Huế,
Tôi và Mậu Thân Tác giả: Mũ Xanh Nguyễn Văn Phán |
Ó
Biển đă bay xa -
Trong chiến tranh Việt Nam, Nhảy Dù và Thủy Quân
Lục Chiến là hai binh chủng mà Việt Cộng
cố tránh đối đầu càng nhiều càng
tốt. Một trong những yếu tố khiến hai
binh chủng này làm quân đội miền Bắc
khiếp đảm là v́ họ có cấp chỉ huy
giỏi. Mỗi tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đều mang một tên riêng, trong đó có Tiểu đoàn 2 Trâu Điên và Tiểu Đoàn 8 Ó Biển. Cựu
Trung Tá Nguyễn Văn Phán, Tiểu đoàn trưởng
Tiểu Đoàn 8 Ó Biển, một người con
của Huế, đă từ trần ngày 1 tháng 12
vừa qua tại Houston, tiểu bang Texas, thọ 80
tuổi. Như
một lời tiễn biệt Ó Biển giữa lúc
đại dịch Covid, chúng tôi xin mời bạn đọc
DLB xem lại tường thuật của Trung tá Phán
về trận đánh tái chiếm Kỳ Đài ở
Huế trong đợt Tết Mậu Thân 1968. Lúc đó,
ông c̣n là Đại úy Đại đội trưởng
thuộc Tiểu đoàn 1 Quái Điểu. Kế
tiếp là một bài thơ của ông trong một ngày
buồn ở Mỹ sau năm 1975. Huế, Tôi
và Mậu Thân Tác giả: Mũ Xanh Nguyễn Văn
Phán
Từ
Cai Lậy về thủ đô Sài G̣n, nhập ngay vào
đánh giải tỏa trại Cổ Loa của
Thiết Giáp và Xóm Mới Gia Định xong xuôi, Quái Điểu
Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến về
nằm dọc đường Ngô Tùng Châu, Gia Định. Mười
hai giờ khuya họp Tiểu Đoàn, 2 giờ sáng có
mặt tại Tân Sơn Nhất, 4 giờ sáng lên máy
bay đi, đi đâu không biết. Đồ
khô và tái trang bị không lănh kịp. Cứ lên phi trường
rồi hay. Đó đây những loạt pháo kích,
những loạt đại liên rời rạc, những
đốm hỏa châu lũng lẳng trên bầu
trời. Tôi
để lại đằng sau một Sài G̣n mang
nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy
bay C.13O khổng lồ nuốt gọn 8OO Quái Điểu và
đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng. –
Đi đâu bây? –
Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng. Lượm,
Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, dân
Nha Trang, trả lời. Tôn, Đại Đội Trưởng
Đại Đội 2 là dân Đà Lạt, căi: –
Đà Lạt. Phán
Phu Nhơn nói: –
Đi đâu cũng được, đổi vùng là khoái
rồi. (Khi
vào quân trường, Phán tŕnh diện: Tui chánh quán làng
Phú Nhơn, ở gần hồ Tịnh Tâm, quận Thành
Nội, Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa
đạn và thịt đổ xương rơi, qua
tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang
“Phu Nhơn” ra đời, nghe thật lạ tai!) –
Máy bay chi bay măi ri bây? Thời
tiết thật xấu, và rồi bánh phi cơ cũng
chạm đất, những cặp mắt đổ
dồn ra khung cửa sổ máy bay. Phú Bài! Cơn
gió cắt da, băi cát trắng trải dài, mưa
nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều
quấn Poncho đứng nh́n đoàn người gánh
gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ,
một số về Truồi, một số lên Giạ Lê,
An Cựu. Phú
Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó, Mạ, d́,
chị và em ḿnh đó mà không liên lạc được.
T́nh h́nh không biết sao, ruột như lửa đốt.
Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc
suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai.
Kỷ niệm thời đi học kéo về trong trí tôi,
đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá. Mười
giờ sáng, đoàn GMC đưa chúng tôi về
Huế. Qua Giạ Lê, đồng bào hỗn loạn, nét
lo âu hiện rơ trên mặt. Tới An Cựu, dân chúng
thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín
cửa. Dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú
Bài, binh sĩ Nhảy Dù từng toán d́u nhau âm thầm
đếm bước. Những cái nh́n như nhắn
gửi, như lo sợ giùm chúng tôi. Mạnh, Đại
Úy Nhảy Dù, cùng khóa cho tôi biết: –
Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi.
Thừa (cùng khóa) chết, Phạm Như Đà Lạt
bị thương… Mạnh
khắp người băng bó đang được hai
đệ tử d́u đi bộ về phi trường
Phú Bài. Mạnh tiếp: –
Phán, mày cẩn thận. Không yểm trợ, không
thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết
quá xấu. Tụi nó chiếm hết thành phố, Đại
Nội, Gia Hội. Tụi nó chốt rất kỹ,
chỉ c̣n cái lơm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn 1 tại Mang Cá*. (*Sau
này tôi được nghe nói: V́ nghe tin Tướng Ngô
Quang Trưởng kẹt nặng nên Đại Bàng Lê
Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ
Đoàn Nhảy Dù đă xua quân đi bộ từ cây
số 17 về Huế để cứu Tướng Trưởng.
Tôi xin Tướng Lưỡng cho tôi được
nghiêng ḿnh chào Ông một cách đầy kính phục
cho cái t́nh nghĩa huynh đệ không bút nào tả nổi
này. Để đáp trọn t́nh nghĩa, Lữ Đoàn
của Đại Bàng Lưỡng cũng hao hụt
nặng nề). Đoàn
xe dừng lại bên hông đại học Văn Khoa, cách
con đường là trường Kiểu Mẫu
mới xây, đối diện là đài phát thanh
Huế, và trước mặt là cầu Trường
Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ
Huế, chiếc cầu đă hàng ngàn, hàng vạn
lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm. Nh́n
qua chợ Đông Ba và phố Trần Hưng Đạo mà ḷng
quặn thắt. Một mái chợ đă sập,
những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ
đầu đường đến cuối đường
Trần Hưng Đạo không một bóng người. Nh́n
bên phải là cầu Gia Hội vắng tanh, những
cột khói khác vươn lên… Cả thành phố
đă chết, Huế tôi tang thương đến
thế sao! Một nhịp cầu đă sập, tôi nghĩ
vành khăn tang đă cuốn lấy Huế. Xuống
tàu tại chân cầu Trường Tiền, xuôi ḍng Hương
xanh biếc ngang Gia Hội, quẹo trái sông Hang Bè,
cầu Đông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi
thường mua dụng cụ học tṛ. Tiếp
tục xuống ngang tiệm gạo Mụ Đội, có người
con gái đẹp năo nùng tên Xuân mà con trai Huế
lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi
qua đó để nh́n người con gái trời cho
đẹp. Qua trường B́nh Minh, nơi tôi học năm
Đệ Tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Đến
Bao Vinh, dân chúng nhốn nháo khi thấy một đơn
vị lớn đang đổ bộ tại bến
đ̣. Tôi
hướng dẫn đơn vị vào Mang Cá Nhỏ
để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương.
Địch chào đón bằng hàng loạt hỏa tiễn
107 và 122. Tất cả nằm sát bờ tường
để tránh pháo và t́m chổ pḥng thủ. Tôi cho
lệnh Sự, Trung Úy Đại Đội Phó,
kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiều.
Trung Úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy
nhiệt huyết, xuất thân Khóa 19 Vơ Bị Đà
Lạt, thủ môn đội tuyển Nha Trang, đúng là
đa năng đa hiệu. Tôi
dự buổi họp Tiểu Đoàn khẩn cấp và
quan trọng. Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh: –
Phu Nhơn rành địa thế dẫn đầu, 8
giờ sáng mai xuất phát. Kế tiếp là Tôn, Đại
Đội 1, Lượm Đại Đội 2, tiếp
theo là Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cùng Đại
Đội Chỉ Huy, sau cùng là Ṭng Đại Đội
4. Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là trường
tiểu học Trần Cao Vân. Trước trường
có thành Quân Cụ, vào khoảng một đại đội
ta đóng ở đó, không biết c̣n hay mất. Phán
hỏi: –
C̣n phi trường Thành Nội th́ sao? T́nh h́nh trong Đại
Nội, Thiếu Tá có nắm vững không? –
Không rơ, tụi nó chiếm hết, chốt rất
kỹ. Tất cả các cửa Thành Nội tụi nó
đều kiền và chốt rất chặt. Cửa
Hữu, cửa Chánh Tây, cửa Sập, cửa An Ḥa,
cửa Đông Ba, Kỳ Đài Phú Vân Lâu v.v.. tụi nó
đều chiếm hết. Trong
óc tôi, một bản đồ chi tiết hiện ra
rất rơ cho một cuộc hành quân mà t́nh h́nh tôi
nắm không được vững. Tôi cố t́m
một con đường ngắn và an toàn nhất cho
đơn vị để tới mục tiêu. Có
rất nhiều đường đưa tới trường
Trần Cao Vân, nơi từ 9 tuổi đến 19
tuổi tôi đă bao nhiêu lần đi lại. Con
đường nào cũng đầy hoa và mộng, nay
tôi đang t́m một con đường không có máu
để cho anh em chúng tôi đi. Tám
giờ sáng, tất cả gọn gàng, sẵn sàng di
chuyển. Ba trăm thước đường từ
Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn chồn, nóng
ruột v́ nơi đó Mạ tôi, d́ tôi, chị tôi và
em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có
bị ǵ không? Thiếu
Uư Duật, Trung Đội Trưởng Trung Đội
2 dẫn đầu. Duật xuất thân Khóa 21 Đà
Lạt, hăng say, gan, thích xóc đĩa và gái đẹp,
uống rượu rất ít, chỉ phá mồi. Phán và
Ban Chỉ Huy Đại Đội kế tiếp.
Thiếu Uư Nghênh, Trung Đội Trưởng Trung Đội
1 tiếp theo. Nghênh xuất thân từ “Commando Du Nord”,
kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh phé nhưng đánh
nhỏ, rượu rất ít và không thích gái. Kế
đến là Thượng Sĩ Nhất Mă Khện,
Trung Đội Trưởng Trung Đội 3, xuất thân
Commando trong Nam, rất gan lỳ, ít nói, mê rượu,
không mê gái. Sau cùng là Thượng Sĩ Nhất
Hải, Trung Đội Trưởng Trung Đội súng
nặng. Hải xuất thân “Commando Du Nord”, người
Nùng, lỳ lợm già dặn chiến trường, không
rượu, không gái và không thuốc lá. Hai
bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ
mặt hớn hở, thật tội nghiệp cho
họ. Lần lần những khuôn mặt quen thuộc
hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Đội
Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping
Pong… Những tiếng nói đó đây: –
Anh Phán đó tề! Anh Phán! Anh Phán… Tiếng
gọi lớn dần và lan dài suốt con đường
tôi đi. Con
hẻm sát hồ Tịnh Tâm là đường vào nhà
tôi. Mạ tôi đó, d́, chị và em tôi đó, xao
xuyến quá! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, d́ và
chị tôi khóc như mưa. Thằng em luống
cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt: –
Mi chạy mau vô nhà lấy khúc cá kho khô và đ̣n bánh
tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi. Mạ
tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị thiên đường: –
Con xức cho khỏi gió. Lính
đi ngang hỏi nhau: –
Mạ Đại Úy sao đầu trọc lóc vậy bây?. –
Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi ḿnh
cũng được hưởng ké đấy. Phán
và âm thoại viên vẫn c̣n dừng lại: –
Nhà ḿnh có răng không Mạ? Bà con thân thuộc có ai
bị chi không? –
Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng hai trái nhưng
người th́ không răng. Nhà ḿnh bị ngói đổ
một góc, cây đào bị găy ngọn. C̣n thằng
Chỉ không biết đi mô. Chỉ
là bạn tôi xuất thân Khóa 17 Vơ Bị Đà
Lạt. Tôi xót xa đắng miệng: –
Thôi con đi, Mạ và gia đ́nh đừng lo cho con. Mạ
tôi khóc ̣a, tôi thật năo ḷng. Những tiếng
gọi anh Phán, anh Phán tiếp tục vang lên cho đến
giữa hồ Tịnh Tâm. Tiếng
gọi, giọt nước mắt và những cánh tay chào
vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm
của tôi. Bây giờ là lúc đền đáp ơn sâu
nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi
trong người, tôi và hai âm thoại viên vượt lên
đi với trung đội đầu. Cuối
hồ Tịnh Tâm là đường Tịnh Tâm, tôi cho
lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông
Ngự Đạt. Như vậy bên hông mặt của con
cái tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che
chở. Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái
là trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, nhưng
tôi không đi con đường này. Tiếp tục
đi thẳng qua một con hẻm nhỏ, con đường
đă bao lần đi lại, nào ăn cắp me, nào
trộm sấu, nào hái xoài, nào đào sen, nào học
thi, nào thăm người yêu… Con đường nào
cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu khôn quên. Đến
Canh Nông, chưa thấy phản ứng nào của địch,
gần sân bay Thành Nội dân chúng thưa thớt và
kinh hăi. Tôi cho dừng quân bên này đường,
một ông già mách: –
Con đường ni bị bắn rất rát, từ
trong cửa Ḥa B́nh ở Đại Nội bắn ra. –
C̣n sân bay Thành Nội ra sao ôn, có ai khôn? –
Đánh nhau mấy ngày ni dữ lắm, mà tui không biết
răng, không biết ḿnh hơn hay thua nữa. Tôi
chỉ con đường và hướng dẫn
Duật: Băng qua khỏi con đường này, đến
một xóm nhà, qua một cái cống th́ bên trái là thành
Quân cụ. Nghênh và Mă Khện yểm trợ hông
mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường
theo tôi. Con đường chỉ có 5 thước mà hơn
một giờ mới vượt qua với 6 thằng em
rớt rụng trên mặt đất. Lần ṃ theo mép
đường tới sát ống cống, tôi cho
dừng lại, phi trường vắng tanh. Tôi bảo
Duật: -
Mày cho một thằng con nhỏ qua trước làm
đầu cầu bên kia cống, sau đó cho tất
cả con cái mày qua rờ vào thành Quân Cụ, chờ
tau lên. Thành
Quân Cụ cao khỏi đầu người, không liên
lạc được với bên trong. Tất cả con
cái nằm sát thành để tôi và đám cận
vệ ḅ tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón
sắt, Field -Jacket, giây ba chạc, không phải tụi nó
đâu, chắc chắn là bạn rồi. Thằng đệ
tử tôi gọi lớn: –
Ê! Thủy Quân Lục Chiến đây. Một
loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách
rùng rợn. Ḅ lết vào tới trong đồn, ông trưởng
đồn nói tiếng Huế đặc sệt, ông là
Trung Uư Cát, thủ môn nổi tiếng của Huế: –
Đại Úy ơi, 7 ngày không ra vào nổi, nó bao
hết. Trường Trần Cao Vân, Đại Nội, xóm
nhà trước mặt và bao quanh đồn tụi nó
chốt hết. Nhà bảo sanh sau lưng trường cách
một cái hồ tụi nó cũng chiếm luôn. Dân chúng
chạy hết rồi, không c̣n ai cả. Tụi nó pháo
liên miên, không cho ngóc đầu được, đủ
loại: 61, 82 hỏa tiễn 107, 122. Tôi ráng cố
thủ đây được ngày mô hay ngày nấy, c̣n
ngoài nớ tôi không liên lạc được nên không
biết t́nh h́nh các nơi khác ra răng. Tôi
trở ra báo cáo về Tiểu Đoàn, lệnh của
Tiểu Đoàn Trưởng: –
Phu Nhơn chiếm cho bằng được trường
Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu Đoàn
Trưởng và Bộ Chỉ Huy sẽ lên ở
trại Quân Cụ. Quan sát địa thế thêm
một lần nữa, trước mặt trường
là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc
lợp tranh chỉ có một ghế ngồi. Sát đó
là ngă ba đường, một đường
chạy lên cửa Sập, một chạy về trường
Đào Duy Từ và một chạy đến trường
Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố
nhố bên trong trường. Duật phải chiếm am
trước, trong trường bắn ra mănh liệt, có
cả B.40. Tôi ra lệnh Nghênh và Mă Khện cầm chân
hỏa lực trong trường học. Duật
chiếm xong am không một tổn thất. Tôi gọi Thượng
Sĩ Hải đem hai đại liên và một 57 không
giật lên tăng cường cho Duật để
Duật yểm trợ cho Mă Khện vào trường.
Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và
sự gan dạ, kinh nghiệm, Mă Khện đă
chiếm được một lớp của trường.
Nghênh tràn vào cùng với Mă Khện lục soát và làm
sạch sẽ. Hỏa lực từ góc Thành Nội
đổ dồn về phía trường học, không
sao, có thành của các lớp học che chở. Tôi
kêu Sự : –
Pháo binh có chưa? Kêu về đại bàng Thanh Hoá
cứ bắn vào góc thành cho tau. Đến
chiều vẫn không có một trái pháo bắn, anh em tôi
có 7 đă lót đường cho mục tiêu đầu
và 3 bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và
bảo đem cây 57 đến: –
Nhắm ngay vào góc thành, tụi nó bắn rát quá cứ
“phơ” cho tau, trật trúng ǵ không cần, chỉ
cần tiếng nổ. Qua
một vạt đất trống, trong một ngôi nhà
gạch có bóng người lấp ló. Duật quay 57
nhắm thẳng: –
Nhột quá, cho em bung cái nhà này đi. Tôi
bỗng thấy có bóng đàn bà, tôi la lớn: –
Khoan bắn, nhà thầy Tiềm. Rồi
tôi băng qua đám đất trống đến nhà
gặp cô và các cháu. Không thấy thầy, tôi chào cô và
giới thiệu tôi học Sử Địa với
thầy ở trường Bồ Đề và khuyên cô
về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà
ḷng nao nao buồn. Giờ này vẫn chưa có pháo, làm
sao khóa góc thành đó lại. Duật bảo con cái
đào hầm hố thật kỹ, tôi dặn: –
Mày cố thủ tại đây cho Tiểu Đoàn lên. Tôi
cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến
tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường
và góc Thành Nội. Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên
la quằn quại, sau cùng chỉ c̣n tiếng rên nho
nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người
đàn bà máu me khắp nửa phần thân thể,
vừa bị thương nặng lại vừa sanh ra
một bào thai lờ mờ tượng h́nh đứa
bé, trông giống như con rắn mối. Xót xa,
chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa
bé ngay và chuyển người mẹ về đồn
Quân Cụ cho bác sĩ Tựu cứu giúp. Đến
lúc ấy đại đội tôi đã
có 13 chết, 3 bị thương nặng để
trải thảm cho đơn vị. Tối
đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đến
trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, Tiểu Đoàn Trưởng
cho Đại Đội 2 của Tôn và Đại Đội
1 của Lượm dưới sự chỉ huy của
đại ca Đă, Tiểu Đoàn Phó, chiếm nhà
bảo sanh. Đoạn đường có 30 thước, cách
một hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa
con thân yêu. Sau 8 tiếng đồng hồ mới
chiếm được nhà bảo sanh, Tôn bị thương
ngay từ phút đầu, Lộc Đại Đội Phó
lên thay. Mười
ngày tiếp theo, nh́n nhau qua một con đường
rộng vừa đủ cho xe chạy mà hai bên đều
khựng. Mưa vẫn rơi ray rức lê thê, thỉnh
thoảng cơn gió thật lạnh thổi qua. Có
những trận tấn công chớp nhoáng của địch
vào Đại Đội của Lượm và Lộc
đều bị đánh bật lui. Ngược lại
ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng không
chiếm được thêm một tấc đất.
Hai bên tải thương đều thấy nhau rất
rơ. Lượm bị hao hụt nặng, Phu Nhân lên thay.
Tôi và con cái ḅ lên từng toán một, địch và
ta đă sát nhau, ngóc đầu lên là đạn
bắn xuyên mũ sắt ngay. Hơn nửa ngày mới
trám hết vị trí của Lượm. Lượm và
Ṭng về pḥng thủ cho Tiểu Đoàn. Tối đến
pháo địch đủ loại nổ vang trời. Xác
chết của anh em nằm trên mặt đường,
śnh lớn mà không lấy được. Phía bên kia
bốn năm xác địch vẫn để yên,
tụi nó cũng không dám ra lấy về. Cố
giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc
tấn công nhỏ vẫn không qua đường
được. Từ
căn nhà hai tầng cuối đường nh́n xéo
từ nhà bảo sanh, một thượng liên và và
trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con
đường rất kỹ, dưới sự chỉ
huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám,
tóc xỏa dài nhưng không thấy rơ mặt. Tay đứa
con gái chỉ tới đâu th́ đạn nổ
dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn hai
phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và
mất luôn. Hai
mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn
sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy chửi nhau.
Theo dơi máy, đột nhiên tôi bắt được
một câu báo cáo của tụi nó: –
Bồ câu hết thóc! Tôi
nghĩ ngay tụi nó đang thiếu đạn, nếu
cứ nằm như thế này, một lúc nào đó
tụi nó tập trung tấn công, ḿnh cũng sẽ
bị mất vị trí ngay, chỉ v́ áp lực quá
nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh
em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết
luận riêng: “Nếu ḿnh không đánh nó, chắc
chắn nó sẽ tấn công ḿnh”. Tôi tŕnh với
Tiểu Đoàn Trưởng: –
Thiếu Tá cho tôi luôn thằng 2 để tôi tấn công
tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và
sức khỏe ngày càng hao hụt. Tiểu
đoàn trưởng không cho, bắt ráng giữ vị
trí. Phu Nhơn năn nỉ: –
Nếu không th́ cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán
nhỏ tràn qua đường đánh đột kích
rồi rút về. Ḿnh phải chứng minh cho tụi nó
thấy ḿnh c̣n đủ sức chơi tụi nó,
thời tụi nó không dám tấn công ḿnh. Tiểu
đoàn trưởng nói: –
Làm kế hoạch xong cho tôi hay. Tại
hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm:
Lộc Đại đội 2, Sự Đại đội phó
của tôi, Duật, Nghênh và Mă Khện. Tôi nói: –
Nằm chờ lâu tau chán quá, chỉ muốn qua đột
kích tụi nó rồi rút về. Tất
cả im lặng, tôi tiếp: –
4 giờ sáng mai ḿnh đột kích, nếu giữ
được vị trí thời tau cho tràn luôn. Bây
giờ tau chọn 4 toán: Toán
1: Phán, Điểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy. Toán
2: Duật và 3 người thật nhanh và gan dạ. Toán
3: Nghênh và 3 người. Toán
4: Thượng Sĩ Nhất Hải và 3 người. Tất
cả trang bị thật nhẹ: mỗi người 20
quả lựu đạn và hai băng đạn cong ráp
ngược cho M16. Sự
và Lộc dẫn con cái ra sát bờ đường, khi
thấy khói xanh th́ lùa tất cả tràn qua. Nếu
thấy khói màu vàng, yểm trợ tối đa cho
tụi tau dọt về. Sự và Lộc hăy về lo
cho con cái, đúng 4 giờ sáng sẵn sàng tại
vị trí. Duật,
Nghênh và Hải ở lại, tôi nh́n anh em thật lâu
rồi cho biết: –
Tau theo dơi tụi nó báo cáo qua máy, h́nh như tụi nó
thiếu đạn. Do đó tau quyết định
cuộc đột kích hôm nay. Tôi
nghiêm mặt và lạnh lùng nói: –
Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải
đi với tôi. Riêng ông Hải, tôi cho ông suy nghĩ
lần nữa. Lần này đi khó trở về, ông
con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép
và tôi hứa rằng tôi không nghĩ là ông thiếu can
đảm. Suy
nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả
lời: –
Đại úy cho tôi ở lại vị trí. Tôi
vui vẻ bằng ḷng và gọi Mă Khện đến, Mă
Khện đồng ư đi và xin đem theo Hạ Sĩ
Nhất Mười. Tôi tiếp: –
Bây giờ các ông về chọn người xong lên
gặp tôi. Tôi
ngồi suy nghĩ miên man, liều, phải liều
mới cứu được đơn vị. Chiều
hôm đó, lúc 4 giờ, các toán trưởng lên gặp
tôi, có thêm Trung Úy Sự. Tôi hỏi lần chót: –
Có ai xin ở lại cho tôi hay. Không
ai trả lời. Tôi căn dặn Sự nhắc
Lộc khi thấy khói xanh th́ sao và khói vàng th́ sao,
phải nhớ kỹ. Tôi đưa ba toán trưởng
ḅ đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn
ở sát ngă tư đường. Tôi chỉ từng căn
nhà bên kia đường: –
Cái thứ nhất gần ngă tư là mục tiêu
của tau, cái thứ hai kế tiếp có hàng rào là
của Nghênh, căn thứ ba cũng có hàng rào và cây
nhăn cao là của Mă Khện, căn thứ tư có
mấy bụi chuối lớn là của Duật.
Tất cả hăy quan sát cho kỹ và cố chọn
một con đường tiến quân thích hợp, không
cần báo cáo miễn sao thích hợp thôi. Tôi
tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi. Căn nhà
bằng gạch có nhà trên và nhà dưới, kế
đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát
đường là cái giếng xi măng. Trước sân
có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm
ǵ để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói: –
Lần chót tôi hỏi các ông có ư kiến ǵ không? Đúng
4 giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó
tùy các ông bằng mọi cách phải hốt cho
bằng được các mục tiêu tôi ấn định. Trở
lại vị trí, tôi dặn ḍ Điểu, Việt, Can, Dư
và Phúc mang máy: –
Tối nay miễn gác, 3 giờ sáng mai gặp tau ở
đây. Sau
đó tôi đi gặp Tiểu đoàn trưởng
để tŕnh bày kế hoạch. Ông nói: –
Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ! Tôi
nói: –
Nếu Thiếu Tá không làm bây giờ, một vài ngày
nữa tụi nó chỉ cần ho là lính ḿnh chạy
hết. Cuối
cùng ông chấp thuận: –
Nhớ là có ǵ th́ trở về liền, càng sớm càng
tốt. Tôi
dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước
mắt tôi bây giờ không có ǵ ngoài đoạn
đường từ tiền đồn qua cái
giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi
chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho
đến 3 giờ sáng. Trước
khi ḅ ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và
Lộc một lần nữa cho chắc ăn. Bốn
giờ kém mười sáng, toán tôi có mặt tại
tiền đồn. Trời
vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái
lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy
ǵ, tôi ngại bắn lầm nhau. Gắng chờ
một chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa
vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm
giờ rưỡi, cái giếng đă nh́n thấy
được. Chuẩn bị! Tôi cảm thấy
hồi hộp, chỉ cần bốn cái nhảy vọt
là qua bên kia đường nhưng khó như đi lên
trời v́ con đường này là con đường
tử thần làm ranh giới bên ta và địch, là
hai mươi ngày trời không nuốt nổi 5 thước
đất. Rách nát bao nhiêu cũng vẫn không qua
được. Bây giờ ḿnh cắt băng khánh thành,
phải làm để cứu đơn vị, phải
hy sinh để cứu đồng đội. Vừa
suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng.
Kế tiếp là Điểu, Việt, Can, Dư băng
theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra
như tắm mặc dù trời lạnh như cắt.
Điểu và Can chiếm cầu tiêu. Bỗng một
loạt đạn thật gịn và thật gần, tôi
quay nh́n ra đường. Phúc và cái máy nát ḿnh
nằm trên mặt đường nhựa, dưới
làn đạn mịt mùng của địch. Tôi hét
lớn: –
Dư, Việt chiếm nhà bếp. Tôi
theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Điểu và Can. Súng và
pháo nổ dồn dập, một B.40 nổ ngay trên
đầu mái tôn cong, cả ba thầy tṛ đều
bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu
và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá
nên tôi cùng Điểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh: –
Điểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật
kỹ. Để Việt ở lại, tôi và Can cũng lên
nhà trên. Điểu và Can giữ cửa chính nh́n ra sân, tôi
và Dư giữ cửa sổ nh́n ra vườn có
nhiều luống khoai lang. Trời
sáng hẳn, tôi lắng tai chẳng nghe nhà bên cạnh có
ǵ cả bèn ḅ trở ra bờ giếng và thấy
Duật, Nghênh, Mă Khện vẫn c̣n bên kia đường.
Tôi toát mồ hôi. Tôi nh́n thẳng vào mấy ổng
rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám
gọi lớn tiếng, mấy ông kia gật đầu.
Tôi ḅ trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng
nhỏ, súng lớn nổ khắp nơi và nhất là bên
phía tay mặt tôi. Tôi biết rằng tụi tôi đă
băng được qua đường. Tôi hỏi
khẽ: –
Thấy ǵ không Dư? Dư
lắc đầu, tôi nghe tiếng th́ thào sát vách tường
phía ngoài. Tôi đoán khoảng 7-8 người đang
ở trong một cái hầm, tôi dùng ngón tay đẩy
nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ
phía nhà đối diện xuyên ào ào vào cửa sổ.
Bỗng Dư chỉ tay về phía các luống khoai, tôi
đếm đủ 11 người đang ḅ qua, kaki Nam
Định, súng AK và B.40, cách vách tường khoảng 20
thước, 15 thước rồi 10 thước. Tôi
đưa súng lên lên định bóp c̣ th́ Dư kéo
lại và ra dấu dùng lựu đạn. Tôi dựng cây
súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu
đạn miệng cắn chốt. Dư cũng
thế, bốn lựu đạn ném ra cùng lúc,
tiếng nổ xé trời, rồi bốn trái tiếp
theo. Bên ngoài tường, tiếng hét lớn rồi
tiếng rên và sau đó im lặng, tụi c̣n lại ḅ
sát vào chân tường. Nh́n ra cửa, 5 xác nằm
vắt trên luống khoai. Một loạt đạn
nổ và tôi nghe: –
Chết em, Đại uư! Tôi
sững sờ nh́n Dư, tay trái ôm ngón út của bàn
tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ
ra ḷng tḥng. Dư ngă vật ra chết tại chỗ, nơi
Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở
vách tường. V́ măi nh́n qua cửa sổ mà không
để ư ở phía dưới: nguyên một họng
AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư
mà nhả đạn. Tôi bắn một loạt M16 ra
cửa sổ, và cứ thế hết quả này qua
quả khác tôi ném tất cả lựu đạn
của tôi ra ngoài bờ tường. Hai
thằng em đă hy sinh, c̣n bốn thầy tṛ phải
giữ vững vị trí. Phía bên tay phải của tôi,
súng vẫn nổ dữ dội. Đến 10 giờ 30 sáng
tôi cho Điểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mă
Khện. Điểu băng người ra đi, bốn căn
nhà cách nhau mười phút đi bộ mà hơn
một tiếng đồng hồ sau Điểu mới
về báo cáo là tất cả đă chiếm được
mục tiêu. Có đoạn đường nào xa và
xấu hơn đoạn đường tôi đang
đi! Toán
Duật: một chết một bị thương. Toán
Mă Khện: hai chết. Toán
Nghênh: một chết một bị thương. Tất
cả là 6 chết 2 bị thương, chúng tôi c̣n
lại 11 người tại tuyến. Điểu
ḅ ra giếng cố đem qua cho tôi một cái máy.
Cột máy vào một đầu dây và quăng đầu
dây kia qua cho Điểu kéo. Can mờ máy liên lạc
với Tiểu đoàn: –
Tŕnh đại bàng, tôi sẽ cho tràn ngập vị trí
với thằng 2 của Lộc và thằng 3 của tôi. Đại
bàng hỏi: –
Tại sao từ sáng đến giờ không chịu liên
lạc với tôi? Tôi ra lệnh rút về ngay. Phán
nài nỉ: –
Đây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin
đại bàng cho làm luôn. Đại
bàng Thanh Hóa nói bằng bạch văn không ngụy
trang: –
Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra ṭa
án quân sự. Khí
giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả
lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ
thật kỹ. Suy nghĩ thật kỹ. Hơn mấy
giờ để đánh mục tiêu, bốn căn nhà
và một con đường ngập máu. Mưa vẫn
lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như
tắm. Cuối
cùng tôi đành bảo Điểu chuyển lệnh cho các
toán: –
Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không
chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết
bỏ lại. Năm
thước đường đi đă khó, về c̣n
khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn
nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo
bao phía, đan lưới thật dày trên mặt
đường và khắp vị trí. Làm sao trở
về đây? Con cái bên kia đường đưa
mắt theo dơi. Toán tôi ḅ ra giếng, bỗng mấy bóng
đen vụt qua đường như sao xẹt, nhào vào
bờ lề và được anh em kéo ra sau. Đạn
nổ ḍn tan cày nát mặt đường. Đây là
mấy đứa bị thương nặng, tưởng
là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút chúng
thu hết tàn lực vùng chạy về, chớp mắt
không kịp thấy. Hỏa
lực 3 phía nổ vùi vào vị trí chúng tôi. Các toán
đột kích không c̣n liên lạc với nhau. Điểu
và Can vẫn giữ căn nhà. Địch kiểm soát con
đường bằng mấy cây thượng liên và
trung liên, chúng bắn liên miên. Bên kia đường,
Sự và Lộc đáp lễ bằng hỏa lực cơ
hữu của Khăn Tím và của 2. Tôi lấy chân
đạp vào thành giếng phóng người băng qua
đường, lăn ḿnh, nhảy, chạy và té ào vô
bờ lề. Anh em kéo vội tôi ra sau, tôi dừng
lại bảo Lộc và Sự bắn từng loạt
một để tụi nó dọt về. Nh́n
thấy Việt ngồi thành giếng trố mắt ngó
về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có
một con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho
mấy thằng em. Tôi vừa quay mặt hét: –
Bắn kềm mấy cây thượng liên. Những
bóng người bay vọt qua đường. Tim tôi
thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt
tôi gặp Nghênh, Duật, Mă Khện và tất cả
anh em. Tôi ôm gh́ từng đứa, tụi nó c̣n
sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi
một cách dữ dội mà đậm đà tŕu
mến. Lính với tay sờ người, nắm
nhẹ áo tôi: -Đại
Úy, tóc và râu Đại Úy cháy hết rồi,
mặt bị dăm nhiều chỗ. Cả
Đại đội bất chấp đạn địch,
đứng dậy nh́n nhau hănh diện và sung sướng.
Tôi báo cáo Tiểu đoàn: –
Tất cả đă về vị trí. Bỗng
tôi thấy thiếu một cái ǵ, tôi nh́n Can và
Việt hỏi: –
Thằng Điểu đâu? Tụi
nó nói: –
Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa
chạy lung tung t́m Đại Úy ở bên ấy. –
Thôi chết tau rồi, tau phải cứu nó, hai
thằng bây theo tau. Tôi,
Can và Việt ḅ trở ra đường. Bỗng nhiên
một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào,
nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua
đường, nhào lăn vào vị trí và la lớn: –
Ê, tụi bay thấy anh Hai đâu không? Điểu
đứng dậy nước mắt đầm đ́a,
tôi lao đến ôm Điểu: –
Tau định qua kiếm mày đây. –
Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồi. Em
đi lục hết căn nhà mấy chục lần,
chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai
đâu. Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với
em, phải sát bên cạnh anh Hai, nếu có ǵ cũng
phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ. Tóc
tai mặt mày râu ria Điểu cháy nám, áo quần rách bươm,
nó khóc mùi mẫn v́ thấy tôi c̣n sống. Rồi nó
lại bẻn lẻn cúi đầu hai hàng nước
mắt lă chă giọt xuống đất. Trong một
cuộc chiến bạc bẽo lại có chút t́nh nghĩa
trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng
hổi. Sáu giờ chiều, xuống tŕnh diện
Tiểu Đoàn Trưởng, ông nói ngay: –
Ông làm chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó
th́ nói làm sao với Lữ Đoàn? Tôi
dạ dạ vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề
nghị: –
Thưa Thiếu Tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin
chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi
thêm thằng 2 của Lộc, để thằng 1
của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi
phẩm. Chỉ xin Thiếu Tá cho tôi hai chiếc tank kèm
hai bên hông của tôi. Ông
hỏi: –
Có chắc ăn không Phán? Tôi
cương quyết: –
Chắc, và nếu tràn được vị trí
Thiếu Tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Đài
nếu kịp thời gian. Tôi
theo Tiểu Đoàn Trưởng lên tŕnh ông Già Hự,
Đại Tá Yên Tư Lệnh Phó. Ông già chấp
thuận. Tôi
trở về họp các trung đội trưởng: -
Ngày mai, 8 giờ sáng, Đại Đội 3 Khăn Tím bên
trái, Đại Đội 2 của Lộc bên phải, dàn
hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm
chuẩn tiến song song. Sau khi hai chiếc tank yểm
trợ bằng hỏa lực xong, cả hai đại
đội xung phong tràn ngập vượt qua mỗi
chốt thật nhanh, không cần thâu chiến lợi
phẩm, để Đại Đội 1 đi sau làm
chuyện đó. Tất cả ba lô và đồ ăn
để lại, trang bị thật nhẹ, Khi tới
xóm nhà sát cửa thành th́ dừng lại chờ tôi. Đúng
8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, hai chiếc tank Ontos
hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị
6 cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí tác
xạ cho hai trưởng xa người Mỹ rồi ra
lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106 ly này sẽ san
bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi
được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi
chiếc tăng chỉ bắn một phát đạn duy
nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết
chạy về đâu. Tôi hết hồn, quân đă dàn
xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét
thật lớn, hét khản cả cổ: -XUNG
PHONG! Cả
một đoàn quân dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích. Con
đường trước mặt, con đường
của 21 ngày máu và nước mắt, con đường
tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua là
đi vào cơi chết. Tôi tức giận chửi thề
lung tung rồi chụp cây đại liên M.60 của người
lính bên cạnh bắn một loạt dài rồi
một ḿnh tôi vừa bắn vừa băng qua
đường cùng với toán cận vệ: Can ,
Việt, Điểu và hai thằng mang máy. Qua khỏi
đường xông tới trước, tiếng đại
liên của tôi nổ ḍn. Đúng lúc ấy cả đoàn
quân đồng thanh hô xung phong và ào qua đường.
Sau đó, đoàn người vượt nhanh qua
mặt tôi và lướt tới trước. Súng
nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M16
bắn văi vào chốt, lựu đạn ném vào
chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua,
cố giữ đội h́nh. Tiếng nổ inh tai liên
tục, đàn áp thật mănh liệt và chạy
tới trước. Đến 3 giờ chiều, chúng tôi
đến xóm nhà sát cửa Sập. Lính
vỗ vai nhau cười làm tôi bắt cười
lớn v́ xóm nhà này rất quen thuộc với họ.
Lính thường hay đến xóm này rồi về
kể nhau nghe con này đẹp, con kia chân dài, con
nọ… Nào khăn, nào thau vứt bừa băi khắp nơi.
Lính vui vẻ kể chuyện tục cho nhau nghe và
hồn nhiên đùa nghịch. Những tiếng cười
đầy ham muốn và thèm thuồng, hơn 40 ngày,
từ vùng 4 về giải tỏa Sài G̣n rồi ra đây,
không thấy mặt một người đàn bà,
chỉ thấy toàn máu và mồ hôi. Tôi ra lệnh: –
Lộc và Sự mỗi ông cho 1 toán 10 người băng
nhanh đến sát mặt thành rồi ngồi
xuống. Toán kế tiếp chạy đến leo lên
vai toán thứ nhất để toán này đồn
đồn lên thành. Khi bám được mặt thành
th́ tác xạ tối đa và bằng mọi cách
giữ vị trí để làm đầu cầu. Con
cái tôi hành động đẹp c̣n hơn tài tử
xi nê. Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền,
hai toán lên thành chiếm xong vị trí. Tôi cho tất
cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường
và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch
vẫn mănh liệt trên nóc thành. Một
chặng đường xương máu đă vượt
qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của
niềm hănh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa
nặng: Kỳ Đài Huế. Đây
là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân
tộc nói chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 người
tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ
đó Duật dùng hỏa lực kềm địch
ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mă
Khện chiếm Kỳ Đài. Địch
bắn trả. Con cái tôi dùng hỏa lực tối
đa và thần tốc tiến vào Kỳ Đài. Phản
ứng của địch bắt đầu yếu, 5
giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân
Lục Chiến đă làm chủ Kỳ Đài. Lá cờ
xanh đỏ sao vàng đầy hận thù c̣n ở trên
không. Một thằng em rút đâu trong người
ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ thật
lớn. Tôi gọi về Tiểu đoàn: –
Tất cả đă sạch sẽ, xin Thiếu Tá cho tôi
treo cờ. Tôi
nhớ rơ lệnh của Trung tướng Lê Nguyên Khang: –
Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy
nhất c̣n sống sót cũng phải dựng lại
cho được ngọn cờ vàng tại Phú Vân Lâu. Trong
niềm vui cùng tột, Hạ Sĩ Hạnh hét lớn:
“Thủy Quân Lục Chiến”, xong lấy trái hỏa
châu đập mạnh định bắn pháo bông lên
trời ăn mừng. Trong cơn say chiến thắng,
Hạnh xoay ngược hỏa châu vào ḿnh, hỏa châu
nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi: –
Em không sao Đại Úy. Phán
nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó
chết, và nó chết thật. Tiểu
Đoàn Trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy
chờ. (Sau
này tôi được nghe: Khi báo cáo về Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn 1, Chuẩn Tướng Trưởng
xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ
cho Sư Đoàn 1. Sáng hôm sau ngày 24/2 Phạm Văn Đính
dẫn một đơn vị của Sư Đoàn 1
từ cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng
kỳ.) Nh́n
lá cờ vàng phất phới trên nền trời màu xám
của Huế, tôi hănh diện thật sự v́ một
thằng con của Huế đă góp phần dựng
lại ngọn cờ này. Trung
úy Sự tŕnh tôi: –
Thằng Hạnh chết, ḿnh c̣n 67 người. Đại
đội ra đi hơn 17O người, sau 24 ngày và
sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3
mục tiêu: con đường, cửa Sập và Kỳ
Đài mà bây giờ tôi chỉ c̣n lại 67 người. Sáng
hôm sau tôi về phối trí đóng quân lục soát
ở khu vực cửa Đông Ba, Nhà Thương Nhỏ,
chợ Xép, ngă tư Anh Danh. Ban chỉ huy của tôi
đóng tại một tiệm cầm đồ,
tiệm này có Tôn và Lưu cùng học một lớp
với tôi hồi nhỏ. Trong nhà không c̣n ai cả. Chiều
hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ.
T́nh h́nh chưa được an ninh hoàn toàn nhưng
đóng ở đây chúng tôi nhẩn nha hơn trước
nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho
lệnh lục soát tàn quân địch. Lính canh bắt
giải tới một người đàn ông lớn
tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch thếch, áo
vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ bẩn, miệng
nói lí nhí. –
“Lệnh giới nghiêm, đă 11 giờ đêm sao ông này
c̣n lang thang trên hè phố, em nghi quá,” Người lính
nói. Tôi
sững sờ nh́n người đàn ông. Thầy Cao
Hữu Triêm! –
Trời ơi Thầy! Tôi
gọi mấy tiếng lớn mà thầy cũng không
nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất
nhỏ. Tôi cầm tay mời thầy ngồi: –
Con là học tṛ cũ của thầy đây. Một
ánh mắt lạc lỏng xa vời: –
Ờ, ờ sao con khỏe không? Thầy mấy ngày ni chưa
ăn chi cả. Lính
tôi kiếm cơm trắng và một đĩa gà
luộc về mời thầy xơi. Tụi nó c̣n
kiếm được một b́nh trà nóng mời
thầy. Sau một hồi thầy tỉnh táo, và cho
biết: cô và sắp nhỏ vào Đà Nẵng, thằng
con lớn bị chết rồi, thầy không muốn
về nhà nữa. Rồi thầy khóc, giọt nước
mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo. Tôi nói: –
Thôi thầy ở đây với con cho yên. Lính
của tôi thay nhau hầu hạ thầy ân cần, đến
ngày thứ tư thầy đ̣i đi, tôi thu xếp
để thầy vô Đà Nẵng. Từ đó, tôi
mất tin tức của thầy. Cầu mong thầy
được bằng an. Được
sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả
một phần nào chữ Hiếu cho nơi chôn nhau
cắt rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng
bào tôi đă tạo thành một cơn sóng thần
cuốn đi tất cả kẻ thù để dựng
lại ngọn cờ trên Kỳ Đài tượng trưng
cho Huế. Hai mươi năm sau, hồi tưởng
lại, máu và xương kia đă theo ḍng Hương
Giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển bắt làm
người biệt xứ! Lạy
trời, một ngày nào đó, cũng Cố Đô đó,
cũng Kỳ Đài đó, cho tôi được góp
phần dựng lại ngọn cờ một lần
nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa
nặng, nơi tôi đă sinh ra, nuôi tôi lớn lên và
cho tôi làm người. KHI TÔI CHẾT ĐỪNG
ĐƯA TÔI RA BIỂN Tác giả: Mũ Xanh Nguyễn Văn
Phán Khi
tôi chết, đừng đưa tôi ra biển Khi
tôi chết, đừng đưa tôi ra biển Khi
tôi chết, đừng đưa tôi ra biển Khi
tôi chết, đừng đưa tôi ra biển Khi
tôi chết, đừng đưa tôi ra biển |