ĐIỆP MỸ LINH |
Xuyên
qua từng áng mây chĩu nặng hơi nước,
những tia nắng đìu hiu của một buổi
chiều như đang ngập ngừng bên ngoài khung kính
của chiếc Boeing đồ sộ – đang bay.
Bảo-Trân nghiêng một bên má sát vào mặt kính để
nhìn lại phía sau. Dalat đã chìm khuất, chỉ còn
những đóm sáng ly ty từ những tòa buildings trên
triền núi cao. Từ những triền núi, hơi
lạnh toát ra, tạo thành những phiến sương
buồn, che khuất những khe núi thâm u rồi bay lang
thang trong vùng không gian im vắng để đợi
chờ ánh hoàng hôn. Từ
một trong những nhánh sông đục ngầu phù sa,
chiếc du thuyền nhỏ – Royal – trôi êm ả
giữa dòng, bỏ lại phía xa từng vùng ánh sáng
rực rỡ của những thành phố kỹ
nghệ và những khu vực thương mại
sầm uất. Khi
ánh nắng mai ló dạng cuối trời xa cũng là lúc
Bảo Trân thích thú nhìn dòng Dương Tử trườn
mình giữa hai vách núi thẳng đứng. Nhìn lên
đỉnh núi, Bảo Trân thấy những cây tùng/cây
bách chễm chệ một vùng trời riêng để
vui đùa với gió và tự tình với mây. Dưới
chân núi, nhiều người dân lam lũ đang còng lưng
vét những hạt cát hiếm hoi bên bờ sông để
đem về xây những ngôi nhà nhỏ nhắn trên hóc
núi cao hoặc xây những cây cầu cheo leo, nối
liền hai triền núi dọc bờ sông. Trên
mặt sông đục ngầu màu đất đỏ,
những chiếc du thuyền nhỏ vẫn ngược
xuôi trong âm thanh vi vu mệt mỏi của máy tàu. Âm
thanh này và màu nước này gợi nơi lòng Bảo
Trân hình ảnh những dòng sông thấm máu và
những cánh rừng tràm đầy mìn bẫy và
hầm chông khi chiến tranh còn lan tràn trên Quê Hương
đầy khổ nạn! Nàng tự hỏi, khi mạch
sông Dương Tử được đắp đập
để mực nước sông dâng lên cả trăm
thước thì cuộc sống nơi vùng Quê Hương
nghèo khó của nàng, sẽ bị ảnh hưởng như
thế nào? Trong
khi Bảo Trân trầm ngâm vì những ưu tư không
thể giải đáp được thì có tiếng gõ
cửa. Từ từ bước ra cửa, Bảo Trân
nghĩ rằng người gõ cửa là Phong, nhưng
vẫn hỏi, vì thói quen về vấn đề an
ninh: -
Ai đó? -
Anh. Anh sang rủ em lên sân tàu ngắm mặt trời
lặn. Quanh
sân tàu rất nhiều du khách chụp ảnh và
ngắm nhìn những tòa nhà nhiều tầng được
xây gần đỉnh núi để dân cư dời lên
đó khi công việc xây đập nước hoàn
tất. Rồi đây sẽ có nhiều thành phố
bị chìm lấp trong dòng nước sâu. Không hiểu
những người dân cần cù sẽ thích ứng
được với hoàn cảnh khắc nghiệt hay
không; vì càng lên cao thời tiết càng lạnh và
những vùng đất xốp để trồng
trọt càng hiếm. Nghĩ đến cảnh không
biết bao nhiêu gia đình phải dời lên núi cao,
để bao nhiêu ruộng vườn, mồ mả
Tổ Tiên, Ông Bà và người thân chìm sâu vào lòng nước,
Bảo Trân thở dài, lòng đầy thương
cảm! Giọng
của Phong cắt đứt ý tưởng của nàng: -
Ở đây đông quá! Mình lên tầng trên, nhé. Tầng
trên ít người. Phong xoay hai chiếc ghế nhựa
để lưng ghế quay về hướng mặt
trời rồi chàng và Bảo Trân ngồi vào. Nhìn vùng
không gian rộng lớn của sườn núi đối
diện chan hòa trong ánh nắng chiều, Phong hỏi: -
Màu nắng này có gợi trong hồn em chút gì không,
Bảo Trân? Bảo
Trân không vội đáp, lặng ngắm những thân người
gầy guộc đang hái bắp trên sườn núi và
nhóm người khác đang chặt thân cây bắp, bó
lại từng bó. Và gần nơi đỉnh núi, nàng
thấy mấy ngôi nhà ẩn mình trong màu xanh biếc
của cây rừng. Bảo Trân đáp: -
Dạ, màu nắng này làm em nhớ những buổi
chiều êm ả trên núi Pilatus ở Thụy Sĩ.
Chỉ khác một điều, trên triền núi Pilatus em
thấy vài trang trại và những chú bò thong dong nhơi
cỏ. Nơi cổ của mỗi chú bò, người
ta cột một cái chuông nhỏ, khi chú bò cử động
tiếng chuông nghe leng keng. Tiếng chuông này giúp cho người
ta dễ tìm, nếu tối đến mà chú bò không
về. Từ những hang động nhân tạo trên
đỉnh núi Pilatus, em có thể thấy, trong ánh
nắng vàng nhạt và từng cơn gió dìu dịu như
hôm nay, những áng mây chiều chờn vờn bên ngoài
cửa hang. Cũng từ những hang động đó
nhìn xuống, trên mặt nước xanh ngát như
biển khơi, em thấy vài chiếc du thuyền
nhỏ, mang cờ hình chữ thập, trôi lặng
lờ trên mặt hồ Lucerne. Nếu tinh ý, du khách có
thể thấy hồ Lucerne mang hình dáng chữ thập.
Xa xa, chen chúc trong màu xanh của cỏ cây là màu đỏ
của mái ngói trên những ngôi nhà thờ cổ,
với những tháp chuông cao vời vợi. Và xa, xa tít
đến cuối trời, màu xanh thẫm của
phụ lưu hồ Lucerne len lỏi giữa màu
trắng của những khe núi tuyết. Trên đỉnh
núi, tuyết lấp lánh trong chút nắng hắt hiu
muộn màng. Trong khung cảnh như vậy mà nghe
những tiếng leng keng trỗi lên liên tục từ
nhiều hướng khác nhau, tự dưng tâm hồn
em bâng khuâng, xao xuyến một cách lạ lùng! Bây
giờ, nhìn hình ảnh trên triền núi đối
diện, ngoài chút bâng khuâng, xao xuyến, em còn cảm
thấy như có điều chi rưng rức chĩu
nặng trong lòng! -
Như vậy là tâm hồn em giao động nhiều hơn
trước khung cảnh này, đúng không? -
Dạ, đúng. -
Tại sao? -
Cảnh đẹp của thiên nhiên làm thỏa mãn tính
hiếu kỳ của em. Nhưng điều làm cho em xúc
động lại là sự nghèo khó và nỗi bất
hạnh của con người. Còn anh, anh nghĩ gì? -
Anh hả? Anh nghĩ đến những buổi
chiều có nắng vàng tỏa rộng trên sườn
núi nơi đèo Rù Rì hoặc lung linh trên rừng
dừa nơi bãi biển tại trung tâm thể dục
Đinh Tiên Hoàng – sau này đổi lại là trung tâm
huấn luyện Biệt Động Quân – ở Đồng
Đế, Nha Trang. -
Anh là bác sĩ Quân Y mà anh làm chi ở chỗ người
ta huấn luyện Biệt Động Quân? -
Vì là bác sĩ Quân Y cho nên Hè phải thụ huấn quân
sự ở đó. -
Những buổi chiều như vậy anh nghĩ gì? -
Anh cảm thấy cô đơn lắm và: “Anh nhìn xa
vắng, ngàn thương nhớ. Em đã xa rồi,
em biết không?” (1) Biết
Phong muốn gián tiếp gợi lại Cuộc Tình Xót
Xa/muộn màng giữa chàng và nàng, Bảo Trân thoáng
buồn: -
Anh đã hứa với em rồi, anh nhớ không? -
Anh hứa gì? -
Anh hứa sẽ xem em như em gái thôi. Anh nhớ không? Phong
cười buồn, im lặng. Một lúc lâu, Bảo Trân
chuyển đề tài: -
Từ mấy hôm nay anh có nhận biết được
điều gì khác thường trong không gian mà chúng ta
đã đi qua hay không? -
Có. Anh cảm thấy như thiêu thiếu cái gì đó,
nhưng không biết là cái gì! -Anh
thử tưởng tượng, nếu có vài cánh chim
bay chầm chậm ngang triền núi đối diện
thì... -
Đúng rồi! Từ hôm đặt chân đến
đất nước này anh chưa hề thấy
bất cứ loài chim nào cả. Tại sao? -
Em không hiểu. Vừa
khi ấy, Jason – hướng dẫn viên du lịch – bước
lên khỏi bậc thang cuối cùng. Phong gọi Jason,
đặt câu hỏi bằng Anh ngữ; vì Phong biết
tất cả hướng dẫn viên du lịch tại
Trung cộng đều được chính phủ đào
tạo và Anh văn là sinh ngữ chính. Jason đáp: -
Tôi không nhớ bác sĩ là người thứ mấy
đã hỏi tôi câu này; nhưng tôi nhớ, khi tình
hữu nghị giữa Nga Sô và chúng tôi còn khắng khít,
Nga Sô đã cho chính phủ của chúng tôi vay một món
nợ lớn. Nước chúng tôi đông dân nhưng
nghèo, trả nợ không nổi. Đến lúc tình
hữu nghị giữa hai quốc gia rạn nức, Nga
Sô đòi nợ gắt gao quá, chính phủ của chúng
tôi ra lệnh mọi tầng lớp nhân dân phải chia
xẻ những khó khăn với quốc gia bằng cách
dồn tất cả nỗ lực để tăng gia
sản xuất, lấy gạo và ngũ cốc trả
nợ cho Nga. Nhưng trở ngại lớn của chúng
tôi là: Sau khi gieo mạ và hạt giống, chim ăn
hết. Thế là chính phủ ra lệnh giết tất
cả chim chóc để hoa màu không bị hao hụt. Bảo
Trân ngạc nhiên: -
Làm sao có thể giết hết được tất
cả chim chóc? -
Chim muông cũng có linh tính và tiếng nói riêng. Vì
vậy, sau vài đợt bị lùng giết, lũ chim rũ
nhau bay đi, không bao giờ trở lại! Bảo
Trân chưa kịp nói chi thêm thì từ các máy
khuyếch đại âm thanh đặt quanh tàu vang lên
lời nhắn của director Charles: “Thưa quý
bà, quý ông! Du thuyền của chúng tôi sẽ
dừng lại trong vài phút nữa. Quý vị nào đã
ghi tên tham dự cuộc du ngoạn vào sông Daning, xin
chuẩn bị để thuyền máy đưa quý
vị đi.” Chiếc
thuyền máy có cửa kính bao quanh rời sông Dương
Tử để tiến vào nhánh sông Daning đầy
đá cuội. Dọc theo bờ sông Daning, nơi
những vùng đất chài cũng như trên triền
núi cao, Bảo Trân chỉ thấy những mảnh vườn
tàn úa, như là vết tích của mùa Đông.
Những người đang làm vườn hoặc làm
rẫy trên cao hay những người ngồi giặt
quần áo ven sông, vội dừng tay, nhìn đoàn
thuyền máy với nét mặt và ánh mắt tràn đầy
ước mơ. Càng
xa giòng Dương Tử bao nhiêu màu nước càng
trong trẻo và đáy sông càng lộ rõ bấy nhiêu.
Đá cuội dọc bờ sông trở nên nhẵn và láng
thêm. Trên những phiến đá cuội đó,
những đôi chân trần khẳng khiu của mấy
em bé và của vài thanh niên, ngang người chỉ
quấn một mảnh khố, cố chạy theo
chiếc thuyền máy để bán những cái chuông
nhỏ bằng đồng, được chạm
trổ chữ Nho và hình tượng các vị Bồ Tát
hoặc bán những cây gậy bằng gỗ được
uốn cong một đầu và cũng được
chạm trổ rất công phu. Thấy
mấy em bé trai đen đủi cùng mấy cậu
thanh niên vấn khố, Bảo Trân chạnh nhớ
đến vùng trời mờ sương bên quê nhà; nơi
đó đàn ông Thượng cũng vận khố,
phụ nữ Thượng để ngực trần,
mặc váy, và đeo những vòng xoắn bằng đồng
nơi cổ, nơi chân và hai trái tai được căng
rộng ra. Họ thường đi từng nhóm
nhỏ. Ngày còn bé, Bảo Trân thích nhìn dáng họ
chập chờn trong ánh nắng chiều, bên những
đồi trà xanh biếc của ông bà Ngoại. Cũng
có lúc họ đem măng hoặc ngũ cốc đến
nhà đổi muối. Ngoại không đổi, bảo
người giúp việc lấy muối đem cho
họ. Khi nào cũng vậy, nhận được chén
muối họ cười hớn hở, để
lộ hai hàm răng đã bị cà thấp xuống,
rồi họ líu lo một thứ ngôn ngữ không
thể nào Bảo Trân hiểu được. Nụ
cười của người Thượng ngày đó
và nụ cười của những người
vận khố nơi đây – sau khi bán được
món hàng – đều đượm nét ngây ngô,
mộc mạc mà người thị thành không làm sao có
được. Gió
lùa mây thật thấp. Dòng sông trở nên hẹp và
cạn dần. Thuyền tắt máy để vài thanh niên
lực lưỡng dùng sào chống. Mạn thuyền
cạ lên đá cuội, âm thanh nghe không êm ả tý nào
cả. Bảo Trân thấy, từ trên mấy đỉnh
núi, nhiều chú khỉ đang xôn xao, có vẻ huyên náo
lắm. Giữa lúc Bảo Trân chưa hiểu dịch
vụ du lịch đưa du khách vào đến
cuối giòng Daning để làm gì thì nghe giọng Jason: -
Những gia đình giàu mới có tiền chôn người
thân trên đó. Từ
nãy giờ chỉ để tâm ngắm cảnh lạ,
Bảo Trân không để ý đến lời dẫn
giải của Jason. Bây giờ nghe ba tiếng “chôn trên
đó”, Bảo Trân ngạc nhiên, vội nhìn theo hướng
ngón tay trỏ của Jason và thấy, gần những
đỉnh núi cheo leo – nơi những khoảng núi
bị lỡ, lộ ra màu đất đỏ hoặc
vàng sậm – là những cửa hang nho nhỏ; trong hang
là quan tài của người chết. Bảo Trân tò mò
hỏi: -
Jason! Làm thế nào họ có thể đưa quan tài lên
đến đó để chuyền vào hang? -
Đưa quan tài lên đến đỉnh núi rất
khó khăn. Nhưng họ trả tiền hậu hỷ
thì cũng có người làm. Lên đỉnh rồi,
họ sẽ thòng giây để chuyển quan tài vào
hang. -
Sau đó hang có được đóng cửa hoặc
lấp lại hay không? -
Không. Nhìn
quanh, thấy hầu như nơi mỗi chỗ núi
lỡ đều được dùng làm nhà mồ không
cửa, Bảo Trân hỏi: -
Tại sao họ không tìm đất để chôn mà
lại lập những nhà mồ trong lòng núi, không
cửa? -
Vì càng lên cao càng nhiều đá, không có đất. -
Thế sao họ không chôn nơi những vùng thấp? -
Đây là vùng núi đá. Những vùng thấp đất
rất hiếm, chỉ để trồng trọt. -
Tình trạng khai khẩn hiện nay đã khó khăn như
vậy, khi kế hoặch xây đập nước
thực hiện xong, mực nước dâng cao cả hơn
trăm thước nữa thì người dân canh tác
bằng cách nào để sống? -
Đó là câu hỏi tôi không thể giải đáp
được. Tôi nghĩ “Trời sinh trâu, sinh
cỏ.” Nhìn
ánh hoàng hôn loan nhè nhẹ trong vùng không gian đìu hiu nơi
chốn tận cùng của một nhánh sông, Bảo Trân
thầm nghĩ, đời sống của con người
nơi đầu nguồn thì tùy thuộc vào Trời; còn
đời sống của những dân tộc ở
cuối nguồn tại sao lại tùy thuộc vào người
láng giềng hung bạo/hẹp hòi/ich kỷ, chỉ thích
kiến tạo những đồ án vỹ đại
để phô trương chứ không nghĩ đến
nỗi đau khổ của muôn người do sự
thực hiện những đồ án đó tạo nên? Ý
nghĩ này, cách nay vài hôm, lúc viếng thăm Vạn Lý
Trường Thành, cũng đã thoáng qua trong hồn
Bảo Trân. Khi cùng Phong bước nhanh lên nhiều
bậc cấp của một trong những kỳ quan
của thế giới, lòng Bảo Trân chỉ nghĩ
đến sự chia xa/niềm đau thương/nỗi
thống khổ cùng máu/mồ hôi/nước mắt
của hằng vạn người đã quyện vào
với vôi, với cát khi thực hiện kiến trúc vĩ
đại này. Mỗi khi dừng lại nơi tháp canh
nghỉ mệt, trong sự buốt lạnh của
từng cơn gió lùa vào, Bảo Trân tưởng như
nàng có thể nghe được tiếng oán than
của những oan hồn đã bỏ thây vì sự hình
thành của kỳ quan này! Đang
quan sát và suy nghĩ vẩn vơ, Bảo Trân chợt
cảm biết chiếc thuyền máy đã ủi bãi và
một số ít du khách đang lên bờ. Bờ
– cũng là điểm tận cùng của dòng Daning –
chỉ là một vùng đất đá bị nước
xoi mòn, rơi khỏi triền núi. Theo thời gian, đất
đỏ bị nước cuốn đi; sự di
động liên tục của nước đã dũa
mòn những góc cạnh của đá để ngày nay
Bảo Trân thích thú nghe âm vang của những viên đá
cuội rạc rào dưới mỗi bước chân. Hoàng
hôn phủ kín cả vùng không gian đậm đặc
hơi nước. Bảo Trân thấy triền núi
dọc hai bên bờ sông đã trở thành màu xanh
thẫm; trên nền xanh thẫm đó, những màn sương
mỏng chờn vờn trông như những áng mây, và
ánh đèn leo lét phía xa trông như những vì sao
lạc. Nơi đỉnh núi cao, ánh trăng len lén xuyên
qua những áng mây mờ. Bất chợt Bảo Trân
cất tiếng hát nho nhỏ, vừa đủ cho Phong
nghe: “Qua
những mùa trăng dáng em theo thời gian. Nhẹ
lướt mơ hồ khi vàng úa trăng tàn. Sông
nước mịt mùng xóa mờ một kiếp tha phương
giang hồ. Lệ
tràn lên mi tình trong giấc mơ…” (2) Phong
lắng nghe, lòng thầm tiếc là chàng đã mất
Bảo Trân suốt thời gian dài cho nên khoảng đời
trai trẻ Phong đã không có được những giây
phút lãng mạn/tình tứ/đầm ấm như
thế này. Bất ngờ giọng Bảo Trân vút cao: “...Đêm
nay ánh trăng ngà lả lơi, trải trên cây rừng
nhớ thương. Dưới
ánh trăng u huyền thông mơ reo...” Bảo
Trân nhấn giọng ở chữ “lả” và chữ
“trải” rồi chữ “nhớ” rơi vào note Si
bémol của tình khúc được viết cung Ré
Majeur khiến người nghe cảm nhận
được tất cả niềm xót xa/nỗi u hoài! Sau
khi Bảo Trân ngưng hát, Phong đọc khẽ hai câu
thơ vừa mới lướt qua trong hồn chàng: -
Anh nghe em hát, lòng xao xuyến. Trong cõi
hồn em, anh ước mơ. (3) Bảo
Trân im lặng, cố nén sự giao động bồi
hồi từ trái tim đa cảm của nàng. Phong nhìn Bảo Trân bằng ánh mắt chan chứa yêu
thương. Cũng với ánh mắt tràn đầy yêu thương
đó, tối đến, trong lúc say mê theo dõi chương
trình nhạc cổ truyền tại The Tang Dynasty, Phong cũng
xoay nhìn Bảo Trân, khi đoàn nữ nhạc công
xử dụng nhạc cụ xưa để cùng
tấu lên những hợp khúc cổ điển
của nền âm nhạc Trung Hoa. Khi Phong và Bảo Trân trở lại du thuyền Royal,
ánh trăng đã khuất, máy tàu đã im; nhưng
tiếng sáo Pai Xiao vẫn như còn vương vấn
trong sự trầm mặc của muôn loài. Trong sự trầm mặc đó, mạch nước
từ những dòng suối vẫn âm thầm tìm về
đây, cùng nương nhau vượt Three Gorges Dam
đang xây để không còn bị gò bó theo những dãy
núi đá – mà sẽ được trải mình trong
những cánh đồng xanh ngát dừa nước và
mạ non. Chiếc Royal đến Three Gorges Dam khi những
hạc sương mai trên cành lá trở nên long lanh dưới
những tia nắng đầu ngày. Công tác đắp
đập đã thực hiện được hơn
2/3 bề ngang của dòng sông cho nên nước chảy
xiết/cuồn cuộn/xoáy sâu, tạo cảm giác
bất an cho những du khách nhát gan. Người Trung Hoa
rất hãnh diện vì đập nước này sẽ
là một trong những đập nước lớn
nhất thế giới. Nhưng Bảo Trân không
hiểu người Trung Hoa sẽ nghĩ gì khi
những dân tộc ở cuối nguồn, từ
thế hệ này đến thế hệ khác, sẽ ta
thán vì mạch sống cứ cạn dần; và nước
mặn từ biển sẽ xâm lấn vùng đất
trồng hoa màu? Qua khỏi đập nước, lưu lượng
của dòng sông trở nên dịu dàng, đằm
thắm giữa những khu vực đông đúc dân cư.
Bất ngờ Bảo Trân nghe huyên náo cả vùng và
rồi, cùng một lúc, hằng triệu triệu
tấn khối nước từ Three Gorges Dam tràn
về. Trong âm thanh cuồn nộ của nước,
Bảo Trân nghe không biết bao nhiêu tiếng kêu gào
thảm khốc. Dù hạm trưởng vận dụng
tất cả khả năng để cố đưa
chiếc Royal xuôi theo con nước, tránh rơi vào vùng
nước xoáy, Bảo Trân cũng vẫn nghe được
tiếng cửa kính vỡ cùng với tiếng kẻo
kẹt của thân tàu. Nước sông dâng nhanh một
cách đáng sợ. Từ phòng ăn, Phong hối hả
đưa Bảo Trân về phòng và dặn: - Em ở trong này, không đi đâu hết. Anh ra ngoài
xem có ai bị thương, cần cứu cấp chi không,
tý anh trở vào hoặc nhờ người vào thăm
chừng em. Không đợi Bảo Trân đáp, Phong bước ra
ngay. Phong vừa xoay lại đóng cánh cửa xong,
tấm kính nơi khung cửa sổ vở tan. Nước
bắn vào phòng. Trong nỗi hoang mang tột cùng, Bảo
Trân nghe tiếng director Charles từ máy
khuyếch đại âm thanh: “Tất cả mọi người
chú ý! Chiếc du thuyền của chúng ta không thể
tiếp tục chịu đựng cơn thịnh
nộ của thiên nhiên. Chúng tôi buộc lòng phải
tấp thuyền vào một eo núi. Sau khi thuyền
tấp vào, bằng mọi phương tiện, tất
cả chúng ta phải rời thuyền ngay lập
tức!” Nghe xong, Bảo Trân gập người
xuống, nước mắt chan hòa với nước sông,
lòng quặn thắt nghĩ đến các con. Ngày trước,
những lúc bị đời lừa đảo, vùi
dập hay những lúc buồn/cô đơn/chán nản,
Bảo Trân thường nghĩ đến cái chết
như là một lối thoát. Nhưng bây giờ cận
kề với cái chết, Bảo Trân lại hãi sợ,
lại muốn được sống để về
gặp lại các con. Đang hướng tâm về Phật Bà Quan Thế Âm
với lời cầu nguyện chân thành nhất,
Bảo Trân bỗng giật mình kinh sợ vì sự xô
lệch/chồng chềnh của đồ vật trong
phòng. Vừa lúc ấy, Phong xuất hiện, vội vã
kéo Bảo Trân ra ngoài. Nhiều âm thanh lạ vang lên
rất lớn khi thân tàu vặn mình, cố trườn
lên khóm đá. Mọi người xô đẩy nhau
rời tàu. Phong đưa Bảo Trân núp gió bên hốc đá
đen đủi. Bảo Trân hơi bớt sợ.
Một lúc sau, nhìn quanh, Bảo Trân thấy director Charles
đang đi tìm để đếm và ghi tên từng
du khách. Bỗng Bảo Trân để ý và không hiểu
tại sao vị thuyền trưởng và một người
đàn ông lạ lại tiến về phía nàng và Phong
một cách vội vã. Sau khi bắt tay Phong và hỏi thăm tình trạng
sức khỏe của Phong và Bảo Trân, vị
thuyền trưởng nhìn Phong: - Thưa bác sĩ, cuối đoạn sông này có
một trường tiểu học. Cơn nước lũ
vừa rồi khiến nhiều em học sinh bị nước
cuốn đi và nhiều em bị thương. Đây là
ông hiệu trưởng ngôi trường đó. Ông
đến đây kêu cứu, vì ông nghĩ rằng trên
du thuyền của chúng ta có thuốc và dụng cụ
y tế. Jason cho biết ông là bác sĩ cho nên chúng tôi
mừng quá, vội đến nhờ. Mong bác sĩ giúp
cho. Phong nhận lời ngay. Bảo Trân tình nguyện theo
giúp nhưng Phong trấn an: - Anh đi vì bổn phận của người
thầy thuốc. Anh không muốn em tháp tùng vì anh không
biết tình trạng nơi anh sắp đến như
thế nào. Em ở đây cơ quan du lịch sẽ
tận dụng mọi phương tiện để
đưa du khách về nơi an toàn. Còn anh, một mình
anh, anh dễ xoay trở. Em hiểu ý anh chứ? Bảo Trân ủ rũ nhìn chiếc thuyền nan
đưa Phong xuôi theo giòng nước cho đến khi
chiếc thuyền chỉ còn là một chấm nhỏ tý
ty trong vùng nước mênh mông. Vẫn trong trạng thái bất an, Bảo Trân
thầm mong chấm nhỏ tý ty ấy xuất hiện
để rồi lớn dần, lớn dần trong
tầm mắt nàng. Nhưng hai buổi chiều rồi,
chiếc thuyền nan vẫn chưa trở lại! Hôm nay cơ quan du lịch mới tìm được
phương vị của chiếc Royal và đoàn du khách.
Đây là chuyến trực thăng cuối cùng di
chuyển du khách khỏi vùng này. Director Charles
cố thuyết phục Bảo Trân một lần
nữa: - Chúng tôi hứa sáng mai công việc tìm kiếm bác sĩ
sẽ được tiếp tục. Vậy xin bà yên tâm,
theo chúng tôi đi về. - Cảm ơn ông. Nhưng tôi xin được
ở lại đây đợi Phong trở lại hay là
cho đến lúc các ông tìm được Phong. - Tôi rất tiếc là sự việc đã xảy ra
ngoài ý muốn như thế này. Nhưng bà ở
lại đây cũng không thể thay đổi
được sự việc; thế thì tại sao bà
phải tự hành hạ bà? Thôi, bà đi về
với chúng tôi. Sáng mai trực thăng lại sẽ
tiếp tục tìm kiếm bác sĩ, như hai ngày qua chúng
tôi đã thực hiện. - Tôi muốn được yên tịnh một mình. Các
ông về đi. Chiếc trực thăng nâng thân hình lên rồi lượn
vòng gộp đá như có ý chào giã biệt Bảo Trân.
Chiếc trực thăng vút lên cao trong khi Bảo Trân
từ từ gục xuống vì gió, và vì đau
khổ! Còn lại một mình, Bảo Trân đâm ra hối
tiếc vì chút đạo lý mà nàng đã không dám
sống theo đà lòng của mình; nàng đã đạo
đức giả, đã cao thượng không đúng lúc,
đã hy sinh không phải cách cho nên không dám đáp
ứng mối tình nồng thắm của Phong... Trong khi Bảo Trân bị niềm ân hận và nỗi đau xót dày vò để tự trách mình thì, tự dưng, theo từng cơn gió lạnh, tiếng hát nức nở của Richard Marx vang lên: “Oceans apart day after day, and I slowly go insane. I hear your voice on the line. But it doesn’t stop the pain. If I see you next to never, how can we say forever. Wherever you go, whatever you do, l’ll be right here waiting for you. What ever it takes, or how my heart breaks, I’ll be right here waiting for you ...” Bảo Trân nhìn quanh như tìm kiếm; vì nàng nghĩ đó là tiếng hát của Phong. Không thấy ai cả, nước mắt của
Bảo Trân tuôn tràn! Bất chợt Bảo Trân cảm
biết như có người đang nhìn lén nàng từ
phiến đá bên trái. Bảo Trân xoay nhìn về hướng
ấy và nhận ra đó là thanh niên ngoại quốc
ngồi cạnh nàng trên chuyến bay của Hàng Không
Việt Nam từ Dalat về Nha Trang! Bảo Trân bẻn lẻn mỉm cười,
đưa ngón tay quẹt những giọt nước
mắt còn ấm. Thanh
niên cũng mỉm cười thân thiện rồi trao nàng
vài tờ kleenex. Bảo Trân nhỏ nhẹ cảm
ơn. Bảo Trân dùng kleenex chậm nước
mắt rồi lại nghiêng một bên má sát vào khung kính
cửa sổ phi cơ. Xuyên qua từng áng mây bàn bạc, Bảo
Trân thấy những lượn sóng trắng xóa di
động chầm chậm trên vùng biển lặng.
Bảo Trân thở dài, chợt nghĩ đến hai câu
thơ mà – trong giấc mơ của nàng – Phong đã
đọc trên du thuyền Royal; có điều Bảo Trân
đổi chủ từ cho hợp với tâm trạng
của nàng: Em
nhìn xa vắng, ngàn thương nhớ. Anh
đã xa rồi, anh biết không? (4) ĐIỆP
MỸ LINH (1)
(3) (4) Trong ập thơ Nửa Đời Thương
Đau của Hoàng Vũ Bảo. (2)
Trăng Lạnh của cụ Điệp Linh Nguyễn Văn
Ngữ.
|