Nguyễn Công Trứ Con người của hành động và hưởng lạc Lương
Nguyên Hiền |
Chân
dung Nguyễn Công Trứ (1778-1858)
(ảnh Internet) Bây
giờ là cuối tháng 11, đêm dài ra và ngày th́
ngắn đi. Trời đă bắt đầu trở
lạnh, từng cơn mưa rơi nặng hạt,
từng làn gió mạnh từ xa thổi về. Mưa và
gió như quyện vào nhau mang tới cái lạnh
buốt xương. Cái lạnh ấy lại làm tôi
cảm thấy thú vị, bởi mỗi lần ra
đường, tôi có dịp vừa đi, miệng th́
xuưt xoa và thân th́ co ro trong chiếc áo ấm. Mùa đông
vẫn chưa chịu về để phủ lên
trời đất những bông tuyết trắng thay cho
màu xám âm u của cuối mùa thu. Hôm nay trời trở
lạnh và mưa dai dẳng, tôi ngồi ngó ra ngoài
cửa sổ, cả mấy tháng nay rồi tôi vẫn
ngồi như thế, không đi đâu xa và cũng
chỉ quanh quẩn trong nhà bởi mấy con virus Corona
đang hoành hành trở lại. Covid tới làm loài người
phải cách ly với xă hội, phải xa bạn bè, xa
người thân và tôi phải xa những quán café quen
thuộc trong phố, nơi gặp gỡ những
bạn già vào buổi xế chiều. Tự dưng tôi
cảm thấy ḷng ḿnh chùng xuống có phải v́
“cảnh buồn người có vui đâu bao
giờ”. Loay hoay mở máy tính, tôi t́m đọc
một cái ǵ cho qua ngày đoạn tháng. Lang thang trên
mạng, tôi bắt gặp mấy câu thơ của Nguyễn Công Trứ trong bài “Chí làm trai” mà
tôi đă học được từ thủa xa xưa,
hồi c̣n mài đũng quần trên ghế nhà trường
ở Nha Trang trong những giờ dạy văn chương.
Ṿng
trời đất dọc ngang, ngang dọc Đây
là một bài thơ viết theo thể hát nói hay c̣n
gọi là ca trù, là một trong những bài xuất
xắc nhất của Nguyễn Công Trứ viết khi
ông c̣n trẻ đang hăm hở lên đường
lập công danh, muốn để lại sự
nghiệp cho đời, cho người. Bài
thơ đầy nhạc tính, âm điệu hùng tráng, tạo
nên một ấn tượng khí phách hiên ngang, nào
là “dọc ngang, ngang dọc”,
“nợ tang bồng”, “vay trả, trả vay”,
“nam bắc đông tây“,
“vẫy vùng trong bốn bể”. Ta
thấy hiện lên h́nh ảnh rất đẹp
của một đấng nam nhi đang tung
hoành ngang dọc trong “ṿng trời đất”, đang
vẫy vùng cho thỏa chí trong “bốn bể” để
trả nợ tang bồng. Tang bồng từ chữ
“tang bồng hồ thỉ” có nghĩa là cây cung
bằng gỗ dâu và mũi tên bằng cỏ bồng,
tục truyền ngày xưa khi sinh ra con trai, người
ta bắn 4 mũi tên 4 hướng đông, tây, nam
bắc và 2 mũi tên lên trời xuống đất. Tượng
trưng cho chí hướng đi bốn phương và
tung hoành giữa trời đất. Trả nợ tang
bồng là trả nợ đời, nợ người,
nợ đất, nợ nước và cả nợ vua
tôi. Người muốn trả nợ tang bồng
phải có chí lớn cỡi cơn gió mạnh, đạp
bằng cơn sóng dữ [1]
chứ không thể ru rú trong xó nhà. Bài
“Chí làm trai” của Nguyễn
Công Trứ thể hiện một nhân sinh quan của
kẻ sĩ là nhập thế giúp đời, mang b́nh yên
lại cho mọi người:
Làm
trai cho đáng nên trai Thân thế sự nghiệp Nguyễn
Công Trứ sinh ngày 19 tháng 12 năm 1778, biệt hiệu
Hy Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia
đ́nh có truyền thống Nho giáo. Cha là Nguyễn Công
Tấn, đậu cử nhân từng làm tới tri
phủ thời Lê. Sau khi quân Tây Sơn ra chiếm Thăng
Long, Nguyễn Công Tấn đứng lên khởi nghĩa
phất cờ “phù Lê” chống lại nhưng không
thành. Ông mang gia đ́nh về quê và mở trường
dạy học. Nguyễn
Công Trứ lớn lên trong cảnh nghèo nàn, như có
lần ông tự thán “Ngày ba bữa, vỗ bụng rau
bịch bịch, người quân tử ăn chẳng
cầu no“ (Hàn Nho Phong Vị Phú). “Ăn chẳng
cầu no” mà thi cử th́
lận đận, măi đến năm 1819, sau ba
lần thi Hương, ông mới thi đậu Giải
nguyên lúc 41 tuổi và được bổ đi làm
quan năm 42 tuổi. Ông hăm hở lên đường
để trả nợ công danh, nhưng con đường
hoạn lộ của ông th́ thăng trầm với bao
nhiêu vinh và nhục. Trong 28 năm làm quan cho nhà
Nguyễn, Nguyễn Công Trứ trải qua 3 đời
vua: Minh Mạng (làm vua từ 1820 đến 1841),
Thiệu Trị (làm vua từ 1841 đến 1847), Tự
Đức (làm vua từ 1847 đến 1883). Ông đă
giữ 26 chức vụ khác nhau, từ chức vụ Hành
tẩu là chức vụ thấp nhấp trong quan trường
cho đến những chức vụ cao nhất như
Binh bộ Thượng thư, Tổng đốc
Hải An, Phủ Thừa phủ
Thừa Thiên, Dinh điền sứ, hai lần làm
chánh chủ khảo trường thi. Tuy là quan văn, nhưng
bốn lần ông được phong làm tướng
cầm quân, 3 lần dẹp loạn, 1 lần đánh quân
Xiêm. Ông đánh đâu
thắng đó, nên được người đương
thời tôn vinh là Uy Viễn tướng quân. Ông
được vua Minh Mạng ban thưởng và c̣n
gọi ông là “Nho tướng”. Thế nhưng: Ra trường danh
lợi vinh liền nhục Ông bị bốn lần giáng cấp
v́ bị vu cáo và có lần bị kết tội
“trảm giam hậu”, giam lại rồi chém sau, v́ dám
trái lệnh vua Minh Mạng. Một lần bị đầy
xuống làm lính thú ở Quảng Ngăi vào năm 1843. Ông
không buồn mà nói “làm tướng, tôi không lấy làm
vinh, th́ nay làm lính, tôi cũng không lấy làm
nhục”. Đối với Nguyễn Công Trứ
chữ công danh không phải chỉ đơn thuần là
danh và lợi. Ông ra làm quan chỉ để có đất
dụng vơ, để thi thố tài năng của ḿnh và
là nơi để trả nợ tang bồng với hoài
băo là để lại tấm ḷng son sắt cho ngàn
sau: Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu
thủ đan tâm chiếu hăn thanh [3] (Dịch:
Xưa nay có ai mà không chết Hăy để ḷng son chiếu sử xanh). Nguyễn
Công Trứ không chỉ là một con người có tài
văn và vơ mà ông c̣n là một người có tài kinh
bang tế thế (trị nước cứu đời).
Được vua cử làm Dinh
điền sứ (1828), ông đă có sáng kiến chiêu
mộ dân nghèo, di dân lập ấp, khai khẩn đất
hoang, đắp đê lấn biển, lập lên hai
huyện mới Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái B́nh)
và Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh B́nh). Dân hai huyện
nhớ ơn ông đă lập đền thờ ngay lúc
ông c̣n sống.
Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn,
Ninh B́nh (ảnh Wikipedia) Về
văn chương, ông là một nhà thơ xuất chúng
đă để lại cho hậu thế một sự
nghiệp khá phong phú:
1 bài phú (Hàn nho phong vị phú), 52 bài thơ đường luật, 63 bài hát nói,
21 đôi câu đối Nôm, 2 bản tuồng (Tửu hội và Lí Phụng Công)
[4]. Tuy là người theo
Nho học giỏi chữ Hán, nhưng
ông chỉ làm một bài thơ duy nhất viết
bằng chữ Hán (Thất
thập tự thọ) c̣n lại toàn bằng
chữ Nôm. Chủ
yếu thơ của ông tập trung vào ba đề tài:
chí làm trai, thế thái nhân t́nh và triết lư hưởng
lạc. Ngôn ngữ trong thơ mộc mạc, dân dă nên
dễ đi vào dân gian và lúc
nào trong thơ cũng
thể hiện một tinh thần lạc quan, khí phách hào
hùng và nhiều khi ngang tàng. Đặc biệt
ông làm rất nhiều bài hát nói hay c̣n gọi
là ca trù. Đây là một
thể tổng hợp giữa thơ và ca nhạc, có tính
chất phóng khoáng tự do, không g̣ bó nên dễ
gởi gắm vào đó tâm sự hay hoài băo của tác
giả. Mặc dù hát nói đă xuất
hiện rất sớm ở Việt Nam, nhưng phải
đợi đến thế kỷ thứ 19, với
sự tài t́nh của ông, hát nói đă trở thành
một nghệ thuật đặc sắc và độc
đáo của văn hóa Việt Nam. Có thể nói
Nguyễn Công Trứ đă có công hoàn thiện hát nói.
Những bài hát nói tiêu biểu như Vịnh Tỳ bà hành, Chí
làm trai,
Bài ca ngất ngưởng, Ngày
tháng thanh nhàn , Yêu hoa, Duyên gặp gỡ,
Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Kiếp nhân sinh,.…
vẫn là những bài ca được yêu thích và
được phổ biến trong nhân gian cho đến
ngày hôm nay. Nguyễn Công Trứ con người của hành động Vào
đầu thế kỷ 19, sau hơn một trăm năm
chục năm Trịnh Nguyễn phân tranh, nội
chiến điêu tàn, nhà Nguyễn đă thống
nhất được đất nước. Triều
đ́nh nhà Nguyễn cai trị hà khắc, độc
đoán và hay nghi kỵ. Dưới thời Gia Long, Minh
Mạng, Thiệu Trị giặc giă nổi lên khắp
nơi, c̣n dưới thời Tự Đức lại
thêm quân Pháp ŕnh ṃ xâm lược. Để củng
cố uy quyền của ḿnh, nhà Nguyễn đă đặt
ra “tứ bất lập”: không lập Hoàng hậu, không
lập Tể tướng, không phong tước Vương
và không lấy Trạng nguyên. Để thu phục nhân
tài, triều đ́nh Huế mở các khóa thi và tạo
nên một giai cấp Nho sĩ. Các sĩ tử thời
ấy chỉ có một con đường duy nhất
lập thân là cố gắng dùi mài kinh sử để
thi đậu thành ông cống, ông nghè rồi
“tiến vi quan”,
đi làm quan, c̣n chẳng may công không thành danh không
toại th́ “thối vi sư”, lui về nhà gơ đầu
trẻ hay gác bút nghiên hưởng
nhàn, thoát tục làm hàn sĩ. Là con người
thấm nhuần Nho giáo, ông đă chọn con đường
“chính danh” mà cũng là con đường duy nhất
để lập thân là lấy trung quân ái quốc,
trung hiếu làm đầu: Thượng
vị đức, hạ vị dân, Nguyễn Công Trứ
không
đi t́m “an
bần, lạc đạo”. Ông lạc quan và tin tưởng
vào một đất nước vừa mới
được thống nhất và tương đối
thanh b́nh khi nhà Nguyễn đă
củng cố xong được
địa vị độc tôn. Ông
nhập thế hăm hở lên đường
lập “công danh”: Không
công danh thà nát với cỏ cây. Phải
hăm hở ra tài kinh tế Nung nấu một niềm tin mănh liệt vào
tài năng của ḿnh “Trời
đất cho ta một cái tài” (Cầm kỳ thi tửu), ông quyết tâm lập “danh” để
lại tiếng cho đời. Và chữ “danh” không c̣n
là hư danh, mà thành một món nợ phải trả.
Kẻ sĩ trả nợ công danh bằng sự dấn
thân, đem tài kinh bang tế thế của ḿnh ra để
giúp đời, giúp người, để thỏa chí
tang bồng hồ thỉ, vẫy vùng bốn bể. Ông
dùng h́nh tượng “nam nhi” để nói lên nhân cách
trung dũng của kẻ sĩ đứng giữa càn
khôn, đầu đội trời chân đạp đất,
chí ở bốn phương và mang hết “sở
tồn làm sở dụng”, trong triều đ́nh
là trụ cột của quốc gia, ngoài biên thùy vung
kiếm chấn ải: Đem quách cả sở tồn làm
sở dụng, Trong lăng
miếu ra tài lương đống. Ngoài biên
thuỳ rạch mũi can tương, Sĩ làm
cho bách thế lưu phương, (Luận kẻ sĩ). Với quan niệm sống tích
cực, ông chọn “hành động” làm kim
chỉ nam cho đời ḿnh. Ông coi mọi chuyện trên
đời, ḿnh đều phải có trách nhiệm: "Vũ
trụ nội mạc phi phận sự" [6].
Ông không từ nan một việc ǵ. Đang từ
một thư sinh trói gà không chặt, ra làm quan văn
rồi được phong làm tướng
cầm quân, ông vẫn hăng hái lên đường ba
lần dẹp loạn để an dân, từng đánh
đuổi quân Xiêm ǵn giữ bờ cơi. Năm 1858 khi ông 80 tuổi, thực dân
Pháp tấn công vào Đà Nẵng, ông xin vua Tự Đức
đi đánh giặc. Nhưng ông chưa kịp lên
đường, th́ mất vào tháng 11 năm đó. Con
đường “hành động” của ông không
chỉ để “bách
thế lưu phương” (lưu tiếng thơm trăm
đời) mà trên hết “một ḷng v́ nước v́ dân”.
Năm 1827, được làm tướng cầm
quân dẹp loạn Phan Bá Vành, vua Minh Mạng bảo ông
phải trừ diệt hết mầm mống nổi
loạn. Ông đă thưa lên vua rằng những người
làm loạn là những dân nghèo vô tội bị túng
quẫn, bị áp bức mà nổi lên như vậy nên
phải mở đường sống cho họ. Ông xin
cấp tiền và khai khẩn đất hoang để
dân nghèo lập nghiệp. Vua Minh Mạng nghe theo cử
ông làm Dinh điền sứ (1828). Ông đă
khai đất hoang đắp đê lấn biển để
có 38.095 mẫu đất cho 4.000 người cùng đinh.
Ông đă “an dân”
bằng cách mở “nhà
học” cho trẻ em, phát gạo cho dân nghèo, dẹp
bọn cường hào ác bá,… “Tay
kiếm cung mà nên dạng từ bi”
(Bài ca ngất
ngưởng) đă nói lên cái tâm của
Uy Viễn tướng quân. Nguyễn
Công Trứ không phải là loại người cong lưng,
cúi đầu, chỉ “nhai văn nhá
chữ” nên bị triều
đ́nh ghen tị và đố kỵ. Những
chuyện bất b́nh trên đường hoạn lộ
nhiều khi tới như “mưa tuôn sóng vỗ”, nhưng
điều đó không làm ông nản ḷng. Cuồng phong
trong đời chỉ là thước đo ư chí
của kẻ sĩ v́ “trả nợ đời
là thế”: Năm
1840, ông được vua Minh Mạng cử qua Trấn
Tây Thành (Nam Vang) dẹp loạn. Thấy t́nh h́nh ở
đó bất lợi cho triều đ́nh Huế, ông xin
lui quân để củng cố vùng đồng bằng
sông Cửu Long và tránh được nạn binh đao
cho dân lành. Vua Minh Mạng không đồng ư, bắt ông
phải mang quân đi dẹp. Ông án binh bất động
nên bị nhà vua tuyên án “trảm giam hậu”, giam lại rồi chém sau.
Sau này vua Minh
Mạng tự thấy vô lư nên
tha. Đến đời Thiệu Trị, vua theo kế
của ông, kéo quân về. Ông
đă dâng sớ 6 lần xin triều đ́nh giữ
nghiêm luật lệ, nghiêm trừ giặc cướp và
nghiêm trị nạn cường hào ác bá. Nên ông
bị bọn quyền thần trong triều
ghen ghét. Có lần bị vu cáo, ông
bị đầy xuống làm lính thú ở
Quảng Ngăi. Ít lâu sau ông được giải oan và
được phục chức. Mặc dù con đường
lập công danh thật nhiều gập ghềnh, nhưng
ông lúc nào cũng chứng tỏ tinh thần nhập
thế hành đạo tích cực của ḿnh là giúp người,
giúp đời, lập công nơi chiến trường
mang lại b́nh yên cho trăm họ. Văn
d́u cánh phượng yên trăm họ, Nguyễn Công Trứ con người của hưởng
lạc Sau nhiều lần xin về
hưu, đều bị vua Thiệu Trị từ
chối. Nhân vua Tự Đức mới lên ngôi, ông
lại xin lần nữa và năm 1848 ông được
chấp nhận về hưu lúc 70 tuổi. Từ đó: Đường
mây rộng thênh thênh cử bộ Nợ
tang bồng trang trắng vỗ tay reo Và
khi “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”,
ông thường cưỡi ḅ vàng cổ đeo
nhạc ngựa, tiêu dao vào cơi hưởng lạc: Năm ba
chú tiểu đồng lếch thếch Tiêu dao nơi
cùng cốc thâm sơn Nào thơ,
nào rượu, nào địch, nào đờn Đồ
thích chí chất đầy trong một túi. Này
thơ, này rượu, này đàn, này cờ vui chơi
(hành lạc) cho thỏa chí: Cuộc
hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí. Rượu
lưng bầu rót chén Lưu
Linh. Cờ Đế
Thích đi về xe pháo mă. Mà
đồ thích chí của Uy Viễn Tướng Công
không chỉ là “cầm kỳ thi tửu”, c̣n có cái
“yến yến hường hường” cho đời
thêm thú vị: Có
yến yến hường hường mới thú Ông ngất ngưởng hưởng
thụ cuộc sống: Gót
tiên theo đủng đỉnh một đôi d́ C̣n ai ngất ngưởng
hơn ông. Giai thoại kể lại năm 73 tuổi ông
lấy cô vợ lẽ thứ 10. Trong đêm tân hôn, cô
dâu trẻ thỏ thẻ hỏi chồng được
bao nhiêu tuổi. Chú rể trả lời, cách đây năm
mươi năm ta mới được hăm ba: Tân
nhân dục vấn: Lang niên kỷ? Những
giai
thoại về những cuộc t́nh của chàng trai làng
Uy Viễn phong lưu, đa t́nh và mê hát kể ra không
hết. Mà nổi tiếng nhất là câu chuyện “Giang san một gánh
giữa đồng, Thuyền quyên “ứ hự” anh hùng
nhớ chăng?” với nàng ca kĩ Hiệu
Thư mà hầu như ai cũng biết. Mà rồi
với ông “vui chơi” cũng
chỉ là một cái nợ, đó là ”nợ phong lưu”.
Nợ phong lưu cũng như nợ công danh, nợ
tang bồng, có nợ th́ phải trả, có vay th́
phải hoàn: Cơi
trần thế nhân sinh là khách cả Đă mang tiếng trả “nợ
phong lưu” th́ phải trả sao cho thanh lịch, cho
đài các, “cho người biết tay”.
Bởi “nghề chơi cũng lắm công phu“
(Kiều) chứ không phải là thứ đ̣i hỏi
dễ dàng thấp hèn: Chơi
cho lịch mới là chơi Nguyễn
Công Trứ đă đưa tư tưởng hưởng
lạc lên thành một triết lư sống. Ông sống tự do mà
hành xử cũng tự do không bị ràng buộc vào
những “giáo điều” do phong kiến đặt
ra. Nho giáo đề cao “cương thường”
gồm tam cương (nghĩa vua tôi, cha con, vợ
chồng) và ngũ thường (nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín) là
những gông cùm vô h́nh trói buộc tự do con người
và được các vua chúa sử dụng như là
một công cụ để củng cố quyền
lực của ḿnh. Quan niệm về hưởng
lạc của Nguyễn Công Trứ có thể nói là
đi trước thời đại và như là
một tuyên ngôn đề cao tự do cá nhân và đả
phá “ṿng cương tỏa” của truyền
thống Nho giáo. Ông cũng là con
người hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam dám
đưa triết lư hưởng lạc vào văn chương.
Triết lư hưởng lạc của Nguyễn Công
Trứ và chủ nghĩa lăng mạn ở châu Âu ở
cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX có thể nói gặp nhau ở một
điểm là đối kháng với sự g̣ ép, trói
buộc nghiêm ngặt của chủ nghĩa cổ điển,
đề cao sự tự do của cá nhân và mở ra
một chân trời mới về nhân sinh quan. Cuối cùng Nguyễn
Công Trứ là một con người sống với 2
triết lư: hành động và hưởng lạc. Khi c̣n
trẻ, ông hăm hở lên
đường lập công danh, trả nợ tang
bồng. Ông là một mẫu nhà
Nho lấy “cương thường” làm phương
châm hành động của ḿnh, sống có trên có dưới
và sống sao cho trọn nghĩa vua tôi “không
quân thần, phụ tử đếch ra người”.
Với hoài băo nhập thế giúp đời, ông
đă phải dựa vào vương quyền để
thi thố tài năng và thực thi triết lư hành động.
Khác với Nguyễn Du (1766-1820),
Nguyễn Công Trứ hăm hở lên đường
bao nhiêu, th́ thi hào Nguyễn
Du, một con người đă trải qua hai triều
đại Lê và Nguyễn, nên khi bị bắt buộc
ra làm quan cho nhà Nguyễn, đă mang tâm trạng “hàng
thần lơ láo phận
ḿnh ra đâu?” (Kiều) v́ vẫn c̣n hoài Lê.
Với Cao Bá Quát (1809-1855) Nguyễn
Công Trứ cũng khác, hai người
cùng làm quan dưới triều vua Thiệu Trị và
Tự Đức, đều có ư thức dấn thân,
nhưng nhà thơ họ Cao theo
đuổi con đường khác hẳn, dứt khoát
đả phá chế độ phong kiến,
phất cờ khởi nghĩa chống lại triều
đ́nh nhà Nguyễn. Cao Bá Quát cho
thêu hai ḍng chữ lớn trên lá đại kỳ: B́nh
Dương, Bồ Bản vô Nghiêu, Thuấn Như
là khẩu hiệu hành động của ḿnh: ở B́nh Dương và Bồ Bản không
có những ông vua hiền như Nghiêu, Thuấn. Th́
ở Mục Dă, Minh Điều có những người
như Vơ, Thang đứng lên chống lại.
Nhưng
cuối cùng cuộc nổi dậy bị thất
bại, vua Tự Đức ra lệnh chu di tam tộc
họ Cao. Không biết hành động và cái chết
của Cao Bá Quát có làm thay đổi sự suy tư
của Nguyễn Công Trứ hay không? Nhưng có một
lần trong bữa tiệc chúc mừng sinh nhật 70
của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát có họa
lại bài thơ thọ bảy mươi (chữ Hán là Thất
thập tự thọ) như là một câu hỏi để
suy ngẫm: Nghe nói người muốn quay về ngọn núi
Hồng, Sau
khi trải qua bao thăng trầm”khóc lộn cười”, về hưu lúc
70 tuổi, Nguyễn Công
Trứ nh́n ra sự thật của lẽ sống.
Bởi v́ tất cả chỉ là phù du ảo mộng
như nồi kê chửa chín: Ba mươi năm hưởng
thụ biết chừng nào, Ông đă vượt qua được
gọng ḱm Nho giáo để sống trong tự do phóng
khoáng hưởng lạc. Nếu
như dấn thân để giúp đời, giúp người
là một nhiệm vụ, th́ hưởng thụ cũng
là một quyền lợi. Người không biết hành
lạc đúng nghĩa là người chưa biết
sống thật sự: Nhân
sinh bất hành lạc Dịch:
Đời người không hành lạc Cùng
quan điểm về hưởng lạc với
Nguyễn Công Trứ, thi hào Johann Wolfgang von Goethe
(1749-1832), người Đức, trong tác phẩm
“Faust” đă để nhân vật Faust được
trải nghiệm qua tất cả các vui thú trần gian
như là một cách để đả phá những cái
ràng buộc của chế độ quân chủ
thời đó. Ngoài ra Nguyễn Công Trứ và Goethe c̣n
có chung thêm một cái nh́n về triết lư hành động.
Câu “Khởi thủy là hành động” của Goethe,
nói lên quan niệm
về hành động, chỉ có hành động
mới thay đổi được con người,
được xă hội, được thiên nhiên. Nguyễn
Công Trứ là con người đặc biệt, độc
đáo, dám nghĩ, dám làm và
dám sống. Ông sống ngang tàng ngất ngưởng, là
người mang chí lớn và lập lên sự
nghiệp lẫy lừng. Nhưng điều đáng quư
nhất ở con người ông là không để chân
vướng vào ṿng “danh” và
áo không bị hoen màu v́ “lợi”: Vào ṿng
cương tỏa chân không vướng Mùa
đông 2020 [1]
Bà
Triệu thị Trinh (226-248): "Tôi
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
bằng sóng dữ, chém cá Ḱnh ở biển Đông,
đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn,
cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng
là t́ thiếp người ta" [2]
Đoài
là một
quẻ trong Kinh Dịch, tượng trưng
cho hướng tây. Câu ca dao này nghĩa là làm
trai cho đáng nên trai. Xuống hướng đông th́
đông tĩnh, lên hướng tây th́ tây yên. [3]
Có nghĩa là “Đời người xưa nay ai chẳng chết. Để lại ḷng son rọi ngàn
thu“. Đây là 2 câu
thơ của Văn Thiên Tường một vị anh hùng
của Trung Quốc, mà Nguyễn Công Trứ dùng trong bài
hát nói “Chí làm trai”. [4]
“Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về
nhân sinh”, Nguyễn B́nh Yên [5] Lấy trong câu Kinh thư “Vi thượng
vị đức, vi hạ vị dân“ có nghĩa là trên
v́ người có đức (vua) dưới v́ thứ
dân. Quân thân là vua và cha mẹ. [6]
Câu này trong bài “Bài ca ngất ngưởng“ có nghĩa
là: Mọi
việc trong trời đất, chẳng có việc nào
không phải phận sự của ta. [7]
Hai câu trong nguyên bản bài thơ chữ Hán
của Cao Bá Quát “Hoạ Uy Viễn Thất thập tự
thọ” Văn
đạo Hồng phong dục hồi thủ, |