Nhà sư Thích Huệ Quang , người bạn cùng khóa
4/71 với tôi , ông tên là Ngô nhựt Tân , cũng có duyên
gặp lại và cùng nhau trao đổi trên diễn
đàn của Groups , cũng như các bạn đồng
môn vẫn gọi tôi là Ara và tôi vẫn tiếp
tục gọi lại tên tục của thầy, gởi
các bạn xem bài viết "Hai h́nh ảnh. Một
đời người" của Biệt cách 81 dù Ngô
Nhựt Tân.
Truyện
Hai h́nh ảnh Một đời người
H́nh 1 – Chân dung Thầy Huệ Quang
H́nh 2 – Đại Đội 4 Xung kích/LĐ81BCD
(người đầu tiên trong ảnh này là MĐ Ngô
Nhựt Tân,
hiện nay là Nhà Sư Huệ Quang trong ảnh số 1 bên
trên)
H́nh 3 - Ngôi Chùa nơi Thầy Huệ Quang đang
giảng về đạo Phật
Từ cuộc đời của một Chú Tiểu
đến tuổi bút nghiên, sang đời binh
nghiệp, đánh giặc, anh hùng mạt lộ bị
bắt làm tù binh, rồi vượt ngục, vượt
biên lưu vong làm bố sắp nhỏ... và sau cùng
trở thành nhà Sư Phật Giáo. Nhất định
Thầy Huệ Quang có rất nhiều kinh nghiệm
cuộc sống. Thầy sẽ hoan hỷ chia sẻ
với mọi ACE cựu quân nhân chúng ta nói riêng và
những ai thích thú nghe về những chia sẻ của
Thầy..., những kinh nghiệm mà Thầy đă
từng trải và sự hiểu biết về Đạo
Phật của Thầy trên trang web Quân Nhân Phật giáo
này.
Kính mời Quư vị theo dơi đôi ḍng Tiểu sử
của chính nhà Sư Huệ Quang chia sẻ về
cuộc đời của ông. Trân trọng. –BKT
.
Lời
Tác Giả: Thích Huệ Quang
Tôi rất vui mừng khi được một người
bạn mời đóng góp cho trang tôn giáo, tiết
mục Phật giáo, trên website của Gia đ́nh Mũ
đỏ vùng Thủ đô Hoa Thịnh đốn &
phụ cận.
Trước khi bắt đầu cho những bài
viết sắp tới, tôi xin được nói về
bản thân ḿnh, điều mà rất hiếm khi tôi thường
nói đến. V́ tôi nghĩ, nói về Nhảy dù mà
bản thân chẳng có một ngày nào sống trong binh
chủng này, hay nói về Tae Kwon Do mà không biết tí ǵ
về vơ thuật, hay nói về kỹ thuật nhảy
toán mà chưa một ngày mang huy hiệu thám sát của
Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, th́ khi nói đến ai mà
tin. V́ vậy tôi phải nói một ít về bản thân,
tạo niềm tin cho đọc giả với những
bài viết về Phật giáo sau này.
Tôi sanh ra tại Phan Thiết. Năm 8 tuổi mẹ cho
vào chùa tu học, “để tránh cho con khỏi đi
lính sau này,” bà nói với tôi như thế. Cha tôi là
một cán bộ tập kết lúc tôi vừa tṛn
một tuổi, theo chân Hồ Chí Minh với một
ước vọng điên rồ là đẩy đất
nước vào thiên đường xă hội chủ
nghĩa.
Trong đời tu hành, tôi may mắn gặp được
một vi minh sư, thầy Thích Châu Đức,
giảng sư tỉnh hội phật học Phan
Thiết. Thầy tôi thuộc ḍng Thiên Minh, Huế,
đệ tử của Ḥa thượng Thích Quảng
Huệ, nên đặt pháp danh cho tôi là Quảng
Hạnh. Tôi gọi Ḥa thượng Thích Măn Giác,
hội chủ Tổng hội Phật giáo VN tại Hoa
Kỳ, là sư bác. Ôn mất năm 2009. Thầy tôi có
một lời nguyền là không bao giờ nhận đệ
tử, nhưng v́ mẹ tôi có công với đạo pháp
-- bà giúp việc phật sự cho chùa nhiều năm và
chính thức vào sống hẳn trong chùa từ năm
1968 -- thầy đă nhận tôi làm người đệ
tử duy nhất.
Tôi được đưa về làm điệu
tại chùa Thiên Minh, ngoài Huế, nên tôi đọc kinh
rất ư là Huế và rành rơi việc kinh kệ và tán
tụng.
Năm 1966 thầy gửi tôi vào tu học tại
Phật học viện Hải Đức Nha Trang,
tại đây tôi được cạo cái chỏm tóc
mà tôi rất ư là ghét và đă thọ sa di giới
trong một đại giới đàn do Ḥa thượng
Thích Tịnh Khiết chứng minh.
Năm 1968 tôi rời viện vào Sài G̣n tiếp tục
việc học.
Năm 1970 tôi chính thức bỏ áo tu và
Năm 1971 gia nhập khóa 4/71 Thủ Đức/Sĩ
Quan Trừ Bị-QLVNCH.
Ngày 29 tháng 7 năm 1972 tôi măn khóa, mang cấp bậc
chuẩn úy và phục vụ tại Liên Đoàn 81
Biệt Cách Nhảy Dù.
Tháng 1 năm 1975, tôi thuyên chuyển về Sư Đoàn
Nhảy Dù, phục vụ tại Tiểu Đoàn 5,
Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cho đến ngày đơn
vị tan hàng tại mặt trận Khánh Dương. Tôi
chạy vào được gần Phan Rang th́ bị
bắt và nhốt tại trại cải tạo Cà Tót.
Năm 1978 tôi cùng một số lớn tù cải
tạo được tạm thả và được
đưa về Phan thiết điều trị
bệnh, v́ quá nhiều tù nhân đă chết v́ một
chứng bệnh kỳ quái không tên khi ở trong khu
rừng thiêng nước độc Cà tót.
Khi được lệnh triệu tập của VC
để trở lại học tập cải tạo, tôi
đă cướp ghe và cùng một số cựu quân nhân
vượt biển, đến được bờ
tự do sau bốn ngày lênh đên trên biển Thái B́nh
Dương.
Tháng 12 năm 1978 tôi định cư tại Canada.
Năm 1979 tôi lấy vợ và có hai con, một trai
một gái.
Tôi trở lại sinh hoạt với chùa chiền năm
1980 v́ dân tỵ nạn tại Ottawa cùng góp công góp
của xây chùa, nhưng không ai biết kinh kệ
một cách chuyên nghiệp như tôi.
Tôi làm trong nghành computer sau khi học xong college. Tôi
dốt về kỹ thuật lắm nhưng phải
chịu đấm ăn xôi để đem pay cheques
về cho vợ nuôi các con.
Biết ḿnh sẽ không sống sót lâu trong lănh vực
điện toán, tôi túc ta túc tắc lấy courses ban
đêm, năm 2002 tôi hoàn tất được cử
nhân tâm lư.
Vợ con lúc này cũng khá ổn định về
nghề nghiệp và học vấn, tôi xin phép vợ
đi tu. May thay, mặc dù là một người công giáo
gốc, bà hỗ trợ cho việc trở lại con
đường tu tập của tôi.
Tôi phục vụ cộng đồng một thời
gian và nhờ t́m ṭi nghiên cứu, tôi thấy ḿnh thích
hợp với truyền thống nguyên thủy hơn là
đại thừa. Tôi khăn gói đi Miến Điện
(Myanmar tức nước Burma cũ) thọ tỳ kheo
giới bên đó, lưu lại tu học cho đến
khi thầy cho phép trở lại quê nhà Canada để
trao truyền lại pháp môn thiền định Vipassana
theo truyền thống Miến Điện.
Năm 2014, tôi học xong cao học nghành Tôn giáo và Chính
trị.
Năm 2016 tôi nhận được học bổng
để theo học PhD Khoa Chính trị tại đại
học Carleton. Hiện nay, tôi vừa học vừa
dạy về chính trị cho sinh viên năm thứ
nhất và năm thứ nh́ cũng tại đại
học Carleton, Ottawa, Canada (http://carleton.ca/pol
isci/ people/tan-ngo).
Ngoài ra, tôi cũng đang dạy thiền và phật pháp
cho phật tử tại chùa Tích Lan. Riêng ngôi chùa
Từ Ân là nơi tôi đang sinh hoạt thường
xuyên, ngoài việc lo cho phật tử việc kinh
kệ và thiền định, tôi c̣n phụ trách
việc giảng dạy cho sinh viên và học sinh trung
học thường xuyên đến chùa để tham
khảo và nghiên cứu về đạo Phật.
Theo Triết học về Tôn giáo (Philosophy of Religion,
William L. Rowe, second edition, Wadsworth Publishing, 1993), từ khi có
con người, v́ cảm thấy ḿnh quá nhỏ bé, và
khiếp sợ thiên nhiên, nên ở đâu cứ
thấy núi th́ thờ thần núi, sông th́ thờ
thần sông, hễ thấy cái ǵ ngoài tầm hiểu
biết th́ cứ thế mà thờ lạy. Tôn giáo v́
thế, không thể tồn tại ngoài con người
v́ từ con người mà ra. This exists because that exists.
Trong Phật giáo có câu “Phật pháp tại thế
gian, bất ly thế gian giác,” có nghĩa là ta phải
t́m Phật pháp ngay trong cuộc sống của chúng ta,
nếu bỏ thế gian này để đi t́m sự
giác ngộ th́ chẳng thể nào t́m ra được.
Nói đến đạo Phật chúng ta cần phải
nghĩ đến cái gọi là Buddhism Engagement, có nghĩa
là đạo Phật đi vào cuộc đời.
Đạo Phật không thể tồn tại được
nếu chúng ta cứ theo một khuôn ṃn lối cũ;
đó là ê a tụng niệm kinh kệ bằng tiếng
Hán.
Đạo Phật cũng không thể phát huy bên Tây phương
được nếu cứ nh́n đạo Phật qua
một lăng kính mê tín dị đoan.
Đạo Phật rất đơn giản. Sự giác
ngộ nằm trong tầm tay của người
thực hành, và ngay trong cuộc sống hàng ngày. An
lạc và hạnh phúc có mặt chung quanh chúng ta; hàng ngày,
hàng giờ chúng ta nh́n nhưng không thấy được
chúng.
Một phật tử hỏi tôi “tại sao con cứ
khổ hoài trong khi con đi chùa thường xuyên và
bố thí nhiều lắm, có phải điều
Phật dạy khó thực hành lắm phải không
thầy?” Tôi trả lời, chúng ta không làm được
điều Phật dạy v́ điều ngài dạy
đơn giản quá.
Chúng ta có khuynh hướng đi t́m những điều
linh thiêng hay phép mầu từ chư Phật để
cầu xin. Phật thua xa David Copperfield, một nhà ảo
thuật lớn mà thế giới ai cũng biết tên,
v́ ngài không làm được những điều
của Copperfield.
Ngài không thể ngồi một chỗ búng hay khảy móng
tay, móng chân và làm cho chấn động cả tam thiên
đại thiên thế giới như chúng ta thường
nghe mấy thầy giảng dạy, cho dù có nhiều
vị cũng cố giảng nghĩa qua một lăng kính
khác, để phật tử nghe dễ chấp nhận
hơn. Ngài chỉ thở, nhưng thở từ ngày này
qua ngày khác, tháng nọ sang tháng kia, với một
sự tỉnh thức trong từng giây phút.
Phật đă dạy một con đường
đơn giản, nhưng chúng ta không chịu đi,
chỉ v́ chúng ta c̣n nhiều ham muốn trong cuộc
đời.
Nếu có người chịu đi th́ họ lại
thiếu kiên nhẫn hay thiếu nỗ lực bỏ
dở nửa chừng. Tôi thường nhắc nhở
phật tử “đạo Phật là đạo để
nếm chứ không phải đạo để nói.”
Có nhiều người nói rất văn hoa, trôi
chảy v́ đạo Phật cho họ những điều
kiện tốt để họ nói, nào là kinh, luận
này luận nọ, nào là duy thức tông, nào là hoa nghiêm
tông, nào là thiền tông. Nhưng khi nói động
đến họ th́ họ nổi cơn tự ái như
một kẻ điên.
Mớ lư thuyết của đạo Phật mà họ
đọc được tự dưng biến mất,
lúc ấy chẳng có ǵ ngoại trừ một cái ngă
to tướng...
Tôi nói với những người Phật tử Tích
Lan, “có một cái thước để đo sự
tu tập của quư vị. Nếu ai nói động
đến quư vị mà quư vị nổi điên lên,
hay chỉ một chút bực ḿnh nhỏ, quư vị nên
nhận biết là quư vị đă tu sai rồi và
phải bắt đầu trở lại từ con
số không.
Nếu nhận biết ḿnh không hờn giận khi người
khác nói động đến ḿnh, đừng tự măn,
phải tiếp tục con đường tu tập v́
đường tu tập giống như đi ngược
ḍng nước, nhiều chông gai và nặng nề
lắm.”
Nếu các bạn muốn đi t́m một vị
thầy để nương tựa tu tập, không
cần phải đi t́m một cao tăng, nhưng hăy t́m
một thanh tịnh tăng.
Hẹn mũ đỏ thư sau và mong thân tâm an
lạc.
Mọi thư từ, ư kiến hay thắc mắc xin
gửi thư về huequangqh@gmail.com,
tôi sẽ trả lời thư chung trên tiết mục
dành cho Phật giáo. Sẽ trả lời thư riêng
nếu có yêu cầu.
Thích Huệ Quang
|