NĂM
CANH TƯ DƯỚI GÓC NH̀N THÁI ẤT
Trần Viết Điền |
Kinh
Thái Ất cho rằng, năm Canh Tư là năm “thái quá”,
bất cập thái quá, hành kim trội tất nhiên hành
mộc lặn làm khí hậu ráo, cây cối không
được tốt tươi, phát triển không
thuận lợi; đất động, dễ gặp
đại dịch, người thường mắc
bệnh về gân, mắt, tai; tạng phế chịu
ảnh hưởng sinh họ ngược lên, đau
vai, Bệnh về gan,dạ dày…rất dễ tử
vong. Các v́ vua, quan, gặp năm Canh Tư th́ đa
phần không khỏe, nên triều đ́nh ít đưa
ra những quyết sách lớn. Chi “Tư” gặp can
“Canh” th́ “chuột” lộng, vận vào cộng
đồng người th́ ứng với bọn
tiểu nhân đắc chí, được dịp xưng
hùng xưng bá thậm chí xưng vương….(1). Tuy
nhiên gặp hoa giáp (60 năm), khởi từ Mậu
Tuất là mầm của vượng phát, sang Kỷ
Hợi mầm tốt đang kỳ tăng trưởng
th́ vào năm Canh Tư gặp lực lượng xấu
sẽ bùng phát, lộ mặt để phá cái tốt
non trẻ; nhưng rồi lực lượng xấu cũng
sớm thất bại. Để
kiểm chứng độ tin của quan điểm trên,
thử soát xét những năm Canh Tư của lịch
sử nước Viêt, tính từ khi Ngô Quyền mở
nền độc lập để kiểm chứng: Năm
Mậu Tuất[938] Ngô Quyền trừ kẻ phản
bội Kiều Công Tiển, đánh thắng quân Nam Hán,
năm Kỷ Hợi[939] Ngô Quyền xưng vương
vào mùa xuân, “đặt trăm quan, chế định
triều nghi phẩm phục, …qui mô của bậc
đế vương”. Nhưng qua năm Canh Tư[940],
cho đến khi nhà vua băng hà vào năm Giáp Th́n[944],
nhà vua chẳng có quyết sách cũng như quân công nào
nổi bật, nên chính sử chẳng ghi chép. Có
khả năng Ngô Vương đă khởi bệnh
từ năm Canh Tư vậy. Thời
vua Lê Đại Hành, đúng năm Canh Tư[1000], nhà
vua phải xuống chiếu đánh giặc ở châu
Phong là bọn Trịnh Hàng, Trần Lệ, Đan Trường
Ôn, giặc bại phải trốn vào rừng núi
Tản Viên. Cùng năm triều đ́nh vua Lê chịu
hai đại tang: Đại Thắng Minh hoàng hậu Dương
Vân Nga (phong năm 982) và Thái Tử Kinh Thiên đại
vương Lê Long Thâu (phong năm 989) nối nhau qua
đời. Việc nội trị cũng không có ǵ
nổi bật. Thời
vua Lư Thánh Tông, vào năm Canh Tư[1060], triều
đ́nh chẳng có quyết sách ǵ mới. Một
số binh lính Đại Việt bỏ trốn vào
đất Tống, vua sai châu mục Lạng Châu là Thân
Thiệu Thái đưa quân đi bắt; tóm được
Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài. Quân Tống xâm
lấn không được, sai Dư Tĩnh c̣n Đại
Việt sai Phí Gia Hựu sang Ung châu thương
nghị. Tĩnh hậu tặng Gia Hựu để
nhờ Gia Hựu tâu vua Lư trả Dương Bảo Tài,
vua Lư không đồng ư. Thời
vua Lư Nhân Tông, vào năm Canh Tư[1120], vua đă
vào tuổi 49 vẫn chưa có con nối dơi, bề tôi
chẳng dâng sách lược ǵ hay, chỉ dâng biểu
đổi niên hiệu, gia thêm tôn hiệu không ngoài
mục đích bọn họ cũng được thăng
quan tiến chức. Lại có bọn nịnh thần dâng
vật lạ như chim sẻ trắng, tâu vua đắp
đài Chúng Tiên không ngoài mục đích bày vua hưởng
lạc. Thời
vua Lư Cao Tông, trước năm Canh Tư[1180], Tô
Hiến Thành mất năm Kỷ Hợi[1179] th́ vào năm
Canh Tư gặp lụt to, động đất. Năm Tân
Sửu[1181], chỉ vài tháng đầu xuân, Thái tử
bị phế là Long Xưởng cầm đầu
bọn gia nô trộm cướp bừa băi, mưu làm
loạn, khởi mầm thời Lư mạt. Thời
vua Trần Thái Tông, mới lên ngôi mấy năm đầu
gặp cha mẹ qua đời, đau buồn nhà vua
trốn lên Yên Tử cầu Phật vào năm Bính Thân[1236],
nhưng v́ Trần Thủ Độ áp lực mạnh;
khơi dậy trách nhiệm với xă tắc trong tâm trí
vua trẻ nên nhà vua đă phá chấp, một là chính
thức chấp chánh, hai là theo mưu của Trần
Thủ Độ, cô ruột Trần Thị Dung phế
Lư Chiêu Hoàng (sinh hoàng tử nhưng chết non và
muộn con) vào năm Đinh Dậu[1237], đưa
“chị vợ” cũng là “chị dâu” Lư Thuận
Thiên lên ngôi hoàng hậu.Anh ruột của nhà vua là
Trần Liễu nổi loạn nhưng rồi Trần
Thủ Độ cùng Trần Thái Tôn đă tạm
giải quyết sự việc. Trần Quốc Khang con
của Trần Liễu trở thành con trai đầu ḷng
của Trần Thái Tôn, An sinh vương vẫn ôm
hận. Năm Canh Tư[1240], con trưởng
chính thức của Trần Thái Tông với Lư Thuận
Thiên chào đời là Trần Hoảng, chính thức
được lập Đông cung, Trần Quốc Khang
trờ thành “dưỡng tử”, An sinh vương càng
hận…mưu lấy lại “ngai vàng”. Về sau
Trần Quốc Khang phải vào Diễn Châu, c̣n
Trần Quốc Tuấn v́ nghĩa lớn không theo
lời dặn của cha; giúp rập ba đời vua
Trần đánh thắng Nguyên Mông, giữ vững sơn
hà xă tắc. Năm Canh Tư[1300], triều
Trần gặp hai đại tang, Trần Quốc
Tuấn và Trần Quốc Khang gặp bệnh nối
nhau qua đời. Thời
vua Trần Dụ Tông, năm Canh Tư[1360] nhà
vua và triều đ́nh không có quyết sách ǵ mới,
động đất, lụt to. Nhà vua có phục
hồi tước vương cho Huệ Túc [Trần
Đại Niên] và cử giữ chức B́nh chương
chính sự nhưng Đại Niên liền qua đời
cùng năm khi mới 55 tuổi. Ngô Bệ nổi
dậy từ năm 1344, do hạn hán mất mùa, đến
năm Canh Tư này, dân Yên Phụ bắt Bệ dâng
nộp triều đ́nh. Thời
thuộc Minh, Lê Lợi từ năm Mậu Tuất[1418]
đă dựng cờ khởi nghĩa kháng Minh, tính đến
nămCanh Tư[1420], quân khởi nghĩa Lam Sơn
đă có bước phát triển đáng kể.
Thế nhưng lại xuất hiện Lê Ngă, gia nô nhà
Trần Thiên Lại, có khuôn mặt đẹp như
thiên thần, có tài ăn nói, đi đâu cũng có người
nghe nên cung dưỡng cho y, khiến y hoang tưởng
rằng ḿnh có chân mệnh đế vương
dẫu học ít.Y hợp quân chúng, lên đến hàng
vạn, lừa đảo rằng y là hậu duệ
của Trần Duệ Tông và tự xưng Thiên Thượng
hoàng đế, đặt niên hiệu là Vĩnh Thiên.
Đến Lạng Sơn y trá xưng cháu bốn đời
của Trần Duệ Tông, từ Lăo Qua trở về,
phụ đạo Đan Ba là Bế Thuấn gă con gái tôn
y làm vua…Sau Trần Thiên Lại phát hiện, bố cáo
cho quân chúng biết y là kẻ lừa đảo. Thiên
Lại tự xưng Hưng vận quốc thượng
hầu đem quân đánh nhau với Ngă, bị Ngă
giết. Kết cục Lê Ngă bị quân Minh đưa
đại quân thủy bộ đến dẹp, Ngă
bỏ trốn. Thời
vua Lê Thánh Tông, vua sáng tôi hiền, sáng lập chế
độ, văn vật khả quan, mở mang đất
đai, cơi bờ khá rộng…Thế nhưng, trong năm Canh
Tư[1480] gặp hạn hán triền miên, “h́nh
quan và các quan thừa hiến phủ huyện các xứ
xét xử án kiện, lấy của đút th́
nhiều, giữ lẽ công th́ ít, có trường
hợp để ứ đọng văn án đến
3,4 năm; có trường hợp nha môn trên dưới
đùn đẩy lẫn nhau, đổi trắng thay
đen, cho trái làm phải, gia trá trăm cách, lư ngay không
được tỏ bày, oan trái nhiều, sầu than
lắm, đến nỗi hạn hán xảy ra luôn…”(2).
Bên trong nước như thế, c̣n bên ngoài thổ tù
tỉnh Quảng Tây xâm lấn đất đai, nhà
Minh th́ sách nhiễu, cử sứ răn đe việc
Đại Việt đánh phả Lăo Qua, Bồn Man vào
những năm trước đó; vua Lê Thánh Tông giao
đại thần viết biểu để biện
bạch. Nhà
Lê suy mạt, Mạc Đăng Dung có thế, có tài
đứng ra chống đỡ, nhân thể soán ngôi nhà
Lê từ năm Đinh Hợi[1527]. Một số đại
thần huân cựu nhà Lê chống đối bị nhà
Mạc tiêu diệt.Không lâu, Nguyễn Kim sai người
ḍ t́m, đón cháu 5 đời vua Lê Thánh Tông là Lê Ninh
sang nước Ai Lao tôn lập thành vua Lê Trang Tông vào năm
Quư Tỵ[1533]. Vua Lê liền sai Trịnh Duy Liêu sang nhà
Minh tâu việc Mạc Đăng Dung tiếm loạn. Năm
Giáp Ngọ[1534] vua Minh sai Hàm Ninh hầu Cửu Loan, Binh
bộ thượng thư Mao Bá Ôn chuẩn bị quân
đến biên giới hỏi đánh. Suốt từ năm
1535 đến 1538, nhà Mạc vừa “b́nh định”
Đại Việt như tổ chức thi cử để
tuyển nhân tài, vừa tuyển quân để củng
cố quân đội, đồng thời cử sứ
giả sang nhà Minh biện bác việc tiếm ngôi
của họ Mạc. C̣n vua Lê Trang Tông ở Ai Lao, cũng
cứ sứ giả qua nhà Minh tố cáo họ Mạc.
Nhà Minh th́ không thực đánh nước Việt v́
biết đánh cũng không giữ được, nên
mật lệnh đạo quân của Cửu Loan, Mao Bá
Ôn cứ ở biên giới làm kế “tọa san quan
hổ đấu”, dẫu số quân lên đến 20
vạn gồm tinh binh và kỳ binh, tạo ra kiếp
nạn Nam Bắc triều phân tranh Lê-Mạc triền miên
cho nước Việt. Năm Mậu Tuất[1538],
họ Mạc sai Nguyễn Văn Thái qua nhà Minh xin hàng và
xin phân xử. Đến nămCanh Tư[1540], vua
Mạc Đăng Doanh qua đời, “Thái thượng
hoàng” Mạc Đăng Dung và cháu Mạc Văn Minh, cùng
9 bề tôi “qua Trấn Nam Quan,
mỗi người đều cầm thước,
buộc dây ở cổ, đi chân không đến
phủ phục trước mạc phủ của quân
Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu
đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất
đai, quân dân và quan chức cả nước để
chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim
Lặc,Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù
của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội
thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương,
để kính cẩn coi giữ việc nước và
chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác.
Lại sai bọn Văn Minh và Nguyễn Văn Thái,
Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh(3).
Việc làm ô nhục này có thể giúp nhà Mạc
giữ ghế ở Thăng Long nhưng quá mất ḷng
dân, nên khi “ Thái sư hưng
quốc công Nguyễn Kim đem quân về đánh
Nghệ An, hào kiệt phần nhiều theo về, thanh
thế rất lừng lẫy, đến đâu là
gần xa đều hàng phục”. …(4). H́nh
dung một gia đ́nh đang sinh sống ở một nhà
vườn khá giả, gặp năm Canh Tư không
tốt về thời tiết, thậm chí hạn hán
dịch bệnh, cây trái không tươi nhuận, có người
nhà đang bệnh và qua đời, tang gia bối
rối, vật nuôi như chó mèo uể oải sinh lười,…Khi
ấy bọn chuột, gián sẽ lộng; cắn phá
lung tung, trộm cắp lúa gạo. Ngoài vườn lũ
chồn cáo tha hồ bắt vịt bắt gà, chuột
nhà hàng xóm thường sang ăn trộm hoa màu
kiểu dậu đổ b́m leo. Thế th́ một đất
nước cũng vậy, bậc quân vương mang
bệnh, thậm chí băng hà, đại thần
trụ cột mang bệnh tật th́ làm sao có những
tấu chương sáng suốt để ích nước
lợi dân? Quan xấu th́ “đục nước béo c̣”,
“tham lam nhũng nhiễu”, lân bang th́ nḥm ngó, lấn
đất giành dân, lăm le xâm lược, lấn áp
thương trường…Tuy nhiên trong họa có phúc, năm Canh
Tư người nhà nhờ thế mới biết
ổ chuột hang chồn từ trong nhà ra vườn,
nhận ra người nhà ai tốt ai xấu, vật nuôi
nào siêng nhác…để vài năm sau khắc phục.
Thế th́ một đất nước cũng vậy,
năm Canh Tư dẫu không tốt nhưng là
năm cái xấu sẽ lộ ra, giúp những người
lănh đạo tốt sẽ rơ những người
xấu đang phá hại đất nước,
biết được nước nào là bạn vàng
bạn tốt, nước nào là bạn xấu bạn
đểu, để có những quyết sách tương
thích, vượt qua khó khăn, từng bước
đưa đất nước đi lên. Huế,
Đông chí Kỷ Hợi Trần
Viết Điền ————————————————————————————————— 1.
Trạng Tŕnh
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thái Ất thần kinh, Dịch
giả Thái Quang Việt, NXB Văn Hóa Dân Tộc, Tp HCM,
2002. (2):
Trích Sắc chỉ vua Lê Thánh Tông, ngày 20-6-Canh Tư[1480]. (3), (4): Theo ĐVSKTT. |