Một tư liệu về Tượng Đức Thánh Trần (dưới thời Việt Nam Cộng Ḥa)

Phuong Nam 

 

KD: Mấy ngày qua, dư luận XH sôi sục vụ cẩu Lư hương Tượng đài Đức Thánh Trần về Đền thờ Đức Thánh Trần của bà Bí thư Quận 01, bạn bè trên mạng vừa gửi cho bài viết này- tư liệu xung quanh việc dựng tượng Đức Thánh Trần dưới thời VNCH. 

Xin đăng mang tính chất tư liệu để bạn đọc tham khảo

Title bài, chủ Blog xin đặt lại cho phù hợp

————–    

Việc suy tôn Đức TRẦN HƯNG ĐẠ0 làm Thánh Tổ Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa do quyết định từ đâu, văn kiện nào, tôi không thể truy cứu được. Nhưng riêng việc dựng tượng Ngài th́ tôi biết, v́ có ít nhiều tham dự vào việc này.

Năm 1967, khi Chính Phủ Quân Nhân do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tức Thủ tướng) sửa soạn trao quyền lại cho Chính Phủ Dân Sự, Chính Phủ muốn để lại một cái ǵ cho thành phố Sàig̣n, đánh dấu thời gian Quân Đội tham chánh, nhất là tạo cho Thủ Đô Sài g̣n thành một thành phố có màu sắc lịch sử và đẹp xứng đáng là một Thủ Đô, Chính Phủ muốn dựng các tượng danh nhân lịch sử tại các công trường trong Thủ Đô. Việc này Chính Phủ giao cho Quân Đội thực hiện, cụ thể là Cục Tâm Lư Chiến thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Bộ Quốc Pḥng phụ trách. 

 Lúc ấy Cục Tâm Lư Chiến do Đại tá Vũ Quang làm Cục trưởng. Một buổi họp tại Cục Tâm Lư Chiến do Đại tá Vũ Quang chủ tọa, để phân nhiệm cho các Quân Binh Chủng trách nhiệm dựng tượng Thánh Tổ của ḿnh tại các công trường được chỉ định. Đa số các Quân Binh Chủng đều tôn vinh các vị anh hùng, danh nhân trong lịch sử làm Thánh Tổ. Riêng Không Quân không t́m được vị anh hùng nào trong lịch sử, nên công trường được giao phó là khuôn viên trước Ṭa Đô Chánh Sài G̣n, Không Quân đă dựng một tác phẩm điêu khắc kỷ hà, nói lên tinh thần bảo vệ không gian của Tổ Quốc. Thủy Quân Lục Chiến cũng vậy. Anh em Thủy Quân Lục Chiến dựng tượng hai người lính trong tư thế xung phong tại vườn hoa trước ṭa nhà Quốc Hội. Cả hai công trường này, sau 30 tháng 4 năm 1975, đă bị dẹp đi.

Riêng Hải Quân, được giao dựng tượng tại công trường Mê Linh, sau đổi là công trường Bạch Đằng, ở ngay bờ sông , cuối đường Hai Bà Trưng. Việc tế nhị và khó khăn của việc dựng tượng Thánh Tổ Hải Quân ở đây là làm thế nào có thể sử dụng được cái bệ đă có sẵn. Nguyên khi nền Đệ Nhất Cộng Ḥa đây là công trường Mê Linh, được ông Ngô Viết Thụ lập đồ án dựng tượng Hai Bà Trưng. Kiến trúc đẹp, mới được coi là một công tŕnh nghệ thuật của Thủ Đô Sài g̣n, tạo một hấp lực cho cảnh trí bến Bạch Đằng, xứng đáng là cửa ngơ của Thủ Đô Việt Nam Cộng Ḥa.

Tượng Hai Bà Trưng đẹp, nét điêu khắc sắc và mới, được dựng trên một bệ cao 3 chân phảng phất một đầu voi với hai chân trước và cái ṿi voi. Khi khánh thành công tŕnh này, chính Bà Ngô Đ́nh Nhu, với tư cách là Chủ tịch Hội Phụ Nữ Liên Đới tới khánh thành. Tất nhiên đây là tượng Hai Bà Trưng, nhị vị nữ lưu lừng lẫy của lịch sử nước nhà, nhưng việc điêu khắc mới quá, phảng phất như hai mẹ con bà Nhu. Dân Sài g̣n đă nh́n tượng này qua ấn tượng là h́nh ảnh của bà Nhu, nên khi nền Đệ Nhất Cộng Ḥa sụp đổ năm 1963, ḷng người trong cơn cuồng nộ, đă ào ào kéo tới công trường này và đă kéo đổ tượng Hai Bà xuống, như muốn xóa sạch vết tích của bà Nhu. Đầu hai pho tượng đă được để lên xe xích lô đi diễu trên các phố, nhiều báo đă có in h́nh này. Sau này không hiểu đầu hai pho tượng ấy lưu lạc nơi đâu. V́ thế, từ năm 1963 đến năm 1967, 4 năm trời “đầu voi” tại công trường bỏ trống, không có tượng nào trên đó cả.

Khi công trường này được giao cho Hải Quân được đổi tên là công trường Bạch Đằng, vừa là quân cảng, và bến sông tiếp nhận các tàu bè từ biển tới Thủ Đô Sài g̣n. Công việc dựng tượng do Chính Phủ Quân Nhân khởi xướng, như trên đă nói, muốn làm cho nhanh, trong ṿng năm bảy tháng, hầu kịp thời gian khi chuyển quyền từ Quân Đội qua Dân Sự. Trên căn bản các chi phí do Chính Phủ cung cấp. Tôi không c̣n nhớ kỹ, nhưng đâu như Chính Phủ cấp cho mỗi Quân Binh Chủng một ngân khoản độ mấy chục ngàn mà thôi. Ngân khoản quá nhỏ. Hầu như tất cả Quân Binh Chủng, muốn làm tượng Thánh Tổ của ḿnh cho thật đẹp, các Quân Binh Chủng liên hệ đều phải bỏ công và của vào rất nhiều. Riêng Hải Quân, đây là một công tŕnh to tát và mang nhiều ư nghĩa. V́ vị Thánh Tổ Hải Quân, Đức Trần Hưng Đạo, chẳng những văn vơ song toàn, một vị đại anh hùng của dân tộc, và đây c̣n là cửa ngỏ của Thủ Đô, sát ngay Bộ Tư Lệnh Hải Quân, nên Hải Quân đă tích cực và thi hành công tŕnh thật chu đáo và to tát.

Lúc ấy, vị Tư lệnh Hải Quân là HQ. Đại tá Trần Văn Chơn, người cùng mang họ Trần, người rất sùng kính và ngưỡng mộ công đức của Đức Thánh Trần. Ông là vị Tư Lệnh thứ nh́, (vị Tư lệnh đầu tiên của HQVN là HQ. Đại tá Lê Quang Mỹ) từ năm 1957 đến năm 1959. Ông rời chức vụ để đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ, và trao chức vụ này cho HQ. Đại tá Hồ Tấn Quyền làm Tư lệnh. Khi từ Mỹ du học về, là thời gian nhiều biến động trên chính trường Miền Nam. Các chức vụ quan trọng của các đơn vị lớn trong Quân Đội cũng bị ảnh hưởng và xáo trộn. Từ năm 1963, HQ. Đại tá Quyền bị giết chết trong ngày binh biến 1 tháng 11 năm 1963, có các vị sau đây lần lượt đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Hải Quân:

– HQ Đại tá Chung Tấn Cang (sau thăng Phó Đô Đốc) từ năm 1964 đến 1965. Và cũng là vị Tư lệnh cuối cùng của Hải Quân khi Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ.
– HQ. Đại tá Trần Văn Phấn từ 1965 đến 1966.

Trung tướng Cao Văn Viên và Trung tướng Lê Nguyên Khang từ các năm 1965 đến 1966. Đó là thời gian rối loạn nhất của đất nước, và cũng nhiều xáo trộn nhất của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Như thế, từ năm 1959 đến năm 1966, qua nhiều vị Tư lệnh, HQ. Đại tá Trần Văn Chơn, được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Liên Đoàn Tuần Giang, một tổ chức phụ thuộc của Hải Quân, có nhiệm vụ hổ trợ cho các tỉnh trong Vùng 3 và Vùng 4 chiến thuật. Một đơn vị khiêm tốn, hầu như ít được nhắc đến v́ ít có công trận, không có công tác ǵ quan trọng. Khi các Tiểu khu cần hoạt động lớn, th́ các địa phương lại nhờ các đơn vị thiện chiến của Hải Quân là các giang đoàn xung phong, và đôi khi có các chiến hạm loại đổ bộ, với hỏa lực hùng hậu, hổ trợ. Từng là Tư lệnh Hải Quân, bây giờ là Chỉ huy trưởng Liên Đoàn Tuần Giang, một cái bóng mờ bên cạnh một Hải Quân đang bắt đầu lớn mạnh. Dù b́nh tĩnh cách nào, ai cũng thấy là Đại tá Chơn, sau khi du học Mỹ về đă xuống chức thấy rơ.

Bộ chỉ huy Liên Đoàn Tuần Giang đóng bên bờ sông Sàig̣n, Thủ Thiêm, hầu như đối diện với Bộ Tư Lệnh Hải Quân đồ sộ ở bên này bờ sông. Suốt mấy năm ở chức vụ này, anh em Hải Quân hầu như đă quên Đại tá Chơn. Ngoài công việc điều hành Liên Đoàn Tuần Giang, nhiều người nói lại, Đại tá Chơn có rất nhiều hoạt động liên hệ với Hội Thánh Trần tại Thủ Thiêm. Do đó khi được trở lại đảm nhiệm vài tṛ Tư lệnh Hải Quân lại có dịp dựng tượng Đức Thánh Trần, vị đại anh hùng của đất nước, mà ông cũng t́nh cờ mang cùng họ : Họ Trần, nên nỗi vui, niềm hănh diện ở nơi ông về việc dựng tượng Đức Thánh Trần, quả là một việc làm rất phấn khởi và cũng đă có một phần huyền nhiệm. Đức Thánh Trần, vị Thánh tổ của Hải Quân đă được Hải Quân cố gắng làm sáng danh ngài và nức ḷng học tập, noi gương Ngài. Các chiến hạm, ngoài quốc kỳ, chiến kỳ được chính thức có thêm Thánh kỳ để cắm nơi mũi tàu khi có đại lễ, Thánh kỳ là một lá cờ ngũ sắc, có tua răng cưa, một loại cờ cổ ta thường gặp tại các đền thờ, các nơi đ́nh đám của ngày hội tổ chức theo phong tục cũ. Giữa ḷng lá cờ có một chữ đại tự bằng chữ nho: chữ Trần. Trong các ngày đại lễ, toán hầu kỳ gồm có : Quân, Quốc và Thánh kỳ. Suốt bao nhiêu năm Hải Quân hoạt động, các ngày lễ lớn, các chiến hạm kéo Đại kỳ rực rỡ, xa đă thấy Thánh kỳ sặc sỡ cắm nơi cột tại mũi tàu. Đó là một h́nh ảnh rất khác lạ so với các chiến hạm của các quốc gia khác. Một trang trí rất đẹp và đầy uy linh của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa một thời.

Trở lại với việc dựng tượng Thánh Tổ Hải Quân, Đức Trần Hưng Đạo tại công trường Bạch Đằng, sau nhiều bàn căi, có những quyết định như sau. Về bệ tượng, cần hủy bỏ 3 chân của bệ, và vị Thánh Tổ Hải Quân được biết đến như một vị tướng tài chỉ huy thủy chiến, không, hoặc ít có liên hệ đến h́nh ảnh của con voi, nhất là cần phải làm khác, hầu như xóa đi cái ấn tượng và liên hệ đến bà Nhu. Nhưng việc phá đi bệ này vừa không phải dễ làm, và c̣n phí phạm một công tŕnh kiến trúc rất đồ sộ, khó khăn. Cuối cùng đi tới kết luận là vẫn để nguyên 3 chân bệ, nhưng được xây kín lại thành một bệ h́nh khối tam giác, mà mũi nhọn hướng ra sông, như một mũi thuyền trong tư thế lướt sóng.

C̣n lúc đầu nhờ điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, người nổi tiếng với tượng Tiếc Thương tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa thực hiện. Ông Thu (do tôi giới thiệu) nghĩ rằng, Đức Thánh Trần là một vị tướng mà cốt tủy của công trạng là tinh thần tham mưu, đó là điều khởi đầu và quan trọng hơn là việc xông pha nơi đầu sóng ngọn gió. Do đó ông Thu đă tạo một mẫu tượng Đức Thánh Trần trong tư thế ngồi, tay trái đè lên đốc kiếm tay phải cầm cuốn sách, được coi như là Binh thư. Ngài hướng mặt về phương Bắc, vừa là biểu tượng của người đi biển hướng về sao Bắc đẩu, vừa là nỗi lo âu muôn đời của người Việt, phải đối đầu với Bắc phương. Ư này một phần góp ư của chính tôi với điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu.

Mẫu tượng này được đem ra một Hội Đồng của Hải Quân để xem xét, và so sánh với mẫu tượng khác. Mẫu khác của người nào đó bên Hội Thánh Trần bên Thủ Thiêm đề nghị, đó là mẫu tượng được chấp nhận làm nên tượng Ngài hiện nay. Đó là h́nh ảnh của vị Đại tướng trong y phục vơ tướng, một tay tỳ lên độc kiếm, một tay chỉ xuống ḷng sông và nói : “Phen này nếu ta không phá xong giặc Nguyên, thề không trở lại khúc sông này nữa”. Lời thề của Ngài đă được sử sách ghi lại, như một lời nguyền làm nức ḷng bao nhiêu thế hệ sau này, mỗi khi giở lại trang sách cũ. Do đó, mẫu tượng đó, của một người ít được biết đến, lại được chấp thuận. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu rất buồn. Buồn v́ mất một cơ hội góp công, góp tim óc cho một công tŕnh đầy sử tính của một Sài g̣n, Thủ đô của Việt Nam Cộng Ḥa. Tôi cũng buồn, v́ đă giới thiệu một người bạn, một điêu khắc gia nổi tiếng bậc nhất lúc ấy, mà lại không thành công. Nhưng tôi cũng phải nhận rằng, lời thề trên sông Hóa quả mang nhiều ư nghĩa, đă gắn liền với các chiến công của Đức Thánh Trần, với tước hiệu đầy đủ của Ngài.

Thánh Tổ Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa
B́nh Bắc Đại Nguyên Soái – Hưng Đạo Đại Vương

Một Vài Câu Chuyện Bên Lề

Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa với nhiều phương tiện của Hải Quân Công Xưởng, và sự đóng góp tiền bạc của tất cả quân nhân Hải Quân các cấp, đă hoàn thành một công tŕnh mang đầy ư nghĩa lịch sử, nghệ thuật cho Thủ Đô Sài g̣n. Ngày khánh thành, v́ một vài lư do bất khả kháng, Đại tướng Cao Văn Viên được chỉ định vào phút chót, thay mặt Chính Phủ đến chủ tọa, thay v́ một giới chức cao hơn, khiến ban tổ chức gặp rất nhiều phiền toái. V́ các vị Bộ trưởng đă đến, ngoại giao đoàn đă đến. Trên hệ thống hành chánh, các vị Bộ Trưởng ở vị thế cao hơn Đại tướng. Nhưng làm sao được, và ghế đă xếp, chương tŕnh đă định. Và Đại tướng Viên tới, mọi người cũng đương nhiên chấp nhận một cách vui vẻ.

Một trở ngại kỹ thuật khác, cho đến gần phút khánh thành, ban tổ chức mới thấy khó khăn. Tượng làm xong từ Hải Quân Công Xưởng do từng mảnh ghép lại, được cần trục câu lên ghép lại. Câu các mảnh ấy như câu các kiện hàng, nhưng ghép lại phải khéo để không thấy các mối ghép. Ghép xong mới tô và cho các vết ghép được nhuần nhuyễn như một khối đồng đen. Thực ra đó là các mảnh xi măng đúc từ Hải Quân Công Xưởng. Tượng làm xong, các giới chức Hải Quân ra ngắm nghía, ra điều ưng ư lắm. Nhưng theo nguyên tắc, và tạo sự linh thiêng, đột ngột, sau phần nghi lễ, tượng mới được mở ra để mọi người thưởng lăm và chiêm bái. Nhưng t́m vải phủ đă khó. Cái khó hơn, và khó nhất là làm cách nào để vị chủ lễ mở tượng ra, khó quá. T́m vải cả mấy tuần mệt, tôi có ư kiến và thưa với vị Thiếu tá Phan Phi Phụng, Trưởng pḥng Tâm Lư Chiến rằng : “không khó đâu Commandant, Commandant có nhớ tại Bắc Việt, các đền thờ Đức Thánh, người ta thường t́m đến để xin di vật của đền về yểm trừ tà ma…” Tôi vừa nói đến đó Thiếu tá Phụng cười : ” Cậu này, chắc cậu nhớ đến việc Ngài đă trừ diệt hồn ma Phạm Nhan…”. Tôi cười. Từ đó, chúng tôi đưa ư kiến là nhờ bên Hội Thánh Trần cung cấp các thước vải đỏ, độ 200 thước vuông, để phủ tượng. Khi xong lễ, các thước vải linh thiêng này sẽ được trao lại cho Hội Thánh Trần để phân chia cho những ai muốn có chút di vật của Ngài để cầu may và trừ tà ma…. Ư kiến ấy được Hội Thánh bên Thủ Thiêm tán thành nhiệt liệt, và cung cấp vải đỏ rất đầy đủ và rất mau.

Nhưng phần vải th́ dễ rồi. Mở ra làm sao. Mở cho dễ, cho đẹp, và không vướng mắc vào giờ phút linh thiêng của buổi lễ. Ư kiến này, Hải Quân Công Xưởng chịu thua. Phủ th́ được, mở ra khó quá. Sau một đêm, hôm sau ông Phụng vào sở, đem theo một cuộn giây ch́, đường kính 3 milimetre. Cuộn giây ch́ được cắt ra từng đoạn, bẻ lại thành các ṿng tṛn, ch́ này vừa đủ mạnh để ghim các mảnh vải phủ tượng vào nhau. Khi cần mở vải phủ, từ giây thừng đă gài ở khoen cao nhất. Được Đại tướng Viên từ từ kéo xuống, các ṿng ch́ răn ra nhẹ nhàng. Và để chắc ăn, có thêm 2 giây như thế, tất cả là 3 giây, có thêm hai vị nữa, một là HQ. Đại tá Trần Văn Chơn, một là Hội trưởng Hội Thánh Trần, ba sợi giây cùng kéo, các mảnh vải đă được bóc ra như là bóc một quả cam bổ dọc. Các mảnh vải được gió sông Sài g̣n thổi bay và từ từ là xuống, tượng Đức Thánh Tổ Hải Quân hiện ra trước mắt mọi người, hiện lên bầu trời cao xanh ngắt, giữa tiếng vỗ tay vang dội của quan khách, nhất là của phái đoàn dân sự của Hội Thánh Trần. Các mảnh vải này đă được Hội Thánh trân trọng thu góp lại, và cắt ra từng miếng nhỏ, phát cho những ai muốn được hưởng lộc của Ngài. Tôi cũng được thỉnh một vuông vải nhỏ bằng cái khăn ăn. Vuông vải linh thiêng này được vợ tôi giữ kỹ lắm, và sau đó c̣n phải cắt ra để chia cho các một số bạn làm vật cầu may. Sáng kiến cái khoen ch́ hoàn toàn là của Thiếu Tá Phan Phi Phụng, tôi chỉ có chút sáng kiến đi xin vải mà thôi.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số tượng bị phá hủy, trong đó có công tŕnh điêu khắc Tổ Quốc và Không Gian của Không Quân và tượng hai người lính Thủy Quân Lục Chiến. Riêng tượng Thánh tổ Hải Quân vẫn c̣n, tất nhiên huy hiệu và mấy chữ có liên hệ đến Hải Quân VNCH đă bị phá bỏ. Bến Bạch Đằng kể từ ngày đó là h́nh ảnh của chia ĺa, đau khổ. Có những quân nhân Hải Quân cũ, trở lại khu này, bùi ngùi nhớ một thời vàng son, oai nghiêm cũ, nay nh́n lên chỉ thấy pho tượng đă cũ, như một nét bùi ngùi. Là quân nhân Hải Quân cũ, nhiều người đă đứng lại chiêm bái Ngài. Nhiều người buồn v́ đă chậm chân không di tản được. Mà người ra đi, trong các năm sau 75 th́ quá đông. Đa số ra đi bằng đường biển. V́ thế, nh́n lên tượng Ngài. Ngài vẫn chỉ ngón tay xuống ḍng sông, con sông Hóa của lịch sử, hay là con sông Sài g̣n, là cửa ngơ của biển khơi. Người ra đi đă vừa hài hước vừa vui mừng mà nói rằng :”Ngài nói lâu rồi. Theo ngón tay Ngài chỉ, t́m đường thủy mà đi”. Câu chuyện này một thời đă làm cả Sài g̣n, cả Miền Nam biết đến, cả triệu người đă vượt biển t́m tự do.
Phan Lạc Tiếp

***

Ai tạc tượng Trần Hưng Đạo ở bờ sông Saigon ?

 

Saigon 1967 - Ai tạc tượng Trần Hưng Đạo ở Bờ sông Saigon ?

Tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người được xem là Thánh tổ Hải quân do điêu khắc gia Phạm Thông tạc, Ông đă thổi hồn vào tượng dựa theo truyền thuyết sau :

Năm 1288, một lần xuất quân đánh quân của Ô Mă Nhi trên sông Bạch Đằng, voi chiến của Trần Quốc Tuấn bị sa lầy bên bờ sông Hóa. Mọi người t́m đủ cách kéo voi lên nhưng không được. Trần Quốc Tuấn đành nuốt nước mắt bỏ voi lại. Voi ứa nước mắt nh́n chủ tướng, rống lên thảm thiết rồi từ từ ch́m vào ḷng đất. Tiếc thương voi chiến, Hưng Đạo Đại Vương phẫn khích tuốt gươm chỉ xuống ḍng sông, hét lên thề rằng: “Nếu trận này không thắng giặc Thát, ta thề không trở lại bến sông này nữa !”.

Câu nói bất hủ ấy vẫn c̣n lưu truyền đến tận ngày nay thể hiện ư chí, tinh thần đánh giặc ngoại xâm...

Nhắc đến điêu khắc gia Phạm Thông, ai cũng nghĩ ngay đến bức tượng Trần Hưng Đạo để đời nằm ở công trường Mê Linh, cuối đường Hai Bà Trưng, sát bờ sông Sài G̣n. Ít người để ư một chi tiết rằng tượng đài các anh hùng dân tộc ở Việt Nam khá nhiều: Quang Trung, Lê Lợi, Hai Bà Trưng…, nhưng ở những tỉnh thành khác nhau th́ lại có h́nh tượng khác nhau của vị các anh hùng đó. Chỉ riêng có tượng Trần Hưng Đạo th́ ở ba thành phố lớn là Sài G̣n, Vũng Tàu và Qui Nhơn đều dùng chung một mẫu tượng của Phạm Thông. Hơn thế nữa, h́nh như mọi người Việt từ Nam chí Bắc đều mặc định rằng đó là h́nh tượng tiêu biểu của một trong những chiến binh lỗi lạc nhất của dân tộc, đă hơn một lần đại phá quân Mông Cổ hùng mạnh vào đời Trần.

Trong thập niên 80, khi cả nước t́m đường đào thoát, th́ chắc ai cũng nhớ câu chuyện tiếu lâm về một người Sài G̣n khổ quá đi hỏi ư kiến Phật, Chúa, rồi ra tượng Đức Thánh Trần hỏi phải làm ǵ, th́ ngài chỉ xuống sông, có ư rằng… phải vượt biên thôi!

Ngày nay, những người yêu nước trong và ngoài Việt Nam hiện đang sục sôi trước việc Trung Quốc chiếm đọat Hoàng Sa, Trường Sa, dành chủ quyền biển Đông. Hẳn có nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến anh linh của Đức Thánh Trần. H́nh ảnh của Ngài uy nghi chỉ tay xuống ḍng sông Bạch Đằng - thề rằng nếu không phá xong giặc th́ quyết không về trên ḍng sông này nữa - liệu có cứu được đất nước khỏi đại họa bắc phương" ...

Tượng đài hoàn tất năm 1967 .

Ông Phạm Thông - Tác giả tượng đài Trần Hưng Đạo qua đời tại Hoa Kỳ.

Điêu khắc gia, nhà báo và một người Anh đáng kính, Phạm Thông, ông cũng là Người tạc ra tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ nằm trên đường Bellaire thành phố Houston Texas ...

Anh Phạm Thông kể bức tượng người lính Cộng Ḥa linh thiêng và “có hồn” thực sự. Ngày cuối cùng khi anh tạc xong bức tượng, khoảng 05 giờ sáng, con chó nhà anh ra sân đứng trước bức tượng sủa dữ dội và liên tục như thấy có người lạ vào nhà. Anh phải ra xem có ǵ xảy ra, nhưng không hề thấy có ai cả. Anh rùng ḿnh, đứng trước bức tượng khấn rằng các linh hồn tử sĩ có về đây th́ xin phù hộ cho anh thực hiện dự án này tốt đẹp. Anh cũng là một người lính, dù chưa bao giờ ra trận, nhưng cũng muốn đóng góp xương máu của ḿnh để vinh danh những đồng đội đă khuất. Con chó sau đó hết sủa ngay! Rồi khi đem bức tượng đặt lên bệ ở vị trí shopping, anh đang dùng cưa tay để cắt cụt một đoạn sắt dư, th́ lơ đễnh để tự cưa đứt mất một đốt ngón tay đeo nhẫn! Anh nghiệm lại rằng chắc tại do lời khấn của ḿnh “…muốn đóng góp xương máu…”. Ngày bức tượng người lính Việt đặt lên vị trí ( tượng người lính Mỹ lên vị trí sau đó), mọi người có mặt đều không cầm được nước mắt, v́ có một cái ǵ đó thiêng liêng không thể diễn tả được.

Trở lại