978, ông
Nguyễn Thành Trạng kể: “Trước đó
mấy anh em Công Giáo khi đi đào giếng đă móc
đất sét về nặn tượng Chúa Hài Đồng,
Ba Vua và các thiên thần, c̣n hang đá th́ làm bằng
giấy bao xi măng phết lên lớp bồ hóng đen
rất giống như đá thật, có cả những
chú lừa bên máng cỏ.” “Phải
nói đêm dâng Thánh Lễ Giáng Sinh đầu tiên trong
trại tù thật nhiều cảm xúc, khi toàn thể các
tù nhân ban đầu khoảng vài chục người
tham dự, tụ họp ở khoảng đất sân
sau của Đội 16 thuộc K1. Nhưng sau đó toàn
thể anh em trong tù, cả lương và giáo gần
6,000 tù nhân ở các K trong trại, cùng lúc dự
lễ trong khung cảnh thiêng liêng, dự định do
Linh Mục Trần Văn Thông làm chủ lễ, nhưng
chưa kịp thực hiện th́ bị giải tán, anh
em nhanh chóng đưa ông về trại an toàn,” ông
kể tiếp. “Cũng
có tổ chức Lễ Giáng Sinh theo từng K, mọi người
có một đêm Giáng Sinh vui vẻ, nhưng khoảng
gần nửa đêm, khi bầu trời đêm vắng
lạnh bỗng vang lên tiếng chuông vọng lại
từ các nhà thờ ở Hố Nai, cùng lúc nghe tin
ở K1 đang tổ chức Giáng Sinh bị bọn công
an lao vô nhanh chóng bắt ba anh Rĩnh,
Hoàng, và Bé lôi ra ngoài, đóng cổng lại,” ông kể thêm. Sau
đó là biểu t́nh, cuộc đối đầu
nổ ra với tất cả âm thanh vang rền của
các ca, muỗng, thùng sắt và tất cả những ǵ
có thể gơ được, do tất cả các K đồng
loạt hưởng ứng. Ông
cho hay: “Lúc đó toàn trại Suối Máu ch́m trong bóng
đêm, nhưng tất cả anh em trong tù khoảng hơn
6,000 người từ K1 đến K5 đều
tụ tập tại sân bóng chuyền bên ngoài, cùng hát
vang bài hát Giáng Sinh ‘Hang Belem’ sáng tác của Hải
Linh-Minh Châu với câu hát quen thuộc ‘Đêm Đông
lạnh lẽo Chúa sinh ra đời/ Chúa sinh ra đời
nằm trong hang đá nơi máng lừa…’” Lời
bài hát cứ lặp đi lặp lại vang lên êm
đềm, tha thiết vang khắp cả trại
khiến cai tù tức tối, tất cả bộ đội,
công an với súng ống chạy rầm rập,
tiếng đạn lên ṇng, tiếng súng bắn ngoài
trại, cả tiếng bánh xe thiết giáp của
Tỉnh Đội Đồng Nai tăng cường
chạy đến bắn chỉ thiên uy hiếp. “T́nh
h́nh hết sức căng thẳng. Trong khi bên ngoài
trại, bọn cai tù bắt loa kêu gọi mọi người
phải giải tán, nhưng bên trong mọi người
đều không giải tán, bắt loa làm bằng
giấy kêu gọi phải thả ba người đă
bị bắt trước, rồi mới đồng ư
giải tán,” ông kể. Ông
kể tiếp: “Có lẽ tiếng hát tha thiết
của người tù làm bọn Cộng Sản
hoảng sợ, một lúc sau bọn chúng trả
lại ba người đă bị bắt. Sau này
mới biết đêm đó tiếng hát ở trại
Suối Máu ḥa cùng với tiếng hát của người
dân ở bên ngoài trại đă vang xa đến nhà dân
ở tận Hố Nai, và các đài BBC, VOA cũng tường
thuật đầy đủ tin tức một tuần
sau đó.” (Văn Lan) [qd] Kỳ
cuối: Hải Quân Trung Úy Nguyễn Thành Trạng, thuyền trưởng
vượt biển t́m tự do
|