Lá Thư Gs Nguyễn Văn Hai gửi Tướng Nguyễn Khoa Nam |
Lời
người gửi bài: Thân chuyển bài viết
của Thầy Nguyễn Văn Hai... thật xúc động...
không ngờ "nhà Toán Học" lại
rất dồi dào t́nh cảm và rất t́nh người... Lá
Thư gửi anh NAM Nguyễn
Văn Hai Anh Nam kính mến, Chúng tôi vừa coi xong cuốn video "Chiến
Tranh và Ḥa B́nh" của hăng Asia. Một đoạn
video gây chúng tôi nhiều xúc động nhất là
buổi phỏng vấn anh Phước về cái
chết đầy khí tiết của Anh, một vị
Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, vào
giờ phút buồn thảm nhất của lịch
sử đất nước. Một chi tiết đến
hôm nay chúng tôi mới biết và làm tôi ngạc nhiên
đến sửng sốt là Anh thọ tŕ thần chú
Thủ Lăng Nghiêm đă từ lâu. Sửng sốt là
v́ thật không ngờ từ lâu Anh đă suy ngẫm
nhiều về chân tướng cuộc đời, phát
tâm tin Phật Pháp thâm diệu, sống ung dung thanh
thản giữa một thế giới lắm tai ách và
khổ đau. Thực ra, Anh là người đă rất
nhiều lần gây cho tôi những giây phút bàng hoàng
sửng sốt. Duyên nghiệp cho tôi được cái
vinh dự cùng Anh học một lớp và ở chung
một kư-túc-xá suốt năm năm ở trường
Trung Học Khải Định. Lúc bắt tay Anh lần
đầu khi Anh sắp leo lên chiếc giường
ngủ đặt sát cạnh giường tôi đêm trước
ngày khai giảng niên khóa 1940 - 4, tôi có ngay cảm tưởng
từ hôm nay tôi may mắn có thêm một bạn đồng
song hiền lành, chăm học, dáng ngoài đúng điệu
một thư sinh. Nhưng tôi để ư Anh có một
nụ cười bí ẩn, măi đến nay tôi
vẫn c̣n chưa hiểu hết ư nghĩa của nó.
Thường Anh ít nói mà chỉ cười, cười
kiểu "ngậm kim". Có khi tôi tưởng Anh cười
nhạo báng, có khi tôi tưởng Anh cười đồng
ư, và có khi tôi cho là Anh cười để tránh nói
ra những cảm nghĩ làm mất ḷng người khác. Bây giờ tôi kể lại để Anh
nhớ một hai câu chuyện hồi c̣n ở trường
Anh đă gây cho tôi bàng hoàng sửng sốt. Thường
ngày vào giờ Vẽ, tôi ngồi gần Anh trong pḥng
Họa, ở sát ngay Nhà Chơi của Trường.
Cả lớp đều biết Anh có tài hội
họa, vẽ truyền thần và phong cảnh. Kể
ra, vốn tự biết ḿnh vụng về không vẽ
nên thân, tôi t́m ngồi gần Anh là cốt học mót
nơi Anh cách vẽ, chứ thầy Tôn Thất Đào
đâu có đủ thời giờ trong một tiếng
đồng hồ đi chăm sóc từng tṛ một
trong một lớp có đến 50 tên. Một năm
nọ, vào kỳ thi lục cá nguyệt, thầy Đào
ra đề tài cho vẽ tùy ư một cảnh hoạt
động ngoài trời. Thế là tôi lúng ta lúng túng,
hết gôm rồi lại xóa, làm ṃn gần hết viên
tẩy, thay tờ giấy vẽ này sang tờ giấy
vẽ khác, rốt cuộc năm mươi phút trôi qua
mà chẳng vẽ ra cái cảnh nào nên hồn cả.
Anh thương t́nh, biết tôi tự ái, không bao
giờ mở miệng cầu viện, mới hỏi:
Cậu ưng ḿnh vẽ hộ cho cậu không? Không
đắn đo suy nghĩ, tôi cảm ơn ḷng tốt
của Anh và đưa cho Anh một tờ giấy
vẽ c̣n nguyên. Thế là chỉ trong năm hay bảy
phút ǵ đó, Anh đă họa xong giùm tôi một
hoạt cảnh "Đá banh." Tôi mừng thầm
có cứu tinh pḥ trợ chuyến này chắc tai qua
nạn khỏi. Ngờ đâu, khi nh́n vào tờ
giấy vẽ trước khi đem lên nạp thời
trời đất ơi! Anh đă vẽ một
thằng bé chổng mông rách quần trên sân cỏ!!! V́
đă hết giờ và không c̣n cách nào hơn, tôi
đành đem bức họa "quỷ khóc thần
sầu" ấy lên nạp. Tôi nghĩ lại tất
cả là lỗi tại tôi, đă có ư gian th́ phải
cúi đầu mà lănh đủ quả phạt. Buồn
cười là câu chuyện không chấm dứt như
dự tưởng. Sau hơn ba năm dạy tôi môn
Vẽ, thầy Đào thừa hiểu tôi không bao
giờ đủ tài năng sáng tác ra một bức
họa để đời như vậy. Thầy không
cho tôi là người có tội nên phê vào tờ
giấy vẽ đề tên tôi điểm 19 trên 20. C̣n
điểm bức họa của Anh th́ chỉ
được 18 trên 20 mà thôi. Tôi được
một trận cười ra nước mắt, nhưng
Anh th́ đón nhận bài của ḿnh vẫn với cái
nụ cười "ngậm kim" muôn thuở! Sau đây là một câu chuyện khác, nhưng
lần này xin nhường cho Phan Thụy Dung, một người
bạn học khác của Anh kể hay hơn tôi
nhiều: Một hôm trong lớp học xuất hiện
một giáo sư Việt Nam, thầy B. H., dạy
tiếng Nhật vừa được ghi thêm vào chương
tŕnh trung học. Học tṛ bên ngoài ngoan ngoăn học
ngoại ngữ mới, thật ra bên trong chẳng
mấy người hăng hái sốt sắng v́ mặc
cảm hết tiếng Tây đến tiếng Nhật
đang đè nặng. Tất nhiên đám học tṛ có
phản ứng và sự việc xảy ra đă làm
cả lớp thích thú: Hôm đó thầy B.H. giảng cách dùng tiếng
Nhật khi nói về "đàn ông" và "đàn
bà," đại khái nói về "đàn ông" th́
dùng chữ "Watakusi," về "đàn bà" th́
dùng chữ "Watasi." Một anh bạn đứng
dậy giơ tay nói: Thưa thầy, như rứa là
"đàn bà" th́ không có "ku" phải không?
Cả lớp được một dịp cười
hả dạ. Tui không bao giờ quên được anh
bạn đó, người đă dùng óc hài hước
để hóa giải mặc cảm nói trên. Người
học sinh có óc hài hước đó lại là một
con người tài ba, sau này đă thành công trong đời,
đă lên đến đỉnh cao trong binh nghiệp và
khi không giữ được nước, đă noi gương
trung liệt của Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu, Phan Thanh
Giản, v.v... làm rạng danh một ḍng họ lớn
ở đất Thần Kinh: họ Nguyễn Khoa. (Trích
trong Tiếng Sông Hương "Kỷ Niệm 100 Năm
Trường Quốc Học"). Anh Nam ơi! Rồi duyên nghiệp đưa tôi
trở thành con rể trong gia đ́nh bên ngoại Anh, và
qua nhà tôi, tôi trở thành người em cô cậu
của Anh. Tin Anh t́nh nguyện gia nhập binh chủng
Nhảy Dù sau khi măn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị
Thủ Đức làm tôi kinh ngạc hết sức.
Đúng ra, theo phong cách của Anh, Anh phải là một
văn nhân, một nghệ sĩ. Nay Anh lại tự ư
muốn trở thành quân nhân quả cảm của
một binh chủng có tiếng oai hùng nhất của Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa, điều này làm tôi
mến phục Anh vô cùng! Anh nhớ không, sau Tết Mậu Thân, tôi có
dịp cùng một số sinh viên Đại Học
Huế lên thăm tiền đồn của Dù bảo
vệ Huế đóng trên núi ở phía Tây kinh thành.
Lại một lần nữa Anh làm tôi bàng hoàng
sửng sốt khi thấy nơi chốn Anh ăn
nằm không có chút ǵ khác biệt giữa cương
vị của một vị Đại Tá cao cấp
với một anh binh Nh́ thuộc cấp. Trong thời gian Anh đảm nhiệm chức
vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tôi
được gặp Anh một lần ở Sài G̣n và
hỏi về chuyện một Giáo Sư trường
Đại Học Dược Khoa muốn theo Anh để
nâng khăn sửa túi. Nhưng rồi Anh không nói có,
Anh cũng chẳng nói không, mà chỉ cười cái cười
ngậm kim như thuở nào! Anh Nam ơi! Trong trại tỵ nạn ở
Subic Bay, chúng tôi bàng hoàng sửng sốt khi nghe tin Anh
đă tự sát để đền nợ nước
và để tránh khỏi đầu hàng quân địch.
Anh lại gây trong ḷng chúng tôi một sự sót xa kính
phục vô cùng tận không lời nào tả xiết. Cuối cùng, nhờ được biết Anh
thọ tŕ Thần chú Thủ Lăng Nghiêm từ lâu, nên
nay chúng tôi mới rơ trong thời kỳ trước
1975, Anh đă thần thông thấy, biết trước
mọi điều bất hạnh sẽ xảy ra cho
đất nước, nhưng với trí tuệ
giải thoát, Anh vẫn sống an nhiên tự tại,
quan niệm sanh tử tức Niết Bàn, thảy
thảy đều không. Nay tuy Anh đă đi vào
cảnh chân như tịch tịnh, đời đời
hậu thế sẽ không bao giờ quên đề cao gương
trung liệt của Anh. Thương kính nhớ Anh vô cùng Hai tay nâng mảnh khăn tang trích thơ Ngô Minh Hằng |