Ga Thạch
Long
Nguyễn Tường Thiết |
||||||||
Thạch Long là tên một thị trấn
ở bên Tàu, nằm bên con đường sắt
Quảng Châu - Hồng Kông, nơi chú Long tôi, nhà văn
Hoàng Đạo, đă gửi nắm xương. Năm chú Long mất tôi c̣n bé. Tôi không có
một kỷ niệm nào với chú. Tôi không biết ǵ
về chú ngoài những kiến thức mà bất
cứ một học sinh nào của miền Nam cũng
phải biết khi học về Tự Lực Văn
Đoàn. Ngay cả truyện của chú tôi cũng lười
đọc. Đời chú thế nào tôi không mấy
quan tâm. Thế nhưng cái chết và trường
hợp xung quanh cái chết của chú th́ khác. Nó ám
ảnh tôi đă từ lâu, có lẽ từ những ngày
tôi c̣n bé. Không hiểu v́ sao mà cứ hễ nhắc
đến chú Long th́ óc tôi lại thoáng hiện lên h́nh
ảnh ga Thạch Long. Trong trí tưởng tôi nó luôn luôn
là một nhà ga buồn cô quạnh bên một con
đường sắt ở một chốn nào rất
là xa xôi. Năm mươi năm trước ngày 22 tháng 7
năm 1948 chú tôi đă gục chết v́ bệnh tim
nghẽn trên một chuyến xe hoả đi từ
Hồng Kông đến Quảng Châu. Khi con tàu ngừng
ở một nhà ga sau đó xác chú tôi được
mang xuống đặt tại nhà quàn và được
chôn cất vài hôm sau trong một mộ địa
gần ga. Tôi được nghe chú Bách tôi kể
lại ngày chôn cất là một buổi chiều
trời mây u ám một nhóm người lặng lẽ
theo sau quan tài. Trong số có cha tôi, có chú Bách và ông Vũ
Hồng Khanh. Năm mươi năm sau ngày 18 tháng 9 năm
1998 trên một chuyến xe hoả đi từ Quảng
Châu đến Hồng Kông tôi có dịp đi ngang qua cái
ga Thạch Long ấy. Năm đó lần đầu tiên
từ ở đất Mỹ chúng tôi đi thăm nước
Tàu. Trước hôm cuối cùng của chuyến du
ngoạn 16 ngày do một cơ quan du lịch tổ
chức chúng tôi được hướng dẫn thăm
viếng hai nơi là Quảng Châu và Hồng Kông. Để
nối hai thành phố ấy tôi không ngờ là ḿnh
lại được di chuyển bằng tàu hoả. Như
vậy là trên cùng một tuyến đường
sắt dài 200 ki-lô-mét chú tôi và tôi đă đi trên hai
chuyến xe lửa ngược chiều nhau. Hai
chuyến tàu không bao giờ gặp. Bởi lẽ chúng
cách nhau đúng một nửa thế kỷ. Nhưng ngày
hôm ấy tôi đă để cho hai chuyến tàu giao
nhau tại ga Thạch Long. Trong tâm tưởng.
Chuyến xe hoả vừa rời thành phố
Quảng Châu. Nơi đến, Hồng Kông, sẽ là
chặng chót của chuyến du ngoạn Trung Quốc, trước
khi chúng tôi bay trở về Mỹ. Trên xe hoả đoàn
du khách yên lặng. Tất cả h́nh như đều
mệt mỏi sau một chuyến đi dài. Với
bốn chuyến bay trong nội địa cộng thêm
rất nhiều chuyến xe buưt và đoạn đường
phải cuốc bộ chúng tôi đă đến thăm
nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử
của nước Trung Hoa trải qua những thành
phố Thượng Hải, Tô Châu, Hàng Châu, Nam Kinh,
Bắc Kinh, Tây An, Quế Lâm. Suốt chuyến đi tôi thưởng ngoạn
cảnh trí nước Tàu trong tâm trạng thư thái
của một du khách. Cho đến ngày hôm trước
tâm trạng tôi bỗng đổi hẳn. Tôi trở nên
trầm lặng, ít nói. Nhà tôi tưởng tôi mệt.
Chả riêng tôi. H́nh như cả đoàn du lịch mà
đa số ở tuổi đă cao đều thấm
mệt và cũng đều trầm ngâm như tôi. Nhưng
trong thâm tâm tôi tự biết ḿnh tư lự không
phải v́ mệt mỏi mà v́ lẽ khác. Ngày hôm trước đoàn du khách rời
Quế Lâm bay đến Quảng Châu. Từ phi trường
chiếc xe buưt chở phái đoàn về khách sạn
chạy vào ḷng thành phố qua những con đường
nhỏ nhiều bóng rợp. Xe như chạy xuyên vào
ruột hai hàng cây dài giao nhau. Đến một khu trông
na ná một trại lính, cô hướng dẫn cầm
micro nói với đám du khách dăm ba câu tiếng Tàu,
tay cô chỉ về phía những căn nhà gạch hai
từng quét vôi vàng nằm khuất sâu trong một khu
rộng nhiều cây cối và có hàng rào sắt vây
quanh. Khi xe chạy qua khỏi khu vực ấy tôi quay qua
cô Mai - thông dịch viên t́nh nguyện của vợ
chồng tôi v́ cô là du khách người Việt gốc
Hoa nói thành thạo ba thứ tiếng Việt, Hoa và Anh
ngữ - hỏi cô toà nhà ấy là ǵ th́ được
cô trả lời: – Đó là trường Vơ bị Hoàng Phố. Trường Vơ bị Hoàng Phố! Cái trường
tôi đă từng nghe nói đến nhiều lần
trong đời không ngờ nay tôi lại được
chính mắt nh́n thấy. Hoàng Phố nhắc tôi đến
Việt Nam Quốc dân Đảng và những tranh
chấp Quốc Cộng của cả một thời
kỳ bi hùng. Bao nhiêu đồng chí của cha tôi đă
từng xuất thân từ đấy. Ông Vũ Hồng
Khanh. Anh Lê Hưng. Và bao người khác mà tôi không
nhớ tên. Tôi nhớ tới hàng ghi chú sau đây
được cha tôi viết trong bản thảo
một tác phẩm dang dở mà tôi c̣n lưu giữ như
một chứng tích có tầm lịch sử về
những bước đi của cha tôi: Tháng 5-1946 sang Vân
Nam. Tháng 12-1946 đi Thượng Hải. Tháng 2-1947
đi Quảng Châu. Tháng 7-1948 Long mất. Tháng 4-1949 ra
Hồng Kông hẳn. Hoàng Phố c̣n nhắc nhở tôi
rằng ḿnh đang hiện diện ở thành phố
Quảng Châu, vùng đất này năm mươi năm
trước ghi dấu chân của ba người cật
ruột: cha tôi, chú Long, chú Bách. Kể từ giây phút ấy cho đến ngày
về dưới mắt tôi nước Tàu bỗng
đổi khác. Cũ kỹ hơn. Buồn bă hơn. Thành
phố Quảng Châu bấy giờ chập chờn h́nh
bóng những người đă khuất. Tôi nh́n
cảnh vật bên đường nghĩ tới nơi
này cha tôi đă từng đi qua, đă từng nh́n
thấy. Tôi nghĩ tới thời gian hai mươi sáu
tháng ông sống ở đây. Đó là một mảnh
rất quan trọng trong đời ngắn ngủi
của ông. Một mảnh đời tăm tối
với tôi v́ tôi không hề biết đến, nay
đột nhiên hé ra như một cánh cửa vừa
mở cho tôi thấy thêm chút ánh sáng. Và chú Bách
của tôi đă sống 40 năm tại Phật Sơn,
chỉ cách đây có 20 cây số, chắc chắn là
rất quen thuộc với thành phố này, từ góc
phố, từng lùm cây... tôi cố ghi nhớ những nơi
tôi đi qua ở Quảng Châu để về Mỹ
gặp chú sẽ kể chú nghe về những nơi tôi
đă đến thăm và chú đă có nhiều kỷ
niệm, chẳng hạn như Hoàng Hoa Cương, lăng
mộ của 72 vị liệt sĩ Trung Quốc bị
quân phiệt sát hại, nơi tôi và phái đoàn
được hướng dẫn đi thăm
chiều hôm ấy. Qua một cái cổng lớn và trang nghiêm toán du
lịch chúng tôi bước vào một sân gạch
rất rộng hai bên trồng toàn một loại cây bách
diệp, cuối sân bước lên mấy bực tam
cấp, lại đến một cái sân bao la khác,
ở cuối lại có bực tam cấp, cứ thế
mà bước lên. Lăng nằm trên một đỉnh
đồi thấp, xây xi-măng đồ sộ. Trước
lăng là tứ trụ xây trên bốn góc vuông,
giữa dựng một tháp cao khắc bẩy Hán tự
thật lớn mà tôi chỉ biết đọc hai
chữ "Thập nhị". Sau lăng là một
bức tường lớn xi-măng h́nh tam giác, trên tường
chia những ô nhỏ ghi tên tuổi những người
trên khắp thế giới đă đóng góp hiện
kim để xây dựng và trùng tu lăng này, trên đỉnh
nhọn của bức tường có tạc một
bức tượng nữ thần tự do. Tôi theo đám
du khách bước vào trong lăng tham quan một lát
rồi tôi tách ra. Một ḿnh tôi đứng trên cao nh́n
xuống. Năm mươi năm trước. Trên nền
sân rộng dưới kia có ba người đàn ông bước
lên bực tam cấp. Mặt họ hướng về
phía đỉnh đồi. Họ là ba anh em ruột. Hai
người đi đầu tuổi xuưt soát nhau,
khoảng tứ tuần. Người thứ ba trẻ hơn
một thập niên. Trông họ chững chạc. Đó
là ba chính khách lưu vong đến đây để
viếng mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái, người
đă ném tạc đạn định giết tên toàn
quyền Merlin nhưng không thành đă phải nhẩy
xuống sông Châu Giang tự vẫn, xác được
chôn cất trước xế cổng Hoàng Hoa Cương.
Họ cắm nén hương trên mộ và đứng
lặng người rất lâu ḷng bùi ngùi tưởng
niệm vị anh hùng dân tộc. C̣n hơn t́nh anh em
ruột thịt họ gắn bó nhau trong lư tưởng
tranh đấu giành độc lập cho nước nhà;
họ sát cánh nhau như những bộ phận trong cùng
một cơ thể. Có người ví người
lớn nhất là trái tim người giữa là
khối óc và người thứ ba là cánh tay. Tôi đứng đây trên đồi Hoàng Hoa Cương
năm mươi năm sau mà ḷng bồi hồi nhớ
họ. Hai người đầu đă khuất bóng là
cha tôi và chú Long. Người thứ ba c̣n tại
thế là chú Bách hiện lưu lạc bên Mỹ. Trong
một lần điện đàm với thím Bách, thím có
nói với tôi và tỏ ư tiếc đă để
mất một bức ảnh quư. Bức ảnh chụp
ba người năm 1947 tại Hoàng Hoa Cương. Tôi
nh́n xuống sườn đồi nh́n hàng cây bách
diệp trồng thẳng tắp hai bên bờ sân
gạch và tự hỏi ba người đă đứng
ở đâu chụp bức ảnh này.
Sáng ngày hôm sau xe buưt đổ chúng tôi xuống
ga Quảng Châu để đáp xe lửa đi Hồng
Kông. Tôi không ngờ ḿnh lại đối diện
với một hàng rào công an dầy đặc đến
thế. Hồng Kông năm trước đă được
chuyển nhượng cho Trung Cộng từ tay người
Anh. Nhưng sự đi lại giữa lục địa
và Hồng Kông vẫn rất hạn chế và sự
kiểm soát thật gắt gao. Trong sân ga rộng đông
người tôi không nghe một giọng nói, một
tiếng cười. Sau khung cửa sổ nhỏ là gương
mặt trẻ và lạnh lùng của một anh công an
trong bộ đồng phục màu xanh ve. Hắn ném tôi
cái nh́n xoi mói rồi cúi xuống tấm thẻ thông hành
lật qua lật lại xem h́nh tôi trong thẻ, lại
ngửng lên ngó tôi với cặp mắt bén như dao.
Rồi liếc sang bên cạnh (tôi đoán có màn máy vi
tính), hắn ta cắn môi, cau mày, suy nghĩ. Tôi chờ
đợi. Thật lâu. Thốt nhiên tôi đứng tim.
Đúng lúc tôi có cảm giác hắn sắp sửa kêu
người đến bắt tôi th́ hắn lại
vẫy tay cho tôi đi qua. Chưa hết. Tôi phải
trải thêm hai lần như vậy nữa với hai
tay công an khác. Tất cả đều cùng một tác
phong, cùng một cái nh́n sắc lạnh. Tôi tự
hỏi cái cách làm việc thái quá của họ có
cần thiết không? Hay họ được huấn
luyện với chủ đích để làm tôi sợ?
Mà làm tôi sợ để làm ǵ không biết? Hay là
đe doạ đă thành thói quen, đă ăn thành
nếp sống trong chế độ cộng sản? Bước lên toa xe lửa toán du khách chúng tôi
thở phào nhẹ nhơm. Đám chúng tôi ngồi chụm
gần nhau ở mấy hàng ghế cuối toa. Tiếng
cười ṛn vui vẻ của mấy cô gái trong
bọn tôi làm tôi chợt chú ư tới sự tương
phản giữa đám du lịch và những hành khách
khác trong toa. Họ đều là đàn ông, vẻ
mặt nghiêm nghị. Quần áo họ hầu như toàn
một màu xám. Những người lớn tuổi
bận áo bốn túi, đầu đội mũ Mao
Trạch Đông, một số người trẻ
mặc áo vét xám, tay cầm cặp samsonite, trông như
thương gia. Tôi nghĩ họ phải có gốc
lớn lắm mới được cấp giấy
đặc biệt để vào Hồng Kông. Bọn chúng
tôi th́ khác hẳn. Áo quần xuề xoà đủ
loại - jeans, shorts - màu sắc sặc sỡ. Đoàn
du lịch hầu hết là Hoa kiều sống lâu năm
bên Mỹ. Cả đoàn hai mươi người
chỉ có một bà Mỹ trắng và bốn người
Việt. Ngoài vợ chồng tôi hai người Việt
kia là hai cô gái gốc Hoa đi cặp với nhau. Theo nguyên tắc th́ hướng dẫn viên
phải sử dụng đồng đều cả hai
ngôn ngữ là tiếng Anh và tiếng Hoa. Nhưng v́
đoàn chỉ có một người Mỹ nên họ có
khuynh hướng giới hạn tiếng Anh ở
mức tối thiểu. Chúng tôi di chuyển phần
lớn bằng xe buưt. Để giúp vui một vài anh hướng
dẫn viên thích kể chuyện tiếu lâm. Họ
kể bằng tiếng Tàu, cố nhiên. Mấy anh nói
rất có duyên v́ trong suốt chặng đường
dài xe cứ rung lên với những tràng cười ṛn
ră. Chỉ trừ ba người là vợ chồng tôi và
bà Mỹ ngồi im. Có lần bà Mỹ giơ tay
phản đối yêu cầu anh ta kể bằng
tiếng Anh. Anh ta lễ phép trả lời rất
tiếc không thể dịch sang tiếng Anh được
v́ chuyện anh kể dùng rất nhiều cách chơi
chữ của người Tàu không thể nào dịch
ra bất cứ một thứ tiếng nào khác. Chúng tôi
may mắn hơn bà Mỹ v́ được cô Mai là
một trong hai cô gái gốc Hoa sốt sắng dịch
cho chúng tôi nghe. Chẳng hạn trong thời gian ở Hàng
Châu trong khi phái đoàn leo lên một cái chùa tháp cao 12
từng, anh hướng dẫn chỉ xuống một
con sông lớn trước mặt, nói líu lo. Cô Mai quay
qua tôi nói: – Anh Thiết ơi! Lấy máy ảnh chụp
ngay con sông này đi! Tôi hỏi: – Sông ǵ thế? – Quan Tien River! – Quan Tien là sông quái ǵ? Mai phất tay vào vai tôi: – Sông Tiền Đường đó! Cô Thuư
Kiều tự tử đó! Tối hôm ấy nằm trong khách sạn Hangzhou
Continental trước khi ngủ tôi dại dột
hỏi nhà tôi: – Này! Em! Cô Mai và cô Ly có chồng hay chưa có
chồng hả em? Nhà tôi đang nằm quay mặt phía trong vội
xoay hẳn người lại: – Ơ hay anh này vớ vẩn? Anh muốn tán hai
cô ấy th́ cứ hỏi thẳng chứ em làm sao
biết được hai cô ấy có chồng hay chưa
có chồng? Tôi thờ thẫn: – Ờ nhỉ... Tôi nh́n ngoài cửa sổ. Con tàu vừa kéo
một hồi c̣i dài. Bên ngoài là cánh đồng
trống. Tàu hoả chạy song song một con đường
đất đắp nhô cao khỏi mặt ruộng. Trên
đường một chiếc xe cam-nhông nhà binh màu lá
cây chạy tung bụi phía sau. Tôi nh́n những cột
điện lướt qua. Những dây thép trũng
xuống rồi vươn cao rồi lại trũng
xuống nối tiếp... Rồi tiếng ru rập ŕnh
của con tầu làm mắt tôi nhíu lại. Tôi trôi
đi trong vũng sâu của thời quá khứ trong khi
vai tôi cứ nặng dần ở một bên. Mùi mái tóc
của nhà tôi thoảng qua. Vài sợi tóc bay rối qua
mặt. Rồi có tiếng nói thật nhỏ ngủ
đây... em ngủ đây... như mơ hồ một
đêm nào trong tuổi thơ mái tóc dài của mẹ tôi
xổ xuống buông xoă. Bà cúi xuống trên bờ vai tôi
thầm th́ ngủ đi con ngủ đi con... Vừa ru
mẹ tôi vừa khẽ cất tiếng hát. Giọng hát
buồn bă. Trên sông Kinh Châu có con buồm
trắng... Gió thu đưa người biệt ly
về cung sầu đó chăng... Tôi khóc rống lên.
Rồi nức nở. Tấm tức. Mẹ tôi xoa tay trên
lưng tôi. Bàn tay mềm mại. Lưng tôi nổi rôm.
Tôi khóc cả đêm trên chiếc sập gụ một
đêm nào rất xa xưa của Hà Nội, một
đêm trời hè nóng bức kinh hồn, tôi nổi rôm
cùng khắp người. Tôi đưa bàn tay nhỏ bé
cào cấu làn da nổi sần lên những hột li ti
nhưng cơn ngứa như tăng thêm theo từng cơn
găi. Tôi găi đến rướm máu. Mẹ tôi giữ
rịt tay tôi lại. Bà rắc bột phấn lên
khắp người tôi rồi bà xoa xoa rất nhẹ.
Cơn ngứa không giảm. Tôi gào lên muốn mẹ tôi
mạnh tay hơn. Nhưng bà chỉ hát. Làm như
tiếng hát có thể dịu đi mọi nỗi
thống khổ. Tôi thiếp đi trên sông Kinh Châu có
con buồm trắng... Khi tôi tỉnh dậy trời
vẫn tối. Nhưng tôi chợt linh cảm chiếc
sập gụ rộng chỉ có mỗi ḿnh tôi.
Hoảng sợ bàn tay tôi trườn hai bên ṃ mẫm
xem mẹ tôi c̣n nằm bên cạnh không. Tay tôi tụt
xuống mép sập. Tôi lạnh người khóc gào lên.
Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ đâu rồi?... Sáng hôm sau tôi nghe nói mẹ đă bỏ chúng tôi
đi thật. Bà bất thần phải sang gấp bên
Tàu. Có tin chú Long vừa mất ở Quảng Châu. Tàu chuyển qua thành phố. Loáng loáng qua khung
cửa là những căn nhà gạch xây sát cạnh
đường tàu. Tôi nhỏm dậy hốt hoảng.
Tôi chợt nhớ ra là chú Long đă gục chết trên
tuyến đường này... Tôi rời ghế đi lên mấy băng phía trước.
Rồi cúi xuống tôi nói với cô Mai: – Nhờ Mai giúp tôi việc này. Hồi ở
Việt Nam học về Tự Lực Văn Đoàn
chắc Mai có biết nhà văn Hoàng Đạo? – Hoàng Đạo à? Mai biết chứ. – Hoàng Đạo là chú ruột tôi. Năm mươi
năm trước chú tôi chết ở trên một
chuyến xe lửa đi từ Hồng Kông đến
Quảng Châu. Xác chú chôn gần một nhà ga của
thị trấn Thạch Long, nằm đâu đó
giữa Quảng Châu và Hồng Kông. Tôi muốn nh́n cái
nhà ga ấy. Những hành khách trong toa này chắc là
phải biết Thạch Long. Nhờ Mai hỏi hộ tôi.
Cứ nói là thị trấn có tên Con Rồng Đá,
chắc họ hiểu. – Vâng, Mai sẽ hỏi hộ anh. Bỗng cô ta nh́n tôi: – Vậy thế Nhất Linh là thế nào
với anh? – Tôi là con. Mai lại nh́n tôi. Một nét ngạc nhiên thoáng
trong ánh mắt cô: – Thế à? Mai rất hân hạnh được
biết anh. Tôi trở về chỗ ngồi. Nhà tôi hỏi tôi: – Anh hỏi cô Mai cái ǵ thế? – À, anh nhờ Mai hỏi hộ thị trấn
Thạch Long ở đâu, anh muốn xem cái ga ấy. Chú
Long chôn ở đó, em biết rồi. – Ừ, em cũng muốn xem... Một lát sau tôi thấy Mai đứng lên
hỏi một thanh niên trẻ mặc áo vét. Anh ta
lắc đầu. Cô gượng hỏi thêm. Anh ta
lại lắc đầu, tay chỉ vào một ông già
ngồi ở băng trước. Mai tiến đến
hỏi ông già đội chiếc mũ Mao Trạch
Đông màu ka-ki. Hai người nói chuyện khá lâu. Lát
sau cô trở lại cúi xuống nói với nhà tôi: – Chị Thái Vân này! Mai hỏi được
rồi. C̣n khoảng hai mươi cây số nữa. Qua
một cái tỉnh nhỏ nữa th́ đến
Thạch Long. Ông ta nghĩ Mai hỏi để xuống
ga đó nên cứ nhắc măi tàu này là tàu tốc hành
đi Hồng Kông không có ngừng ở ga nào hết. Mai về lại chỗ ngồi. Tôi cố
nhớ lại tất cả những ǵ có liên quan đến
chú Long. Tại sao tiếng hát ru buồn bă của mẹ
cái đêm xa xưa ấy lại khiến tôi liên tưởng
ngay đến cái chết của chú? À phải
rồi... cái đêm nóng kinh hồn đó là mùa hè
của năm 1948. Năm đó tôi lên tám. Tôi học trường
tiểu học Hàng Vôi số 25 đường Lư Thái
Tổ Hà Nội. Nhà của chú Long ở xéo bên kia
đường, số 18 bis. Ngôi nhà xinh đẹp hai
từng có cây bàng trước sân. Thuở bé tôi đến
đó một hai lần. Không bao giờ tôi gặp chú
Long. Từ phố Hàng Bè đến phố Hàng Vôi không
xa. Nhưng đến nhà chú tôi thấy ḿnh lạc vào
thế giới khác. Hôm tôi đến th́ Nguyễn Tường
Ánh, con trai của chú thím, từ ngoài bước vào pḥng
khóc tấm tức, vừa khóc vừa giơ một ngón
tay bị chẩy máu. Thím Long mắng đứa con
của bà, bằng một giọng êm và quư phái. Tôi
thấy giọng của bà lạ. Cách xưng hô cũng
lạ. Không phải "mợ" như chúng tôi thường
gọi mẹ. Mà là "me". Tiếng "me"
nhỏ nhẹ phát từ cửa miệng hai mẹ con tôi
nghe lạ tai quá, nó tây tây làm sao, vừa quư phái
vừa có lẫn chút ǵ mềm yếu. Bầu không khí
êm trôi của gia đ́nh chú Long như thế đó. Nó
tương phản với những ǵ tôi được
nghe kể về chú sau này. Trí nhớ tôi về mùa hè năm ấy có h́nh
ảnh trường Hàng Vôi. Trường là hai dẫy
nhà gạch hai từng ở hai bên, giữa là sân.
Giờ ra chơi trời nóng bức đám học tṛ túa
ra tụ trước cổng trường ngón tay
kẹp đồng bạc tranh nhau tḥ qua chấn song
sắt. Tiếng rao lao nhao ngoài cổng. Kem đây! Kem
đây! Kem cam, kem bạc hà đây! Chiếc nắp
bấc mở phịch. Hơi mát toả phà ḷng bàn tay.
Tôi rút ra trong phích một cây kem c̣n thở khói. Trong trí
nhớ h́nh như sân trường có một tăng-xê
trú ẩn hay là một cái lô cốt đổ nát c̣n
để lại tôi không rơ. Một lần giữa
giờ học tôi nghe có tiếng vọng sang từ
một căn nhà gạch hai từng ở sát cạnh trường,
ngăn bởi một bức tường cao có hàng rào
kẽm gai cuộn tṛn phía trên. Tôi nghe không rơ nhưng
dường như đó là một tiếng hét đau
đớn. Có ai bảo tôi căn nhà đó là Sở
Mật thám. Tây đă tra tấn Việt Minh trong đó.
Sau này cũng có ai bảo tôi chú Long bị Tây bắt và
bị tra tấn. Họ c̣n nói thím Long mỗi lần thăm
chú ở nhà giam về nhà lại mang theo một
chiếc áo đẫm máu! Vào
trong Nam tôi ít liên lạc với gia đ́nh thím Long. Ánh
lớn hơn tôi mấy tuổi nên tôi ít thân. Chúng tôi
gặp nhau vài lần một năm là nhiều và thường
là những dịp giỗ tết. Lần cuối tôi
gặp thím Long vào dịp Tết đầu thập niên
70. Nhà thím ở Gia Định, Ngă Năm B́nh Hoà, trong
một cái ngơ có nhiều cây xung quanh. Tôi dựng xe
gắn máy trước nhà. Vào pḥng khách tôi thấy
vắng không có ai. Lát sau có tiếng dép bước ra
từ buồng trong. Bao nhiêu năm không gặp thím tôi
thấy thím già đi, xanh xao, mệt mỏi. Duy có
tiếng nói của thím vẫn thế, vẫn là
giọng nói của thím Long ngày nào ở Hà Nội: êm
nhẹ, quư phái. Chỉ khác bây giờ giọng thím
nhỏ yếu hơn nhiều. Tôi nghe nói thím bị
bịnh ung thư bên cánh tay trái, nhưng lần ấy
tôi gặp th́ cánh tay chưa bị cắt. Trong suốt
câu chuyện với thím hôm đó tôi chỉ c̣n
nhớ một câu thím nói. Thím nh́n lên cây vú sữa
của căn nhà bên kia ngơ như thả hồn theo
những ngày xưa cũ và giọng của thím nhẹ
như hơi thở: –
Cuộc đời của các anh phẳng lặng quá.
Cuộc đời của chúng tôi sóng gió hơn
nhiều... Câu
nói làm tôi nghĩ đến cuộc đời gian truân
của mẹ tôi, của thím Long và của bà Khái Hưng.
Tôi nghĩ đến thân phận làm vợ của ba nhân
vật ṇng cốt Tự Lực Văn Đoàn đă
chọn con đường tranh đấu chông gai. Riêng
với thím tôi thấy xót xa hơn cả bởi thím
xuất thân từ một gia đ́nh quyền quư,
lại là con một, khi lấy chú tôi thím không hề
được sửa soạn để ứng phó
với cuộc đời bất trắc. Sau lần
gặp ấy cho đến ngày thím mất tôi không
gặp lại thím. Nhưng tôi được nghe
kể về diễn tiến của căn bệnh quái
ác ấy. Cánh tay của thím phải cưa đến
hai lần. Sau cùng ung thư đă lan vào tuỷ sống
làm bà hôn mê suốt 24 tiếng đồng hồ trước
khi từ giă cơi đời. Từ
tiếng hét bên bờ tường kẽm gai trường
Hàng Vôi, đến chiếc áo đẫm máu của chú
Long và sau này cánh tay cưa của thím, những h́nh
ảnh đó là những ấn tượng đau đớn
nó luôn luôn thoáng hiện trong tôi mỗi lần tôi nghĩ
về chú thím. Từ
ngày vào Nam h́nh như những kỷ niệm đau
buồn cũ đă được để lại bên
bờ kia của ḍng Bến Hải. Họ Nguyễn Tường
chúng tôi bắt đầu cuộc sống mới ở
miền Nam. Không ai buồn nhắc nhở đến cái
chết đau thương của chú Long. Nhưng
có một lần trong đêm khuya khoắt tên chú Long
được nói đến làm tôi rúng động. Nó
cho tôi biết được một điều
thầm kín. Đó là trong lúc cái chết của chú
đă ch́m trong quên lăng th́ vẫn có một người
âm thầm đau khổ, người đó là cha tôi.
"Thuở ấy ở Sài G̣n cha tôi thường
viết văn trong đêm khuya khoắt. Những khi
giật ḿnh thức giấc nửa đêm tôi thường
thấy, qua khe cửa, đèn trong pḥng ông c̣n bật sáng.
Có đêm lũ chúng tôi lồm c̣m ḅ dậy v́ có
tiếng khóc trong pḥng cha tôi. Tiếng khóc lúc đầu
c̣n nhỏ sau lớn dần không ḱm hăm được.
Lũ chúng tôi ngơ ngác nh́n nhau. Một người
anh họ lớn tuổi hơn, ra dáng hiểu biết,
giải thích: Chú Tam khóc v́ chú nhớ chú Long đấy!
Sau này tôi biết ông đă khóc âm thầm nhiều
đêm vào những dịp khác. Không ai có thể đoán
biết ông khóc cái ǵ, ngay cả mẹ tôi cũng không
thể nào biết được. Nhưng sự khám phá
này đă gieo vào tuổi thơ tôi một ấn tượng
mạnh mẽ, rằng cha tôi là một người cô
đơn và đau khổ" (Nhất Linh, cha tôi - NTT
- 1985). Tôi
biết gần như chắc chắn cái chết
của chú Long, người em và cũng là đồng
chí, đă ảnh hưởng mạnh đến
cuộc đời của cha tôi. Năm 1951, khi từ
Hồng Kông về Hà Nội, cha tôi tuyên bố với
báo chí rằng ông từ bỏ chính trị. Quyết
định này của ông tôi nghĩ là sẽ không có
nếu chú Long c̣n sống. Cha tôi có hai con người
trong ông. Con người nghệ sĩ ông gần
Thạch Lam. Con người cách mạng ông gần Hoàng
Đạo. Sự mất mát của hai người em,
nhất là Hoàng Đạo, đưa đến
khủng hoảng trong tâm thần ông. Ngay
sau ngày cha tôi chết một nhân vật xuất
hiện: Như Phong. Đeo kính trắng gọng to,
chiếc pipe trên miệng, khuôn mặt vuông, dáng trí
thức lịch lăm, người mà chúng tôi vẫn
gọi bằng cái tên thân mật: "cậu
Tiến". Tôi chưa từng gặp Như Phong trước
đó. Nhưng tên cậu đă là huyền thoại. Là
đàn em của Hoàng Đạo, đời cậu dính
chặt với gia đ́nh chú Long. Luôn luôn là một nhân
vật bí mật và chỉ xuất hiện trong
những dịp thật đặc biệt, với tôi
cậu Tiến là hiện thân của một người
chú tôi chưa từng biết. Không
khí thật căng thẳng sau ngày cha tôi tự sát. Công
an mật vụ theo dơi chúng tôi. Hôm đó ngày thứ
hai mồng 8 tháng 7 năm 1963. Giờ này theo như trát
đ̣i đáng lư cha tôi phải có mặt trong pḥng
xử của Toà án Quân sự Đặc biệt
tại số 131 đường Công Lư Sài G̣n nhưng
hôm trước ông đă uống độc dược
tự vẫn, để lại tờ di chúc chính
trị: "Đời tôi để lịch sử
xử..." Đúng lúc chúng tôi đang bối rối
t́m cách phổ biến tờ di chúc ra ngoại quốc
trước khi nó có thể bị tước đoạt
bởi những bàn tay mật vụ th́ Như Phong
xuất hiện. Cậu giải quyết vụ này nhanh
chóng. Tôi nhớ măi thái độ của cậu hôm
đó. Trong bầu khí bất an đe doạ khắp nơi,
trong khi chúng tôi bấn loạn th́ cậu b́nh tĩnh như
không. Cậu c̣n khôi hài dí dỏm làm như thể
mọi chuyện trên cơi đời này không có ǵ đáng
phải lo âu. Trên đường chở cậu trên
chiếc Vespa của tôi đến số 19 đường
Ngô Đức Kế để đưa tờ di chúc
đến cơ quan thông tấn xă UPI cậu bảo tôi
dừng lại ở một kiosk đầu đường
Nguyễn Huệ làm photocopy. Đấy là lần đầu
tiên tôi biết mặt mũi cái máy sao giấy tờ này.
Sau này gặp lại cậu Tiến cứ mỗi
lần chúng tôi trao đổi nhau bất cứ một
thứ giấy tờ ǵ, dù chỉ là mảnh giấy
rất thường, cậu đều ghé vào tai tôi, nói
thầm ra vẻ bí mật: "Nhớ photocopy!"
Cả hai đều bật cười nhớ ngay đến
lần hai cậu cháu làm phóng ảnh cái tờ di chúc
lịch sử kia. Năm 1974 tôi dự tính in một
cuốn sách "Di cảo Nhất Linh Nguyễn Tường
Tam" và đang thu thập tài liệu th́ Như Phong
đến gặp tôi trao cho tôi một tờ giấy
nhỏ. Lần này cậu không nói đùa "nhớ
photocopy!" như mọi lần mà chỉ nói: "Tài
liệu quư! Nhớ giữ!" Đó là lần
cuối cùng tôi gặp cậu. Đúng hai mươi năm
sau, ngay khi đặt chân đến Mỹ, cậu
gọi điện thoại cho tôi và câu đầu tiên
cậu hỏi là tôi c̣n giữ được tài
liệu đó không. Tôi nói tôi c̣n giữ. Lặng đi
một lát. Tôi cảm được mối xúc động
của cậu ở đầu dây bên kia. Rồi
cậu nói: "Tốt! Photocopy gửi cậu một
bản. Nhớ in màu. Làm sao lên được màu
mực tím của vạch kẻ!". Tôi mang tài
liệu này đến Kingko để in. Bỗng tôi
giật ḿnh. Tôi đă giữ tài liệu này mấy
chục năm nay đọc nó không biết bao nhiêu
lần có bao giờ để ư cái chi tiết vạch
kẻ có màu tím. Mấy chục năm mà cậu c̣n
nhớ được cái chi tiết nhỏ nhặt này.
Th́ ra cậu Tiến, tôi đoán thế, trong suốt
bao năm tháng dài đă nghiền ngẫm tài liệu này
trong trí nhớ, đă nh́n thấy màu mực tím đó
trong bóng tối âm u của những trại lao tù
cộng sản. Tài liệu đó do chính cha tôi viết
tay dài hai trang chữ rất nhỏ mang tên Kư tŕnh
nội dung báo cáo về việc thống nhất các
đảng phái quốc gia và tổ chức đảng.
Kư tên Hải ngoại Chấp hành Bộ: Nguyễn Tường
Tam, Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh, Lư Đông A
(và một nhân vật nữa) cùng kư tên tắt. Tài
liệu này không đề ngày. Nhưng câu "Ngày
giờ đă khẩn cấp!" trong tài liệu cho tôi
phỏng đoán là nó được viết cùng
thời với Bức thư ngỏ gửi các bạn
chiến đấu của cha tôi kư ngày 17-1-1945 trong
đó có một câu tương tự: Thời giờ
thật là khẩn cấp...
Trên đây là hai trang phóng ảnh từ bản Kư Tŕnh gốc, do Nguyễn Tường Tam viết. Nhà tôi đập vào vai tôi chỉ về phía trước.
Cách mấy hàng ghế Mai quay người phía sau
miệng nói mấy câu nhưng tiếng nói bị át
đi trong tiếng c̣i tàu. Tay cô chỉ chỉ ra ngoài
ra dấu xe hoả đă vào ga Thạch Long. Tất
cả xẩy ra rất nhanh chóng khi con tàu tốc hành vùn
vụt chạy lướt qua ga. Tôi rướn người nh́n ra bên ngoài. Khung
cảnh ga Thạch Long hoàn toàn không giống như trong
trí tưởng tôi. Trong một khoảnh khắc
rất ngắn khi tôi vừa ư thức là nắm xương
của chú Long tôi phải nằm ở quanh quất
đâu đây th́ con tàu đă rầm rộ vượt
qua, bỏ lại nấm mộ trong trí tôi lùi xa lùi
xa... Trong tiếng nghiến của những bánh xe
hoả rung lên trên một cây cầu sắt tôi nh́n
thấy chú Long đang dơi mắt nh́n tôi... cái nh́n lăng
đăng, thắm thiết mà buồn bă... cái nh́n ṃn
mỏi đợi chờ những người thân...
đă từ năm mươi năm... Sự tưởng
tượng không ngờ làm tôi thật sự xúc động.
Mối xúc động át đi trong tiếng c̣i kéo dài
khi chuyến tàu rời khỏi thị trấn. Đó là
khoảnh khắc duy nhất trong đời tôi đă
trọn vẹn dành cho chú, một người chú bao năm
như kẻ xa lạ bỗng dưng trở về...
gần gũi thân thương như một người
trong nhà. Chú tôi sinh ra và lớn lên ở phố huyện
Cẩm Giàng. Gần một cái nhà ga bên con đường
sắt Hà Nội - Hải Pḥng. Nơi quê nhà. Bốn mươi
mốt năm sau chú chết lại gửi xác ở
thị trấn Thạch Long. Cũng gần một cái ga
bên con đường sắt Quảng Châu-Hồng Kông.
Nơi quê người. Nông nỗi nào thế hở chú Long?
Mới đó mà đă bẩy năm qua. Bốn năm trước Như Phong mất
ở Virginia vào ngày 18 tháng 12 năm 2001. Tôi sửng
sốt ghe tin cậu mất. Thật quá bất ngờ.
Tôi tự trách ḿnh cứ chần chờ gặp cậu
để nghe cậu kể và nếu cần sẽ thu băng
làm tài liệu sau này viết về một đoạn
đời của cha tôi và của chú Long, một đoạn
với tôi c̣n ngập đầy bóng tối, mà tôi tin
rằng cậu là người biết rơ nhất. Sau khi
cậu Tiến mất tôi cũng thắc mắc tại
sao cậu không viết hồi kư? Cả cuộc đời
cậu luôn luôn đứng trong hậu trường chính
trị, là người biết rơ nhất cái hậu trường
ấy, của rất nhiều thời kỳ lịch
sử khác nhau. Một ngày kia tôi sực nhớ tới cái hôm
cậu giúp tôi phổ biến tờ di chúc của cha tôi,
một việc làm đă góp phần cho sự sụp
đổ của một chế độ. Ngày ấy
với tôi là trọng đại. Nhưng với
cậu lại như đùa bỡn. Tôi hiểu ra. Hôm
đó chỉ là một ngày trong đời cậu.
Những ngày khác của cậu cũng thế. Cuộc
đời cũng thế. Viết làm ǵ? Có ǵ quan
trọng đâu... Đêm nay. Một đêm thu trong và lạnh của miền Tây
Bắc lại đến. Tôi thức giấc nửa khuya thấy ḿnh đối
diện với ánh trăng tràn qua cửa sổ. Ánh trăng
làm tôi xao xuyến. Nằm trằn trọc măi không
ngủ được tôi suy nghĩ về bài tôi đang
viết về Hoàng Đạo rồi bỗng sực
nhớ ra là ḿnh có lưu giữ một chút ǵ của
chú Long, tôi thức dậy bước ra ngoài pḥng khách.
Từ trên trần nhà lọt qua khung skylight ánh trăng
trải xuống một khoảng sáng rất mờ trên
tủ kính nơi tôi cất giữ di cảo của cha
tôi. Tôi mở cửa tủ, bật một cái đèn
con rồi lấy ra một bức tranh hoa cúc do cha tôi
vẽ. Cạnh bức tranh là thủ bút của cha tôi
ghi rơ "chậu cúc này do chính tay Hoàng Đạo mua
về để bày tết, trang hoàng một gian nhà
tiều tuỵ ở một làng hẻo lánh Quảng
Đông". Ở một góc của bức hoạ có
chữ kư Nhất Linh, 1948, đúng năm Hoàng Đạo
mất. Trên bức vẽ là màu thời gian gần sáu mươi
năm. Vài cánh hoa cúc do cha tôi cắt và dán đă long
ra ở đầu mép. Tôi nh́n cái phông màu mực đỏ
tươi của bức tranh loang sau những cánh hoa vàng
và liên tưởng đến vệt máu đẫm trên
chiếc áo chú Long. Cầm bức tranh trên tay, tôi lặng đi.
Bức tranh là tiếp cảm đằm thắm
nhất giữa tôi và hai người thân yêu đă
khuất. Thoáng trong một giây tôi h́nh dung cả ba người
là chú Long, cha tôi và tôi đều cùng nh́n vào một
chậu cúc xưa. Tôi nghĩ đến sự hữu
hạn của đời người và bức tranh này
cùng với ánh trăng kia sẽ c̣n lưu lại măi măi. Kim nhân bất kiến cổ thời nguyệt Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân (Lư Bạch) Nguyễn Tường Thiết Seattle, mùa Thu năm 2005
|
||||||||