Đối
với các binh lính mà ông chỉ huy ngoài mặt
trận, Napoléon (1769 - 1821) được gọi
bằng một tên thân mến là "Viên Hạ Sĩ
nhỏ bé" (the Little Corporal). Napoléon là một vị
tướng chỉ cao 1 thước 57 (5 ft 2 in.),
chiều cao trung b́nh của một người dân Pháp
vào thời đại đó, ông thấp hơn các tướng
lănh dưới quyền và các chính khách đương
thời của châu Âu, nhưng Napoléon là một con người
đầy nghị lực và rất tham vọng: ông là
một nhà cai trị xuất chúng, đă đồng
thời kiểm soát hệ thống chính trị, chính sách
đối ngoại, các công việc đối nội,
ngành báo chí… của toàn thể nước Pháp.
Napoléon đă nghĩ ra rất nhiều cải cách
hữu ích kể cả việc thiết lập nên
một chính quyền trung ương vững mạnh,
hữu hiệu, đă duyệt xét lại và tổ
chức lại hệ thống luật pháp của nước
Pháp thành bộ luật hữu lư. Nhiều công tŕnh
cải tiến hành chính của Napoléon vẫn c̣n
tồn tại cho tới ngày nay trong các cơ chế chính
quyền của nước Pháp và tại các quốc
gia theo ảnh hưởng và văn minh Pháp.
Napoléon đă tự phong làm Hoàng Đế của nước
Pháp và đă tạo ra một đế quốc
trải rộng khắp miền tây và miền trung
của châu Âu. Hoàng Đế Napoléon đă là chủ
nhân của toàn thể châu Âu trong 16 năm: ông đă
khéo léo sử dụng các người dưới
quyền có khả năng và đă tưởng thưởng
họ bằng các huy chương, cấp bậc, tài
sản và các danh hiệu quư tộc. Napoléon đă
trực tiếp điều khiển các trận
chiến vĩ đại và rất phức tạp,
điều này chứng tỏ ông là một thiên tài quân
sự, có lẽ vĩ đại bậc nhất trong
Lịch Sử của Nhân Loại.
1- Thuở thiếu thời của Napoléon Bonaparte.
Napoléon sinh ngày 15-8-1769 tại Ajaccio, trên ḥn đảo
Corsica không bao lâu sau khi ḥn đảo này được
chính quyền Genoa bán cho nước Pháp. Napoléon là người
con thứ tư trong gia đ́nh 8 người con và là
con trai thứ hai của ông Carlo Buonaparte và bà Letizia
Ramolino. Ông Carlo là một luật sư, có ḍng dơi quư
tộc của xứ Tuscan và ḍng họ này đă di cư
và sống trên đảo Corsica vào thế kỷ 16. Ông
Carlo đă cưới bà Letizia, một thiếu nữ
14 tuổi trẻ đẹp và là người có ư chí
mạnh. Họ đă phải nuôi dưỡng 8 người
con trong một hoàn cảnh eo hẹp về tài chính.
Khi người Pháp chiếm đóng đảo Corsica th́
một số người dân địa phương
đă nổi lên chống lại chính quyền Pháp,
thủ lănh là ông Paoquale Paoli. Ông Carlo Buonaparte đă tham
gia vào đảng phái của ông Paoli nhưng khi ông
thủ lănh này bỏ trốn, ông Carlo đă hợp tác
với người Pháp. Nhờ sự bảo trợ
của vị thống đốc đảo Corsica, ông
Carlo được bổ nhiệm năm 1771 làm phụ
thẩm (assessor) của khu vực tư pháp Ajaccio. Năm
1778, ông Carlo đă xin được phép cho hai con trai
lớn là Joseph và Napoléon theo học trường trung
học d'Autun (College d'Autun).
Với nguồn gốc đảo Corsica và tên theo
tiếng Ư là Napoleone Buonaparte, Napoléon là một đứa
trẻ ngoại quốc có tính t́nh địa phương,
rất ghét người Pháp là lớp người
bị dân chúng coi là kẻ áp chế. Khi lên 9 tuổi,
Napoléon được cha gửi theo học trường
quân sự tại Brienne-le-Chateau, một tỉnh nhỏ
gần Troyes.
Napoléon là một thiếu niên nhạy cảm, cô
đơn, thường bị các bạn cùng lớp
bắt nạt. Sự tàn nhẫn của các bạn
học đă khiến cho Napoléon thu ḿnh vào các mơ
mộng về vinh quang cá nhân và chiến thắng quân
sự. Napoléon là một học sinh trung b́nh về
phần lớn các môn học nhưng lại xuất
sắc về Toán Học. Năm 1784, Napoléon được
chọn lựa vào Học Viện Quân Sự Paris, theo
binh chủng Pháo Binh. Trong thời gian Napoléon theo học
tại thành phố Paris th́ người cha qua đời
v́ bị ung thư bao tử vào tháng 2 năm 1785, để
lại một gia đ́nh sống trong hoàn cảnh eo
hẹp. Tháng 9 năm đó, Napoléon tốt nghiệp
Học Viện Quân Sự với cấp bậc
Thiếu Úy, xếp hạng 42 trong số 58 tân sĩ
quan.
Sau đó, Napoléon phục vụ tại Trung Đoàn Pháo
Binh Le Fère, trú đóng tại Valence. Đây là trường
huấn luyện các sĩ quan Pháo Binh trẻ. Napoléon
tiếp tục học hỏi bằng cách t́m đọc
rất nhiều sách vở về chiến thuật và
chiến lược, đọc các tác phẩm của
Voltaire và Rousseau, và cũng đă tập viết văn,
đúc kết lại thành "Các bức thư về
Đảo Corsica" (Lettres sur la Corse) trong đó mô
tả các cảm t́nh của ḿnh đối với nơi
sinh trưởng. Tháng 9-1786, Napoléon trở lại đảo
Corsica và đă không tham gia vào Trung Đoàn Pháo Binh cho
tới tháng 6-1788. Vào giai đoạn này, toàn thể nước
Pháp đang sôi động v́ các biến cố chính
trị và cuộc Cách Mạng Pháp sắp sửa bùng
nổ. Napoléon tin tưởng rằng chắc chắn
sẽ có cuộc thay đổi chính trị tại nước
Pháp.
2- Thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Vào năm 1789, các nhà cách mạng Pháp đă hội
họp tại Paris để thành lập nên Quốc
Hội và chế độ quân chủ lập hiến,
họ đă cho phép ông Pasquale Paoli trở về đảo
Corsica và vào tháng 9 năm đó, Napoléon cũng quay
về nghỉ tại đảo này. Tại quê hương,
Napoléon muốn tham gia vào phong trào của ông Paoli nhưng
vị lănh tụ của phong trào chính trị địa
phương này đă không tin tưởng chàng thanh niên
Napoléon v́ người cha, ông Carlo, đă không trung thành
với lư tưởng tranh đấu cho địa phương.
Do bị gạt ra khỏi nhóm đấu tranh và bị
thất vọng, Napoléon trở lại nước Pháp và
vào tháng 4-1791, được bổ nhiệm làm Trung Úy
tại Trung Đoàn Pháo Binh thứ 4, đóng tại
Valence. Chính tại nơi này, Napoléon đă tham gia vào Câu
Lạc Bộ Jacobin, một hội chính trị cấp
tiến, lúc đầu chủ trương một nước
cộng ḥa dân chủ. Napoléon đă trở nên chủ
tịch của câu lạc bộ và trong các lần phát
biểu, thường công kích các nhà quư tộc, các giám
mục và các thầy tu.
Tháng 9 năm 1791, Napoléon xin nghỉ phép và trở
về sống tại đảo Corsica trong ba tháng, và
trong thời gian này, ông đă phục vụ trong quân
đội địa phương của đảo (the
Corsican National Guard). Sự tham gia vào câu lạc bộ
Jacobin và khuynh hướng chính trị cấp tiến
của Napoléon đă gây nên sự bất ḥa giữa
Napoléon và ông Paoli, một người bảo hoàng. Sau
khi cuộc Cách Mạng Pháp xẩy ra và Vua Louis 16 bị
hành quyết vào tháng 1-1793, th́ ông Paoli với chủ trương
tách đảo Corsica ra khỏi nước Pháp, đă
tuyên bố Napoléon là kẻ bị đặt ra ngoài ṿng
pháp luật. Các người trong gia đ́nh Buonaparte
đành phải rời khỏi ḥn đảo, chạy
qua đất Pháp. Napoléon trở về phục vụ
trong Quân Đội Pháp và đóng tại thành phố
Paris.
Dưới chế độ quân chủ Bourbon, Napoléon có
rất ít hy vọng được thăng cấp nhưng
khi cuộc Cách Mạng Pháp lên cao độ vào ngày
10-8-1792 với chế độ quân chủ đă
bị lật đổ và một nước Cộng Ḥa
được thành lập, th́ đây là cơ hội
rất tốt, có tính quyết định đối
với cuộc đời của Napoléon và đă
mở ra để Napoléon tiến lên đài vinh quang. Vào
thời gian này, phần lớn các sĩ quan cao cấp
của quân đội Pháp vẫn c̣n trung thành với
nhà Vua nhưng Napoléon lại xét đoán thời
cuộc theo một đường hướng khác. Nước
Cộng Ḥa Pháp hiện đang phải đối đầu
với cuộc nội chiến và các cuộc chiến
tranh với các nước lân bang. Nền Cộng Ḥa
đang rất cần các sĩ quan có khả năng và
trung thành với chế độ mới.
|
Căn cứ quân sự ở Toulon
|
Năm 1792, Napoléon mang cấp bậc Đại Úy
rồi phục vụ tại Nice vào tháng 6-1793. Vào
thời gian này, Napoléon đă viết một bài báo, có
tên là "Souper de Beaucaire" qua đó ông kêu gọi các
người cộng ḥa phải đoàn kết chung quanh
nhóm Jacobin, là những người càng ngày càng trở
nên cấp tiến hơn. Tới cuối tháng 8-1793,
đạo quân của Hội Nghị Quốc Ước
đă chiếm được thành phố Marseille nhưng
đă bị chặn lại tại thành phố Toulon là
căn cứ của các kẻ bảo hoàng, những người
này đang kêu gọi sự trợ giúp của quân
đội Anh. Trong một trận đánh tại Toulon,
do vị chỉ huy Pháo Binh của đạo quân cách
mạng bị thương và cũng do lời đề
nghị của ủy viên chính trị Antoine Saliceti là
một người đảo Corsica và là bạn
với gia đ́nh, Napoléon được đề
nghị giữ chức chỉ huy trưởng Trung Đoàn
Pháo Binh, được thăng cấp bậc Thiếu
Tá vào tháng 9 và tham dự vào công cuộc vây hăm thành
phố Toulon. Chính tại nơi này, Napoléon đă
bộc lộ khả năng của một vị tướng
tài và một nhà lănh đạo uy dũng.
|
Hải quân Anh rút lui khỏi Toulon
|
Vào
tháng 12-1793, Napoléon ra lệnh đặt các khẩu
đại bác ở trên cao, hướng về hải
cảng Toulon và bắn vào các tầu chiến Anh, v́
vậy hạm đội Anh phải rút lui và quân Cách
Mạng Pháp đă chiến thắng tại Toulon. Do
chiếm được thành phố này, Napoléon
được phong chức Thiếu Tướng
(Brigadier General) lúc mới 24 tuổi. Augustin de Robespierre,
ủy viên chính trị của Quân Đội Cách
Mạng Pháp, đă phải gửi cho người anh là
Maximilien Robespierre khi đó là người đứng
đầu chính quyền Pháp và là một trong các nhà lănh
đạo của thời kỳ khủng bố, một
bức thư ca tụng "công lao ưu việt"
của viên sĩ quan trẻ Napoléon Bonaparte, thuộc
đảng Cộng Ḥa. Napoléon đă thành công v́
biết áp dụng khéo léo một kỹ thuật quân
sự mới là Pháo Binh vào chiến tranh.
Tháng 2-1974, Napoléon được bổ nhiệm làm
chỉ huy trưởng lực lượng Pháo Binh
của đội quân Pháp trú đóng tại nước
Ư, nhưng khi Maximilien Robespierre bị truất quyền vào
ngày 9 tháng Thermidor (27-7-1794) th́ Napoléon liền bị
bắt về tội âm mưu và phản bội, v́
đă là người được Robespierre che
chở. Napoléon được trả lại tự do vào
tháng 9 nhưng không được phục hồi
quyền chỉ huy. Vào tháng 3 năm sau, Napoléon
được đề nghị chức vụ chỉ
huy lực lượng Pháo Binh miền Tây để
chống lại lực lượng phản cách mạng
tại miền Vendée nhưng ông đă từ chối v́
cho là không có tương lai. Napoléon trở về Paris.
Cuộc sống tại thành phố Paris đối
với Napoléon đă không dễ chịu, nhất là khi
ông lại liên quan t́nh cảm với nàng Desirée Clary,
con gái của một thương gia giàu có thuộc
miền Marseille và là em của chị dâu Julie, người
đă lấy anh Joseph. Napoléon đă không thể xin
được một chức vụ nào v́ nhiều nhà
chính trị thời đó e ngại sự liên kết
của Napoléon với nhóm "Montagnard" là những
nhân vật cấp tiến của Hội Nghị
Quốc Ước, họ cũng e ngại các tham
vọng của Napoléon. V́ tài năng không được
sử dụng, Napoléon dự định đi xa
phục vụ cho việc canh tân quân đội của
quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ.
3- Thời kỳ Hội Đồng Chấp Chính.
Vào tháng 5 năm 1795, khi Napoléon đang sống tại thành
phố Paris th́ Hội Nghị Quốc Ước
đưa ra trưng cầu dân ư bản Hiến Pháp
mới của năm thứ ba thuộc Nền Cộng Ḥa
Thứ Nhất, cùng với các đạo luật theo
đó hai phần ba nhân viên của Hội Nghị
Quốc Ước sẽ được bầu lại
vào các hội nghị lập pháp mới. Cũng vào
giai đoạn này, các người bảo hoàng muốn
tái lập chế độ quân chủ, nên đă xúi
giục dân chúng Paris nổi loạn, khiến cho
cuộc trưng cầu dân ư không thể thực
hiện được.
|
Josephine
|
Lúc
bấy giờ, Tử Tước Paul de Barras là người
được Hội Nghị Quốc Ước giao cho
các quyền lực, đă không tin cậy vào vị
chỉ huy quân đội của Bộ Nội Vụ và
do được biết tới chiến thắng
của Napoléon tại Toulon, nên đă chỉ định
Napoléon làm chỉ huy phó. Ngày 13 tháng Vendemaire năm
thứ 4, tức là ngày 5-10-1795, khi đám đông
biểu t́nh rầm rộ trước Điện
Tulleries, Napoléon đă hạ lệnh đặt các
khẩu đại bác và bắn thẳng vào đám người
biểu t́nh. Hàng trăm người chết và bị
thương. Đường phố Paris nhờ vậy
sớm trở lại yên tĩnh.
Napoléon đă cứu được Hội Nghị
Quốc Ước và chế độ Cộng Ḥa, và
rồi trở thành chỉ huy trưởng của quân
đội thuộc Bộ Nội Vụ, nhờ đó
biết được tất cả các tiến
triển chính trị tại thành phố Paris. Napoléon
được phong Trung Tướng và cũng là vị
cố vấn quân sự cho chính phủ mới, là
Hội Đồng Chấp Chính (The Directory) với Paul
de Barras là một trong năm nhân vật điều
khiển Hội Đồng này. Chính vào thời gian này,
Napoléon đă làm quen với góa phụ của Tướng
Alexandre de Beauharnais, một người đă chết trên
đoạn đầu đài trong thời kỳ
khủng bố. Bà góa phụ này hơn Napoléon 6
tuổi, tên là Josephine Tascher de la Pagerie, là một người
gốc gác thuộc ḥn đảo Martinique miền Tây
Ấn, có hai con và nhiều mối t́nh với vài nhân
vật danh giá.
Cũng vào thời gian này, Napoléon đă tỏ ra trung thành
với Hội Đồng Chấp Chính nhờ công lao
giải tán một nhóm người Cộng Sản
chủ trương do Francois Babeuf và Filippo Buonarroti,
một người Ư mà Napoléon đă quen biết
từ đảo Corsica.
Vào tháng 3 năm 1796, Napoléon được cử làm Tư
Lệnh đạo quân Pháp tại Ư Đại Lợi,
chỉ huy một chiến dịch mà Hội Đồng
Chấp Chính trù liệu rằng Napoléon sẽ ngăn
chặn đạo quân Áo đóng tại nước Ư
trong khi các đạo quân Pháp lớn hơn sẽ băng
qua nước Đức để đánh vào thành
phố Vienna là thủ đô của nước Áo. Napoléon
đă cưới Josephine de Beauharnais rồi hai ngày sau, lên
đường qua nước Ư, nhận chức
vụ. Khi tới Bộ Chỉ Huy quân đội Pháp
đóng tại Nice, ông thấy rằng đội quân này,
với quân số 43,000 người nhưng thực ra
chỉ có 30,000 binh lính vừa thiếu ăn, vừa
thiếu mặc, thiếu trang bị và không được
trả lương đầy đủ. Ngày 28 tháng 3 năm
1796, Napoléon đă nói trước quân đội:
"Hỡi các binh sĩ, các người trơ
trụi, thiếu ăn… Các tỉnh giàu có và các đô
thị to lớn sẽ ở trong quyền lực
của các người và tại các nơi đó, các
người sẽ t́m thấy danh dự, vinh quang và tài
sản. Hỡi các binh sĩ của miền Ư Đại
Lợi, các người cần phải có can đảm
và cương quyết…".
|
Quân Pháp tấn công nước Ư
|
Ngày
12 tháng 4 năm đó, Napoléon đă đánh bại
đạo quân Áo, chia cắt lực lượng này
với đạo quân Sardina rồi tiến vào thành
phố Turin. Vua của xứ Sardina là Victor Amadeus III
phải xin đ́nh chiến rồi sau Hiệp Ước
Ḥa B́nh tại Paris vào ngày 15-5, hai xứ Nice và Savoy do
người Pháp chiếm từ năm 1762, được
sát nhập vào nước Pháp. Vào thời gian này, có
một kế hoạch cải biến nước Ư theo
chế độ cộng ḥa do một số nhà ái
quốc người Ư, lănh đạo do Buonarroti, nhưng
ông này đă bị bắt cùng với Babeuf v́ chống
lại Hội Đồng Chấp Chính. Trước hoàn
cảnh chính trị của nước Ư, Napoléon đă
cho lập nên một chế độ cộng ḥa
tại Lombardi nhưng vẫn cho theo dơi các nhà lănh
tụ Ư, và vào tháng 10 năm 1796, Napoléon đă dựng
nên nước Cộng Ḥa Cisalpine bằng cách phối
hợp xứ Modena và Reggio nell' Emilia với các miền
đất thuộc Giáo Hoàng là Bologna và Ferrara đang do
quân đội Pháp chiếm đóng.
Khi lực lượng Pháp do Napoléon chỉ huy bao vây
Mantua, các đoàn quân của nước Áo đă
bốn lần vượt qua rặng núi Alps để
tiếp cứu Mantua nhưng quân Áo đă bị Napoléon
đánh bại. Tháng 1 năm 1797, đoàn quân Áo
phải đầu hàng tại Rivoli và thành tŕ Mantua
thất thủ. Sau đó, Napoléon đưa quân tiến
tới Vienna. Khi c̣n cách thủ đô nước Áo 100
cây số, người Áo đă xin đ́nh chiến. Nước
Áo bằng ḷng nhường miền nam của xứ Ḥa
Lan cho nước Pháp và công nhận Cộng Ḥa Lombardy
thuộc về nước Pháp. Napoléon lo việc
củng cố các chế độ cộng ḥa tại
miền bắc nước Ư là Cộng Ḥa Ligurian (Genoa)
và Cộng Ḥa Cisalpine. Một số nhà ái quốc người
Ư vào lúc này đă hy vọng rằng những phát
triển chính trị này sẽ dẫn tới việc thành
lập một quốc gia cộng ḥa Ư theo kiểu
mẫu của nước Pháp.
Các chiến dịch tại nước Ư do Napoléon điều
khiển đă chứng tỏ thiên tài quân sự
của ông, và cũng tại nước Ư, Napoléon đă
làm phát triển một chiến thuật quân sự
rất thành công, dùng làm căn bản cho các trận
đánh lớn về sau. Napoléon đă dùng bộ óc bén
nhậy của ḿnh để quan sát các địa
thế, hiểu rơ các chi tiết địa h́nh nào
sẽ làm cản trở việc tiến quân. Ông
sớm đoán trước được các kế
hoạch của kẻ địch. Khi bắt đầu
vào trận chiến, Napoléon đă để dự
trữ một lực lượng lớn, quan sát rơ ràng
mặt trận và t́m ra điểm yếu nhất
của lực lượng địch, dồn sức
mạnh quân sự vào điểm đó, chia hai lực
lượng địch rồi vào thời điểm
quyết định, dùng lực lượng dự
trữ hùng hậu, thanh toán ngay một nửa địch
quân và kẻ địch đă phải kinh hoàng trước
sức tấn công bất ngờ như vũ băo.
Napoléon Bonaparte là vị danh tướng có một
khả năng đặc biệt, đó là nhận ra
được thời điểm tốt nhất để
tấn công. Bằng chiến thuật này, trong 11 ngày
của năm 1796, Napoléon đă đánh bại đội
quân Sardina đông gấp 5 lần. Napoléon
đă theo đúng "nguyên tắc chia và chinh
phục" (the principle of divide and conquer).
Napoléon c̣n tỏ ra có thiên tài về tâm lư và tuyên
truyền. Ông đă nói trước hàng quân: "Trong
hai tuần lễ, các người đă đạt
được 6 chiến thắng. Các người đă
bắt 15,000 tù binh. Các người đă giết
chết hay làm bị thương 10,000 địch quân.
Thiếu thốn đủ thứ, các người đă
hoàn thành mọi nhiệm vụ. Các người đă
chiến thắng mà không có đại bác, vượt
qua sông mà không có cầu, tiến bước mà không có
giầy, đóng quân mà không có rượu mạnh, và
thường không có cả bánh ḿ. Chỉ có các đoàn
quân của nước Cộng Ḥa, chỉ có các người
lính của Tự Do mới có khả năng chịu
đựng những thiếu thốn mà các người
đang phải chịu đựng... Tất cả các
người đang náo nức mang vinh quang về cho dân
tộc Pháp, làm khiêm nhường các vị vua kiêu căng
dám xiềng xích chúng ta. Các người hăy trở
về làng mạc của các người và nói một
cách hănh diện rằng 'ta đă ở trong đoàn
quân chinh phục Ư Đại Lợi'."
Vào mùa xuân năm 1797, các người bảo hoàng đă
thành công trong cuộc bầu cử tại nước
Pháp khiến cho Napoléon khuyên Hội Đồng Chấp
Chính hăy cản trở họ và nếu cần th́ dùng
sức mạnh. Tới tháng 7 năm đó xẩy ra
một cuộc đảo chính chống lại phe
bảo hoàng, nhưng thất bại. V́ vậy Napoléon
đă phái tướng Pierre Augereau về Paris. Cùng
với một số sĩ quan và binh lính, cuộc đảo
chính của tướng Augereau vào ngày 18 tháng Fructidor (4
tháng 9-1797) thành công, đă loại bỏ các người
bảo hoàng khỏi chính phủ và khỏi các hội
đồng lập pháp và đồng thời, cũng làm
tăng uy tín của Napoléon.
Trong chưa đầy một năm, Napoléon đă
chiến thắng 14 trận lớn và hơn 70 trận
nhỏ. Đội quân của ông đă chinh phục các
miền giàu có và những nơi này đă phải nuôi
ăn và đóng góp cho quân đội Pháp. Hàng
triệu quan tiền được gửi về nước
Pháp để làm giảm nhẹ các gánh nặng tài chính
của chính phủ trung ương. Vào tháng 10 năm
1797, nước Pháp và nước Áo đă kư kết Ḥa
Ước Campo Formio nhờ đó lănh thổ Pháp
được mở rộng. Napoléon trở về Paris
và được đón mừng như một vị
anh hùng. Napoléon Bonaparte đă mang lại vinh quang cho nước
Pháp sau 5 năm chiến tranh trên lục địa
của châu Âu.
4- Xâm lăng xứ Ai Cập.
Sau khi đă chiến thắng được nước
Áo và trở về Paris, Napoléon mang nhiều tham vọng
lớn nhưng ông thấy chưa có đủ ảnh hưởng
tác động tới chính quyền trung ương. Vào
thời bấy giờ, tất cả các nước trên
lục địa châu Âu đều phải quy phục
nước Pháp, ngoại trừ nước Anh.
Vào cuối năm 1797, Hội Đồng Chấp Chính
muốn thực hiện một cuộc đổ bộ
qua nước Anh nên đă chỉ định Napoléon
chỉ huy công cuộc viễn chinh qua eo biển Manche.
Sau một cuộc thanh tra ngắn hạn vào tháng 2 năm
1798, Napoléon tuyên bố rằng cuộc xâm chiếm nước
Anh chỉ thực hiện được sau khi nước
Pháp làm chủ được mặt biển và ông
đă đề nghị nên đánh phá các nguồn tài
nguyên của nước Anh bằng cách chiếm đóng
xứ Ai Cập và như vậy, đe dọa con
đường dẫn tới Ấn Độ. Napoléon
muốn bắt chước lối chinh phục của
Đại Đế Alexander bằng cách chiếm đoạt
đế quốc phía đông gồm Ai Cập, Ấn
Độ, các miền đất Trung Đông và
Viễn Đông. Đề nghị của Napoléon
được vị Bộ Trưởng Ngoại Giao là
ông Talleyrand ủng hộ và được các nhân
vật lănh đạo Hội Đồng Chấp Chính
chấp thuận ngay, v́ chính các vị này cũng đang
muốn đẩy đi xa vị tướng trẻ
nhiều tham vọng là Napoléon Bonaparte.
Vào tháng 5 năm 1798, Napoléon bắt đầu cuộc
viễn chinh tại Ai Cập với 38,000 quân. Các
chiến thắng bắt đầu: pháo đài Malta
của các hiệp sĩ Hospitallers (the Knights Hospitallers of
St. John of Jerusalem) bị thất thủ vào ngày 10-6-1798,
rồi thành phố Alexandria của Ai Cập đầu
hàng vào ngày 1 tháng 7. Napoléon đă đánh bại các
kẻ cai trị xứ Ai Cập có tên là nhóm Mamelukes,
trong trận đánh tại các Kim Tự Tháp gần thành
phố Cairo. Rồi đồng bằng sông Nile bị
chinh phục rất nhanh chóng. Nhưng vào ngày 1-8-1798,
hạm đội Pháp bỏ neo tại Vịnh Abu Qir
đă bị hoàn toàn phá hủy bởi hạm đội
Anh của Đô Đốc Horatio Nelson trong trận
thủy chiến "Ḍng Sông Nile" (the Battle of the Nile)
khiến cho đoàn quân Pháp bị mắc kẹt trong
miền đất mà họ đă chinh phục
được và bị cắt đứt các nguồn
tăng cường và tiếp tế.
Cũng vào thời gian này, Napoléon đă cố gắng
đưa vào xứ Ai Cập các định chế chính
trị, cách quản trị và tài năng kỹ
thuật của tây phương. Quốc gia bảo
hộ Ai Cập là Thổ Nhĩ Kỳ bèn liên minh
với các nước Anh, nước Nga và tuyên
chiến với nước Pháp vào tháng 9 năm đó.
Để ngăn chặn cuộc tấn công của
Thổ Nhĩ Kỳ vào xứ Ai Cập và có lẽ cũng
v́ muốn trở về đất Pháp bằng con
đường Anatolia, Napoléon đă đưa quân qua
Syria vào tháng 2 năm 1799, tiến tới pháo đài Acre
(ngày nay là Akko, thuộc nước Do Thái) và đoàn quân
Pháp đă bị chặn đánh thảm bại tại
nơi này. Napoléon đành phải rút về Ai Cập và
khi tới Abu Qir, gần Vịnh Abu Qir, ông đă đánh
thắng 10,000 quân Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 7 năm
1799.
Trận đánh "Ḍng Sông Nile" đă cho người
châu Âu thấy rằng Napoléon Bonaparte không phải là vô
địch và các nước Anh, Áo, Nga, Thổ đă
họp thành một liên minh quân sự mới, chống
lại nước Pháp. Từ mùa xuân năm 1799, quân
đội Pháp bị thua nhiều trận tại nước
Ư và đă phải rút lui khỏi phần lớn bán
đảo Ư Đại Lợi. Những thất bại
quân sự này đă gây nên các xáo trộn trong nước
Pháp. Ngày 30 tháng Prairial (18-6-1799), một cuộc đảo
chính đă loại ra ngoài Hội Đồng Chấp Chính
các nhân vật ôn ḥa và đưa vô Hội Đồng
này các đảng viên Jacobin, là các người cực
đoan. Nhưng hoàn cảnh chính trị vẫn không
ổn định. Một trong các nhân vật lănh đạo
Hội Đồng Chấp Chính là ông Emmanuel Sieyès đă
tin chắc rằng chỉ có chế độ độc
tài quân sự mới ngăn ngừa được
việc phục hưng chế độ quân chủ. Ông
Sieyès tuyên bố: "Tôi đang t́m kiếm một cây
gươm". Hội Đồng Chấp Chính đă
ra lệnh cho Napoléon trở về đất Pháp.
T́nh h́nh chính trị tại nước Pháp vào lúc này
rất thuận tiện cho Napoléon. Việc phục
hồi nhóm đảng viên Jacobin khiến cho các kẻ
ôn ḥa lo ngại sẽ xẩy ra một thời kỳ
khủng bố mới, họ trông đợi một chính
quyền mạnh, ngăn chặn được khuynh hướng
cấp tiến này. Cũng vào thời gian này, Hội
Đồng Chấp Chính đă thiết lập nên 4 nước
cộng ḥa vệ tinh là các xứ Batavian (Ḥa Lan),
Helvetian (Thụy Sĩ), Roman (La Mă) và Parthenopean (Naples).
Các nhà lănh đạo nước Áo, hay ḍng họ
Hapsburg, v́ thế rất lo ngại ảnh hưởng
của nước Pháp tại các miền đất Ư
thuộc nước Áo trước kia, và Sa Hoàng Paul I
(trị v́ 1796-1801) lo sợ Napoléon sẽ làm hư
hại các quyền lợi của nước Nga tại
vùng Địa Trung Hải. Đế Quốc Pháp
mới mẻ đă làm lệch đi sự thăng
bằng chính trị của châu Âu nên các nước
Anh, Áo và Nga đă lập nên liên minh quân sự thứ
hai và trong năm 1799, quân đội Nga dưới
quyền của Tướng Alexander Suvorov (1729-1800) đă
nhiều lần đánh bại quân đội Pháp và Tướng
Suvorov trở nên vị anh hùng của châu Âu. Vào tháng 8
năm 1799, quân Pháp bị đẩy ra khỏi lănh
thổ Ư và phần lớn các nước cộng ḥa
Pháp bị sụp đổ. Chính vào lúc này, lănh
thổ Pháp đang đứng trước nguy cơ
bị xâm lăng. Có nhiều âm mưu phản cách
mạng. Chế độ Cộng Ḥa đang cần
cấp cứu. Tháng 8 năm 1799, Napoléon Bonaparte lên
tầu, lẻn về Pháp, giao quyền chỉ huy đoàn
quân Ai Cập cho Tướng Jean Kleber.
5- Tổng Tài Thứ Nhất của nước Pháp.
Cùng với một số người thân tín, Napoléon
rời Ai Cập vào ngày 22-8-1799 bằng hai con tầu
nhỏ và rất may, họ về tới đất Pháp
an toàn, tránh được ṿng phong tỏa của
Hải Quân Anh. Napoléon tới Paris vào ngày 14 tháng 10 năm
đó. Tin tức về chiến thắng tại Abu Qir
đă khiến cho nhân dân Pháp hân hoan đón mừng
sự trở về của người anh hùng trẻ
tuổi Napoléon. Cũng vào lúc này, quân đội Pháp
đă thắng lớn tại Ḥa Lan và Thụy Sĩ, tránh
được cảnh nước Pháp bị xâm lăng
đồng thời các lực lượng phản cách
mạng trong nước cũng bị thất bại. Nước
Cộng Ḥa Pháp đă được cứu văn nhưng
ông Sieyès vẫn muốn tiếp tục kế hoạch
cũ: lưỡi gươm Napoléon đă tới
với ông.
|
Napoléon
trong cuộc đảo chánh tháng 10, 1799
|
Vào
cuối tháng 10 năm 1799, Sieyès và Napoléon đă
thực hiện một cuộc đảo chính vào hai ngày
18 và 19 tháng Brumaire, năm thứ 8 của Lịch Cách
Mạng, tức là ngày 9-10 tháng 11 năm 1799. Kết
quả của cuộc đảo chính này là các hội
đồng lập pháp bị giải tán, các đại
biểu đối lập bị loại bỏ, một
chính quyền mới được thành lập với
ba tổng tài (consul) là Napoléon, Sieyès và Pierre Robert Ducos.
Một Hiến Pháp mới đă được nhân dân
Pháp chấp thuận, theo đó Napoléon được
bầu làm "Tổng Tài Thứ Nhất" (first
consul) c̣n hai vị tổng tài kia chỉ làm cố
vấn cho Napoléon. Sau 10 năm cách mạng với các xáo
trộn phức tạp, nhân dân Pháp mong muốn có
một vị lănh đạo mạnh, nhờ vậy vào
lúc này, Napoléon có thể cai trị nước Pháp như
một nhà độc tài. Napoléon Bonaparte đă là
chủ nhân của cả nước Pháp.
Khi lên cầm quyền "Tổng Tài Thứ
Nhất", Napoléon mới 30 tuổi, là một con người
lùn và gầy, với mái tóc cắt sát nên được
gọi là "le petit tondu" (chàng thanh niên nhỏ người
có mái tóc cắt sát). Người dân Pháp vào thời
gian này không biết rơ về cá nhân của Napoléon,
họ đặt tin tưởng vào một nhân vật
luôn luôn chiến thắng v́ Napoléon là một chính
trị gia khôn khéo, đă che giấu hai lần thất
bại tại Ḍng Sông Nile và tại pháo đài Acre. Người
dân Pháp vẫn c̣n ghi nhớ Ḥa Ước Campo Formio,
mang lại danh dự về cho nước Pháp. Người
dân Pháp trông đợi Napoléon sẽ chấm dứt
hệ thống chính quyền tham nhũng và không ổn
định của Hội Đồng Chấp Chính,
củng cố các thành quả chính trị và xă hội
của Cách Mạng, cứu nguy và mang lại Ḥa B́nh cho
xứ sở.
Napoléon Bonaparte quả thực là một nhân vật thông
minh xuất chúng. Ông hiểu biết rất rơ về
lịch sử và luật pháp cũng như khoa học
quân sự. Ông làm việc không biết mệt,
quyết định rất nhanh chóng và có nhiều
tham vọng không giới hạn. Napoléon chính là con người
của Cách Mạng Pháp bởi v́ chính nhờ cuộc Cách
Mạng này mà ông sớm bước chân lên địa
vị cao sang và quyền lực bậc nhất của
quốc gia.
Napoléon Bonaparte lại là con người của thế
kỷ 19, người con đích thực của Voltaire,
là nhà chuyên chế được khai sáng nhất (the
most enlightened despot) của các nhà độc tài chuyên
chế: ông không tin tưởng vào chủ quyền
của nhân dân, vào các tranh đấu đại
nghị, vào các ư muốn của toàn dân. Napoléon đặt
tin tưởng vào lư luận (reasoning) hơn là lư trí
(reason), cho rằng các ư muốn dù được khai sáng
(enlightened) hay cương quyết tới đâu cũng
cần đến sự yểm trợ của lưỡi
lê (the support of bayonets). Napoléon đă coi thường dư
luận và tin rằng ông có thể hướng dẫn
hay bóp méo dư luận theo ư ḿnh. Napoléon Bonaparte
được người dân Pháp gọi là vị tướng
có tính "dân sự" nhất (the most
"civilian" of generals) nhưng măi măi ông vẫn là
một quân nhân.
|
Tổng Tài Thứ Nhất - Napoléon
|
Từ
khi lên làm Tổng Tài Thứ Nhất, Napoléon đă áp
đặt chế độ độc tài quân sự lên
toàn thể nước Pháp và thực chất của
đặc tính này nằm trong Hiến Pháp của năm
thứ 8 (4 Nivose, 25-12-1799) do Sieyès thảo ra. Hiến Pháp
này không đề cập ǵ tới các nguyên tắc
"tự do, b́nh đẳng và huynh đệ"
của cuộc Cách Mạng Pháp, không bảo đảm
"dân quyền" (the rights of man) mà lại ban cho
vị Tổng Tài Thứ Nhất các quyền lực vô
hạn. Napoléon Bonaparte với danh nghĩa Tổng Tài này,
có thể chỉ định các bộ trưởng,
quan ṭa, tướng tá, nhân viên Hội Đồng
Quốc Gia, công chức, và cả các nhân viên của
hội đồng lập pháp mà theo lư thuyết,
những vị này phải được bầu lên do
phổ thông đầu phiếu. Sau một cuộc trưng
cầu dân ư vào tháng 2 năm 1800, Hiến Pháp năm
thứ 8 đă được chấp thuận.
Các chương tŕnh cải tổ của Napoléon
bắt đầu. Đứng đầu chính quyền
là Hội Đồng Quốc Gia (the Council of State),
gồm các chuyên viên tạo nên một Nội Các trung
ương, chủ tọa do Napoléon và chỉ chịu trách
nhiệm trước Napoléon. Các xáo trộn về
quản trị hành chánh trong thời kỳ Cách Mạng
đă được sửa đổi. Một nhóm các
bộ sở được thành lập để thi hành
việc kiểm soát từ trung ương, chẳng
hạn như Bộ Tài Chính lo về thuế vụ,
Bộ Nội Vụ lo an ninh trong xứ. Lănh thổ
được chia thành nhiều tỉnh (departements),
tổng (cantons), làng (communes), nhưng các nhân viên hành chánh
đều do trung ương bổ nhiệm và chịu
trách nhiệm trước chính quyền Paris. Việc
tập trung về trung ương của nền tài chính
cũng được thực hiện do việc
thiết lập ra Ngân Hàng Pháp Quốc (the Bank of France)
trong đó 200 cổ đông chính, tạo nên Hội
Đồng Quản Trị, là các nhà trí thức tư
sản của thành phố Paris. Hệ thống huân chương
được quy định với Bắc Đẩu
Bội Tinh (the Legion of Honor) là bậc cao cấp nhất.
Ngành Tư Pháp cũng bị thay đổi đáng
kể do việc phổ biến Đạo Luật Napoléon
(the Code Napoléon), làm tiêu hủy các luật lệ khác
nhau thuộc các tỉnh khác nhau của nước Pháp,
tạo nên một hệ thống luật pháp thống
nhất, không đặt căn cứ trên các điều
lệ đă có từ trước mà trên lư trí (reason).
Đạo luật này công nhận mọi người b́nh
đẳng trước Pháp Luật bất kể
cấp bậc hay tài sản, nhưng đă đặt
quyền lợi của Quốc Gia lên trên quyền
lợi của Cá Nhân. Bộ Luật Napoléon đă là
một kiểu mẫu cho các nhà cải tổ Luật
Pháp trên toàn thế giới. Các quan ṭa từ nay không c̣n
được bầu lên từ các địa phương
như trong thời kỳ Cách Mạng, mà được
bổ nhiệm từ trung ương. Tổ chức
cảnh sát cũng được tăng cường.
Nền Giáo Dục được cải tiến thành
một dịch vụ công cộng chính yếu, giáo
dục trung học mang tính cách bán quân sự, các Đại
Học có ban giảng huấn được tổ
chức lại. Napoléon cũng lập ra Đại
Học Pháp Quốc (the University of France) nhưng ngành giáo
dục tiểu học c̣n bị thiếu sót.
Napoléon cũng đồng ư với quan điểm
của Voltaire theo đó người dân cần tới
một tôn giáo, dù cho cá nhân của ông không quan tâm
đến niềm tin tôn giáo. Giáo Hoàng Pius VII vào tháng
3 năm 1800, đă kư kết với Napoléon một
bản điều ước (concordat) công nhận
Nền Cộng Ḥa Pháp, chấp nhận quốc gia có
quyền bổ nhiệm giới tu sĩ (the clergy).
Tổ chức quân đội được Tổng Tài
Napoléon chú ư tới nhiều nhất: chế độ
quân dịch cưỡng bách được thi hành nhưng
trong đó cũng chấp nhận sự thay thế trong
việc ṭng quân, các lính quân dịch mới được
pha trộn với các binh lính thiện chiến cũ và
mọi người lính đều có cơ hội
được thăng chức lên các cấp bậc cao
nhất. Hàn Lâm Viện Quân Sự Saint Cyr được
thành lập, mở cửa đón nhận các thanh niên
thuộc các gia đ́nh tư sản theo đuổi binh
nghiệp. Ngoài ra, Trường Đại Học Bách
Khoa lập nên do Hội Nghị Quốc Ước trước
kia, nay được quân sự hóa để đào
tạo ra các sĩ quan Pháo Binh và Công Binh.
Như vậy, Napoléon Bonaparte đă kết hợp toàn
thể nước Pháp vào cách kiểm soát của chính
quyền trung ương và đây là một di sản lâu
dài nhất. Napoléon đă tự cho ḿnh là người
thừa kế và bảo vệ công cuộc Cách Mạng
Pháp. Đối với giai cấp trung lưu, ông đă
làm ổn định nền tài chính, tổ chức
lại nền hành chính và xă hội cho có trật
tự, lập ra các chương tŕnh xây dựng
đường lộ và sông đào. Lợi tức
quốc gia được phục hồi bằng các
thứ thuế trực thu và gián thu và nhờ vậy,
đồng "franc" có giá trị ổn định.
Đối với nông dân, đất đai của
họ được bảo đảm, các loại
thuế phong kiến mà người dân phải đóng
nạp đă bị Luật Pháp mới chấm dứt.
Giới lao động cũng có công việc làm ăn
do các nhu cầu của quân đội và của một
xă hội đang cải tiến. Napoléon cũng bảo
đảm cho mọi người dân quyền b́nh đẳng
trước Pháp Luật, b́nh đẳng về các cơ
hội thăng tiến, các h́nh phạt tàn ác bị tiêu
hủy và nền giáo dục được mở ra cho
những người thông minh, hiếu học. Và trước
mọi người dân trong nước, Napoléon Bonaparte
đă hứa hẹn không chỉ nền an ninh quốc
gia mà c̣n có phương cách bành trướng lănh
thổ và sự vinh quang quân sự.
Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon Bonaparte đă không
vừa ḷng với việc cai trị lănh thổ nước
Pháp mà c̣n muốn bành trướng ảnh hưởng
Pháp ra khắp các xứ Tây Phương khác. Mùa đông
năm 1799 và mùa xuân năm 1800, Napoléon lo luyện
tập quân đội để chuẩn bị tấn
công nước Áo v́ vào thời gian này, nước Nga
đă rút lui khỏi liên minh chống Pháp. Napoléon
nhận thấy ngay địa điểm chiến lược
là liên bang Thụy Sĩ v́ từ nơi này, ông có
thể đánh vào sườn các đoàn quân Áo đóng
tại nước Đức hay nước Ư. Kinh
nghiệm trước kia đă khiến ông chọn nước
Ư. Napoléon đưa quân qua đường đèo St.
Bernard trước khi tuyết tan, bao vây quân đội
Áo tại Genoa. Trận đánh Marengo của Napoléon
đă khiến quân Pháp kiểm soát được thung
lũng sông Po, tới tận Adige rồi vào tháng 12-1800,
một đoàn quân Pháp khác cũng đă đánh
bại quân đội Áo tại nước Đức.
Nước Áo bị bắt buộc phải kư Ḥa Ước
Luneville vào tháng 2 năm 1801, công nhận nước Pháp
có quyền chiếm đóng các miền sông Rhine, dăy núi
Alps và dăy núi Pyrenées.
Tới lúc này, chỉ c̣n nước Anh là quốc gia
duy nhất chống lại Napoléon. Các thương
thảo ḥa b́nh giữa Anh và Pháp được
bắt đầu tại London vào tháng 10-1801 rồi
Hiệp Ước Ḥa B́nh được kư kết
tại Amiens vào ngày 27-3-1802. Châu Âu từ nay có ḥa b́nh
được văn hồi. Uy tín của Tổng Tài
Thứ Nhất Napoléon Bonaparte tăng lên rất cao.
Vào năm 1802, Napoléon khuyên các nhà lập pháp rằng
để có đủ yếu tố ổn định,
giới hạn 10 năm của Tổng Tài Thứ
Nhất nên được loại bỏ, và vào tháng
5-1802, đă có quyết định để dân chúng
Pháp tham dự một cuộc trưng cầu dân ư theo
đó "Napoléon Bonaparte có nên làm Tổng Tài suốt
đời hay không?". Vào tháng 8 năm đó, nhân dân
Pháp đă chấp thuận Napoléon làm Tổng Tài
"suốt đời", với quyền chỉ
định người kế nghiệp và tùy ư tu chính
Hiến Pháp.
Vào đầu thế kỷ 19, nước Anh muốn
lật đổ Napoléon nên đă trợ giúp cho các người
Pháp bảo hoàng để họ tiếp tục
thực hiện các rối loạn và âm mưu. Khi
một cuộc âm mưu do người Anh trợ giúp
bị khám phá vào năm 1804, Napoléon cho rằng cần
phải phản ứng thật mạnh để làm cho
các kẻ chống đối phải khiếp sợ.
Trong cuộc âm mưu kể trên, cảnh sát Pháp đă
tin rằng người đứng đầu là hầu
tước trẻ tuổi d' Enghien, một biểu tượng
của ḍng họ Bourbon và ông này đang sinh sống cách
biên giới Đức vài dậm đường.
Rồi do sự chấp thuận của Talleyrand và
của Cảnh Sát Trưởng Joseph Fouché, vị
hầu tước trẻ bị bắt cóc trên miền
đất trung lập, bị đưa về Vincennes,
bị xét xử và bị bắn chết. Hành động
này đă làm tăng uy tín của ông Fouché nhưng cũng
khiến cho giới quư tộc cũ thêm bất măn và
chống đối.
Cũng v́ muốn củng cố địa vị,
Cảnh Sát Trưởng Fouché đă khuyên Napoléon
rằng để tránh các âm mưu lật đổ, nên
đổi chế độ "Tổng Tài suốt
đời" thành thể chế "đế
quốc" (empire) có thừa kế và như thế, các
kẻ chống đối không c̣n hy vọng thay đổi
chế độ bằng phương cách ám sát. Vào ngày
28 tháng 5 năm 1804, Đế Chế được công
bố thành h́nh mặc dù không có thay đổi
nhiều trong cách tổ chức chính quyền của nước
Pháp, ngoài một số cơ chế tương tự
như đế chế cũ. Đầu tiên, Napoléon
muốn được phong chức bởi Giáo Hoàng
nhờ đó, việc đăng quang sẽ gây ra
nhiều ấn tượng tốt đẹp đối
với dân chúng Pháp và các quốc gia khác, và đặc
biệt mang tính cách chính thức hơn cả các nhà
vua Pháp. Giáo Hoàng Pius VII cũng đồng ư tới
Paris và trong buổi lễ đăng quang rực rỡ
tổ chức vào ngày 2 tháng 12 năm 1804 tại Giáo
Đường Notre Dame, Paris, Hoàng Đế Napoléon
Bonaparte đă nhận vương miện từ tay Giáo
Hoàng và theo gương của Charlemagne, Napoléon đă
tự đặt vương miện đó lên đầu
ḿnh.
Từ nay, là "Hoàng Đế của nước Pháp",
Napoléon Bonaparte có quyền truyền lại ngai vàng cho các
con cháu. Các người trong gia đ́nh Bonaparte đă
mang các danh xưng quư tộc. Việc phục hồi
chế độ quân chủ chuyên chế là một
điều lăng nhục đối với các người
bảo hoàng và đối với các cựu chiến sĩ
của Cuộc Cách Mạng Pháp. Để dẹp tan các
phản kháng, Napoléon đă tăng cường công
việc tuyên truyền, báo chí bị kiểm duyệt
gắt gao. Chế độ độc tài quân chủ này
đă cho phép Napoléon thực hiện các cuộc
chiến tranh trong nhiều năm mà không cần quan tâm
tới dư luận quần chúng Pháp. Tại phần
đất Ư Đại Lợi, Napoléon Bonaparte đă lănh
đạo nước Cộng Ḥa Cisalpine từ khi nước
này được thành lập, v́ thế vào tháng 3 năm
1805, Napoléon Bonaparte được công bố trở thành
Vua của nước Ư và đă lên ngai vàng vào tháng 5
năm đó tại Milan.
Napoléon Bonaparte là một nhà chính trị khôn khéo.
Mỗi lần muốn thay đổi Hiến Pháp theo
chiều hướng thiếu dân chủ, ông đều
dùng tới phương pháp trưng cầu dân ư và
kết quả thu được rất có lợi cho
Napoléon: cuộc bỏ phiếu năm 1799-1800 chấp
thuận Napoléon và Hiến Pháp của Năm Thứ 8 có
3,011,107 phiếu thuận đối với 1,562 phiếu
chống; rồi vào năm 1803, 3,568,885 phiếu
thuận, đồng ư để Napoléon làm Tổng Tài
suốt đời so với 8,357 phiếu chống; c̣n
cuộc bỏ phiếu đồng ư Đế Chế
đă mang lại kết quả là 3,572,329 phiếu
thuận, trong khi phiếu chống là 2,579. Chắc
chắn là các cử tri Pháp vào thời kỳ đó
đă bị các áp lực chính trị và các kết
quả công bố có phần bị sửa đổi,
nhưng không c̣n nghi ngờ ǵ khi đại đa
số dân chúng Pháp đă ủng hộ Napoléon.
Các vinh quang quân sự do Napoléon mang lại đă
hấp dẫn những người có tinh thần
quốc gia đang lên, và các chính sách ổn định
kinh tế quốc nội đă khiến cho mọi người
dân không c̣n muốn các biến động cách mạng
hay các thay đổi chính quyền, bởi v́ Napoléon
đă làm thay đổi một số chính sách cách
mạng cũ và thêm vào các cải tổ theo những
nhận xét của các nhà tư tưởng mới.
Nhờ các cải tiến chính sách, niềm tin của dân
chúng Pháp đă tăng lên từ dưới, và
quyền lực đă phát triển từ trên.
Từ nay tại nước Pháp, mọi người
với quá tŕnh chính trị khác nhau đều
được đặt vào nền hành chính đế
chế có tính trung ương tập quyền, giống
như dưới triều đại của Vua Louis 14. Napoléon là một nhà chuyên chế khai sáng
(enlightened despot). Napoléon chỉ quan tâm đến khả
năng của những kẻ dưới quyền, dù
cho trước kia họ là cựu đảng viên
Jacobin hay là các người di cư. Đế chế này
đă đặt căn bản trên một nền móng
chính trị rộng răi. Napoléon đă tưởng thưởng
trọng hậu các kẻ có công, kể cả bằng
các tước hiệu cao cấp. Do việc tái lập
đế chế, đă có hàng chục hầu tước,
hàng trăm bá tước và công tước.
Napoléon đă phong cho các tướng lănh và sĩ quan
xuất sắc cấp bậc "Thống Chế"
(marshal) và tưởng thưởng Bắc Đẩu
Bội Tinh (Legion of Honor) và với huy chương này,
họ được tiền trợ cấp hàng năm.
Napoléon đă nhận xét rằng "chế độ
quư tộc luôn luôn tồn tại" (aristocracy always
exists), và khi bị phá bỏ th́ chế độ đó
đă chuyển về các gia đ́nh trung lưu giàu sang
và có thế lực. Như vậy, những người
đứng đầu giai cấp trung lưu Pháp của
thời đại đó đă dần dần trở nên
các nhà quư tộc hoàng gia.
6- Napoléon và các trận chiến 1800-1807.
Đối với nhiều người Pháp, Napoléon
Bonaparte là con người của Định Mệnh (the
Man of Destiny), là nhà cai trị xuất sắc nhất
trong lịch sử của nước Pháp. Nhưng đối
với các người khác của châu Âu, Napoléon
lại là kẻ thù của các nền độc
lập quốc gia. Các chinh phục quân sự của
Napoléon đă khiến cho nhiều miền đất
tự do khác phải quy phục nước Pháp, v́
thế Napoléon bị gọi là "con người
ảm đạm trên lưng ngựa" (the Sinister Man
on Horseback), một kẻ độc tài đế
quốc với tham vọng không bao giờ thỏa măn. Các
oán hận của các quốc gia và của người
dân châu Âu khác đă dần dần làm lung lay đế
quốc của Napoléon Bonaparte.
Vào năm 1800, Sa Hoàng Paul của nước Nga đă
thiết lập nên Liên Minh Baltic của các quốc gia
trung lập (the Baltic League of Armed Neutrality) kết hợp
các nước Phổ, Đan Mạch, Thụy Điển
và Nga, để chống lại nước Anh. Sa Hoàng
Paul c̣n muốn hợp tác với nước Pháp để
đẩy người Anh ra khỏi vùng đất
Ấn Độ. Nhưng kế hoạch kể trên
đă bị sụp đổ khi Sa Hoàng Paul bị ám sát,
kế nghiệp là Sa Hoàng Alexander I. Cũng vào mùa xuân năm
1800 này, Napoléon Bonaparte đă đưa quân vượt
qua dăy núi Alps, đánh bại quân đội Áo trên
miền đất Ư và qua Hiệp Ước Luneville
(1801), nước Áo phải công nhận nước Ư
thuộc quyền của người Pháp và để
Napoléon vẽ lại bản đồ của nước
Đức.
Sau Hiệp Ước Luneville, chỉ c̣n nước Anh
đối đầu với nước Pháp. Nước
Anh đă chiếm được các thuộc địa
của Ḥa Lan và Tây Ban Nha và hạm đội Anh
của Đô Đốc Nelson đă đẩy
được người Pháp ra khỏi xứ Ai
Cập. Năm 1802, Ḥa Ước Ḥa B́nh Amiens được
kư kết, đă chỉ mang lại sự tạm
thời đ́nh chiến trong một năm v́ sau đó,
Napoléon đang mưu toan thành lập một đế
quốc thuộc địa tại ḥn đảo Haiti và
vùng đất Louisiana thuộc Bắc Mỹ mà nước
Tây Ban Nha đă nhường lại cho nước Pháp
vào năm 1800.
|
Vùng
Louisiana rộng 827,987 dặm vuông (square miles)
|
Tại
xứ Haiti, đa số người da đen địa
phương đă vui mừng khi Hội Nghị Quốc
Ước hủy bỏ chế độ nô lệ, nhưng
khi các Tổng Tài đặt lại chế độ
bất công kể trên tại xứ Haiti th́ Francois
Toussaint L' Ouverture (c. 1744-1803) và Jean Jacques Dessalines (c.
1758-1806) đă cầm đầu các cuộc nổi
dậy chống lại người Pháp. Thêm vào đó,
bệnh sốt vàng da đă gây tổn thất lớn
lao cho quân đội viễn chinh Pháp, khiến cho Napoléon
phải bỏ dở kế hoạch chinh phục Mỹ
Châu. Năm 1803, Napoléon đă bán miền đất
Louisiana cho Hoa Kỳ với giá 80 triệu quan tiền.
Từ năm 1803 tới năm 1805, chỉ c̣n nước
Anh là miền đất Napoléon Bonaparte phải chinh
phục và muốn vậy, người Pháp phải
đổ bộ lên đất Anh và ngược
lại, người Anh muốn đánh bại Napoléon th́
phải lập nên một liên minh trên lục địa
châu Âu. Vào thời gian này, Napoléon bắt đầu
chuẩn bị công cuộc xâm lăng nước Anh trên
một quy mô rộng lớn. Gần 2,000 tầu
chiến Pháp được thu về các hải
cảng nằm giữa quân cảng Brest và thành phố
Antwerp trong khi đó, Đại Quân Pháp tập trung
tại Boulogne. Nhưng khó khăn vẫn là làm sao vượt
qua được eo biển Channel và muốn vậy, người
Pháp phải làm chủ được mặt biển.
Do Hải Quân Pháp c̣n thua kém Hải Quân Anh, hạm
đội Pháp cần tới sự giúp đỡ
của Hải Quân Tây Ban Nha nhưng dù vậy, hai
hạm đội này cũng chỉ có thể đánh
bại một hạm đội Anh. Vào tháng 12 năm
1804, đă có quyết định theo đó các hạm
đội Pháp và Tây Ban Nha sẽ tập trung tại
quần đảo Antilles để nhử cho hạm
đội Anh tới đó mà tiêu diệt rồi
về sau, trận đánh trên biển Channel mới có
hy vọng chiến thắng. Theo kế hoạch, hạm
đội Pháp do Đô Đốc Pierre de Villeneuve
từ Địa Trung Hải đă tới quần đảo
Antilles nhưng không thấy hạm đội Tây Ban Nha,
rồi hạm đội Pháp bị hạm đội
của Đô Đốc Nelson săn đuổi. Đô
Đốc De Villeneuve phải cho đoàn tầu chạy
về châu Âu, trú ẩn tại hải cảng Cadiz
thuộc nước Tây Ban Nha vào tháng 7-1805 rồi
tại đó, bị hạm đội Anh bao vây. Bị
Napoléon cho là hèn nhát, De Villeneuve đành phải phá ṿng
vây và dù với sự trợ giúp của một
hạm đội Tây Ban Nha, hạm đội Pháp đă
bị Hải Quân Anh tấn công bên ngoài hải
cảng Trafalgar vào ngày 21-10-1805. Mặc dù Đô Đốc
Nelson bị tử thương trong trận hải
chiến này nhưng hai hạm đội Pháp và Tây Ban
Nha đă bị hoàn toàn phá hủy. Chiến thắng
của Hải Quân Anh có tính quyết định, đă
chấm dứt mọi hy vọng xâm lăng các hải
đảo Anh Cát Lợi của Napoléon và cho phép người
Anh làm chủ được mặt biển.
Trước khi trận Trafalgar xẩy ra, ba nước
Anh, Áo và Nga đă lập nên Liên Minh thứ ba chống
lại nước Pháp, do sự vận động
của Thủ Tướng William Pitt trong khi đó, Napoléon
muốn vẽ lại bản đồ của nước
Đức bằng cách dẹp bỏ hàng trăm thành
phố và các vương quốc nhỏ để
tạo ra các xứ miền nam, đặt dưới
quyền cai trị của nước Pháp.
Ngày 24-7-1805, Napoléon Bonaparte đă ra lệnh chuyển
Đại Quân từ Boulogne qua miền sông Danube và trong
trận đánh tại Ulm vào tháng 10 năm đó, Napoléon
đă bắt được 30,000 tù binh người Áo.
Hầu Tước người Áo Ferdinand chạy thoát
với một toán kỵ binh nhỏ. Ngày 13-11, Napoléon
tiến vào Vienna. Ngày 02 tháng 12 năm 1805, Napoléon
Bonaparte đă kín đáo và với tốc độ
chuyển quân thần tốc, đem lực lượng
tăng cường đánh bất ngờ vào đạo
quân liên hợp Áo-Nga tại làng Austerlitz, gây nên
thiệt hại cho địch quân là 27,000 người,
so với 9,000 người tổn thất của Pháp.
Sau trận đánh lừng danh này, trên lục địa
châu Âu đă lan truyền lời nói của Napoléon:
"Ta đă đánh bại hai đạo quân Nga và Áo
do hai Hoàng Đế chỉ huy".
Trong ṿng một tháng, Napoléon Bonaparte đă ép buộc Hoàng
Đế Hapsburg là Francis I phải kư Ḥa Ước
Pressburg theo đó nước Áo chấp nhận mất
hết ảnh hưởng tại nước Ư và nhường
hai miền Venetia và Dalmatia cho Napoléon, cũng như
bằng ḷng để người Pháp cai quản các
xứ Bavaria, Wurttemberg và Baden. Sau đó, ngai vàng của
ḍng họ Bourbons tại vương quốc Naples đă
được dành cho người anh của Napoléon là
Joseph. Vào tháng 7 năm 1806, Liên Bang Sông Rhine được
thành lập, bao gồm tất cả miền tây nước
Đức và được đặt dưới
quyền bảo hộ của người Pháp.
|
Marie Walewska
|
Tháng
9 năm 1806, nước Phổ gây chiến với nước
Pháp và vào ngày 14 tháng 10 năm đó, các đạo quân
Phổ đă bị Napoléon đánh bại tại Jena và
Auerstadt. Năm 1807, khi tiến quân vào thành phố Warsaw,
Napoléon đă gặp bà Bá Tước Marie Walewska,
một người Ba Lan yêu nước, muốn kết
hôn với Napoléon để nhờ đó quốc gia Ba
Lan được tái lập. Napoléon đă có với bà
Walewska một đứa con.
Như vậy trên lục địa châu Âu chỉ c̣n
một quốc gia chống đối Napoléon là nước
Nga. Tại Eylau, quân đội Nga đă cầm cự
được với đạo quân của Napoléon vào
tháng 2-1807 nhưng rồi vào tháng 6 năm đó, đă
phải bỏ chạy trước quân đội Pháp
sau trận đánh Friedland.
Sau các lần liên minh quân sự với nước Anh,
Sa Hoàng Alexander I của nước Nga đă cảm
thấy mệt mỏi và chán nản, nên đă hẹn
gặp Napoléon trên một cái bè thả nổi trên ḍng
sông Niemen tại Tilsit, một nơi biên giới
giữa hai xứ Nga và Đông Phổ. Hai hoàng đế
Pháp và Nga đă kư một thỏa ước chia đôi
châu Âu và tạo nên lănh địa hầu tước
Warsaw (Grand Duchy of Warsaw) từ các tỉnh Ba Lan được
tách ra khỏi nước Phổ và lănh địa này
được Napoléon giao cho một nước đồng
minh của Pháp cai quản, đó là Vua xứ Saxony. Lănh
thổ của nước Phổ nằm ở phía tây ḍng
sông Elbe thuộc quyền Napoléon và Napoléon có quyền
đóng quân trên đất Phổ cũng như
giới hạn quân số của nước này là
42,000 người.
Napoléon Bonaparte đă đoạt được hàng
loạt chiến thắng quân sự nhờ thiên tài
cầm quân của ông, nhờ các tướng lănh tài
giỏi và tinh thần chiến đấu anh dũng
của quân sĩ dưới quyền, và cũng nhờ
các lỗi lầm, sơ sót của địch quân.
Từ nay, quân đội Pháp là lực lượng
đáng sợ nhất và tiến bộ nhất của
châu Âu. Đạo quân này có những lính mới do
chế độ quân dịch, với quân số mới
vào khoảng 85,000 người mỗi năm và các tân
binh được bổ sung vào các đoàn quân tinh
nhuệ cũ để đáp ứng nhu cầu
chiến trường. Các sĩ quan Pháp dưới
thời Napoléon được thăng cấp trên căn
bản khả năng hơn là thâm niên hay thế
lực, và các cấp chỉ huy này quan tâm tới tinh
thần chiến đấu của binh sĩ hơn là lo
áp dụng kỷ luật nghiêm ngặt. Về phần
quyết định trận đánh, Napoléon Bonaparte
chỉ ra lệnh tấn công khi lực lượng Pháp
mạnh hơn hoặc bằng với lực lượng
địch, và vào thời điểm tấn công th́ dùng
yếu tố bất ngờ như vũ băo, như trong
trận Austerlitz.
Vào đầu thế kỷ 19, quân đội Pháp có
vẻ như vô địch nhưng thật ra, vẫn có
các khuyết điểm. Dịch vụ y tế tại
mặt trận rất yếu kém khiến cho nhiều người
lính bị chết v́ bệnh dịch, v́ các vết thương
không được chăm sóc cẩn thận. Lương
bổng trả cho người lính c̣n thấp và không
đều đặn, việc tiếp liệu thất
thường, người và ngựa phải sống
nhờ trên các miền đất bị chiếm đóng
để tiết kiệm các chi phí và không lệ
thuộc nhiều vào các đoàn xe tiếp tế.
|
Đế quốc Pháp
Pháp - Thuộc địa - Đồng
minh
|
Từ
nay, toàn thể châu Âu được coi như chia ra làm
ba phần: thứ nhất là Đế Quốc Pháp, bao
gồm nước Pháp và các miền đất sát
nhập kể từ năm 1789, thứ hai là các xứ
vệ tinh của Pháp, cai trị bởi những người
họ hàng của Napoléon, và các quốc gia bị
bắt buộc theo Pháp do thua trận, gồm các nước
Áo, Phổ và Nga, và thứ ba là ba nước Anh,
Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ, nằm
bên ngoài hệ thống cai trị của Napoléon. Vào năm
1810, Bá Tước Bernadotte là một thống chế
của Napoléon, đă được người dân
Thụy Điển mời làm vua của xứ họ,
thay thế cho vị vua không có con nối dơi ngai vàng. Và
về sau, chính Tướng Bernadotte đă chủ trương
các chính sách của Thụy Điển chống lại
Napoléon.
Tại miền trung của châu Âu, Napoléon đă ban ra các
đạo luật giải tán một số xứ chư
hầu Đức, rồi tới năm 1806, Đế
Quốc Thần Thánh La Mă (the Holy Roman Empire) bị
giải thể. Vị hoàng đế cuối cùng
của Đế Quốc Thần Thánh La Mă là Francis I,
thuộc ḍng họ Hapsburg, nay trở thành hoàng đế
của nước Áo. Napoléon đă tạo ra Liên Bang Sông
Rhine (the Confederation of the Rhine) bao gồm các miền đất
bên ngoài nước Phổ và nước Áo.
|
Marie-Louise
|
Đế
quốc Pháp của Napoléon Bonaparte đă mỗi năm
một mở rộng và Napoléon đă không do dự khi
chỉ định các người trong ḍng họ lên
ngai vàng tại các xứ sở rải rác của châu
Âu. Năm 1806, người em trai Louis Napoléon lên làm Vua
xứ Ḥa Lan. Anh Joseph Napoléon, sau hai năm làm Vua vương
quốc Naples, nay được chỉ định làm
Vua xứ Tây Ban Nha từ năm 1808. Người em Jerome
làm Vua xứ Westphalie mới được thành lập
năm 1807, c̣n các người em khác cũng không bị
bỏ quên. Em gái Caroline, người kết hôn với
Thống Chế Joachim Murat, đă thay thế anh Joseph, lên
ngai vàng tại Naples vào năm 1808, c̣n một người
em gái khác là Elisa, có chồng là ông hoàng Lucca, được
phong Nữ Bá Tước (grand duchess) miền Tuscany năm
1809. Ngoài ra, người con riêng của bà Beauharnais là
Eugène de Beauharnais được giữ chức Phó Vương
của vương quốc Ư Đại Lợi.
Napoléon Bonaparte cũng nghĩ tới người con
nối dơi. Bà Josephine bị ly dị sau cuộc hôn nhân
15 năm không con và vào năm 1810, Napoléon đă kết
hôn với công chúa Marie-Louise, con gái của Vua Francis I,
thuộc ḍng họ Hapsburg. Bà Marie-Louise này đă có
với Napoléon một đứa con trai, được
gọi là "Vua La Mă" (the king of Rome) nhưng về
sau, đứa bé này đă không hề làm vua xứ
sở nào cả.
7- Đế Quốc Pháp sụp đổ.
Chủ nghĩa đế quốc của Napoléon đă
thể hiện rơ ràng qua "Hệ Thống Lục
Địa" (the Continental System). Đây là chương
tŕnh muốn điều hành nền kinh tế của toàn
thể châu Âu bằng các mục tiêu chính trị, kinh
tế và quân sự, và qua một chính sách làm sao xây
dựng nền xuất cảng của nước Pháp và
làm tê liệt nền kinh tế của nước Anh. Dưới
ảnh hưởng của Pháp là các nước Đan
Mạch, Na Uy, Phổ và đế quốc Áo. 42
triệu người dân đă nằm dưới
quyền hành của Napoléon Bonaparte. Bên ngoài ảnh hưởng
của Hoàng Đế Napoléon là các nước Anh, Nga,
Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ. Để
triệt tiêu nước Anh, Napoléon đă kư đạo
luật Berlin năm 1806, cấm đoán mọi mậu
dịch với các hải đảo Anh và hạ
lệnh bắt giữ mọi tầu biển Anh cũng
như tịch thu các tài sản, hàng hóa của người
Anh. Nước Anh đă phản ứng lại bằng
cách bắt buộc các tầu biển trung lập
phải trả thuế tại các hải cảng Anh trước
khi chở hàng qua nước Pháp.
Vào tháng 12 năm 1807, đạo luật Milan của
Napoléon lại ra lệnh bắt giữ mọi tầu
thuyền trung lập tuân theo chính sách của nước
Anh và như vậy, các nước trung lập bị
đẩy vào thế kẹt ở giữa. Kết
quả của hai đạo luật kể trên của
Napoléon đă tạo nên một loại phong tỏa
lục địa châu Âu. Chính sách "nước Pháp
là ưu tiên một" (France first) đă gặp
thất bại nặng nề. Chỉ một số
kỹ nghệ của nước Pháp hưởng
lợi qua "Hệ Thống Lục Địa", như
việc cấm nhập cảng đường ăn
từ các quần đảo Tây Ấn, đă làm phát
triển củ cải đường (sugar beet). Ngược
lại, nền ngoại thương của nước
Pháp với các quốc gia bên ngoài bị suy sụp. Thành
phố Bordeaux và các hải cảng nằm trên Địa
Trung Hải trở nên tiêu điều, các nguyên
liệu bị khan hiếm chẳng hạn như bông g̣n.
Nạn thất nghiệp, phá sản và buôn lậu gia tăng,
nhất là tại xứ Ḥa Lan, giá trị xuất
cảng ra các thị trường hải ngoại
của nước Pháp bị giảm đi hơn
một phần ba giữa các năm 1805 và 1813.
Mặt khác, Hệ Thống Lục Địa đă không
làm sụp đổ nước Anh dù cho người dân
Anh đă phải chịu đựng nhiều thiếu
thốn: thực phẩm nhập cảng giảm,
vật giá gia tăng, tiền tệ cung cấp không
đủ cho sức cầu… Nhưng nước Anh
đă vượt qua được các khó khăn
nhờ các cải cách kinh tế, nhờ sự vượt
trội về Hải Quân và Hàng Hải Thương
Thuyền, nhờ các thị trường mới, phong phú
hơn được mở ra tại châu Mỹ,
tại đế quốc Ottoman và tại châu Á, và cũng
nhờ ngành buôn lậu vào lục địa châu Âu. Nước
Pháp của Napoléon vào thời kỳ này đă thiếu
đi một lực lượng hải quân đủ
mạnh để bắt giữ các kẻ buôn lậu,
thiếu thốn các đội ngũ nhân viên quan
thuế trong sạch điều hành các hải cảng
và trong khi đó, quân đội Pháp lại rất
cần một số mặt hàng sản xuất từ các
cơ xưởng của nước Anh, chẳng
hạn các quân trang bằng da và bằng vải.
Hệ Thống Lục Địa của Napoléon đă
tạo ra các hậu quả xấu về chính trị,
kinh tế và quân sự khi vào năm 1807, Hoàng Đế
Napoléon áp đặt các chính sách của ḿnh lên nước
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Sau thời Cách Mạng Pháp,
các tư tưởng dân chủ của người Pháp,
các tinh thần quốc gia của các xứ tại châu
Âu đă khiến cho người dân châu Âu dần
dần nổi lên chống lại sự đô hộ
của Napoléon.
Vào năm 1808, Napoléon đă lật đổ ḍng
họ Bourbons của Tây Ban Nha và thay vào bằng người
anh Joseph làm vua xứ này. Việc áp đặt chế
độ quân chủ xa lạ và Hệ Thống Lục
Địa lên nước Tây Ban Nha, việc hủy
bỏ các đặc quyền của giới quư tộc
và tu sĩ địa phương… đă là các vi
phạm vào các phong tục, tập quán và niềm hănh
diện của người dân Tây Ban Nha, v́ vậy
một cuộc nổi loạn đă xẩy ra vào ngày
2-5-1808 tại Madrid.
Cuộc nổi dậy Madrid của người dân Tây
Ban Nha đă bị dập tắt một cách tàn
nhẫn nhưng từ nay cũng bắt đầu
cuộc Chiến Tranh Bán Đảo (the Peninsular War),
gọi tên theo bán đảo Iberian. Các quân du kích Tây
Ban Nha đă phục kích quân đội Pháp, dùng
thuốc độc bỏ vô các giếng nước…
cũng như các cách đánh lén khác. Quân du kích Tây Ban
Nha c̣n được trợ giúp bởi quân đội
Anh, lănh đạo do Sir Arthur Wellesley (1769-1852), người
mà sau này là Hầu Tước Wellington. Napoléon đă
đổ hơn 300,000 quân vào chiến dịch Tây Ban
Nha nhưng tới năm 1812, khi quân Pháp xâm lăng nước
Nga th́ lực lượng du kích Tây Ban Nha đă
chiếm ưu thế. Năm 1813, Vua Joseph Napoléon
phải rút lui vĩnh viễn khỏi Madrid và Hầu Tước
Wellington đă giải phóng được nước Tây
Ban Nha rồi đưa quân tiến sang miền nam nước
Pháp.
Tại phía đông của nước Pháp, tinh thần
quốc gia của người dân nước Phổ
đă phát triển. Hai anh em Jacob (1785-1863) và Wilhelm Grimm
(1786-1859) đă viết ra các chuyện thần tiên (fairy
tales) trong khoảng các năm 1812-15, chứng tỏ
được tính ưu việt của ngôn ngữ
Đức, đồng thời nhà triết học J.G.
Fichte (1762-1814) cùng các nhà tiên tri về Quốc Gia Đức,
đă bắt đầu đặt nền móng cho các lư
thuyết về Quốc Gia Đức Mới. Trong "Các
bài nói với Dân Tộc Đức" (Addresses to the
German People, 1807-08), Fichte đă cho rằng Tiếng Đức
là nguồn của ngôn ngữ (Ursprache) và người dân
Đức thuộc về một quốc gia cổ
nhất và đạo đức nhất (Urvolk). Như
vậy phản ứng chống đối sự đàn
áp của người Pháp bắt đầu từ các
nhà trí thức Đức và từ tầng lớp ưu
tú. Sau đó, các tướng lănh và các chính khách có
khả năng đă nắm quyền cai trị nước
Phổ, là tiền thân của nước Đức sau
này. Tại nước Phổ, Tướng Gerhard von
Scharnhorst (1755-1813) đă đứng đầu các sĩ
quan cao cấp, tổ chức lại quân đội cho có
hiệu quả hơn và theo các nguyên tắc dân chủ
hơn. Giới hạn 42,000 quân do Napoléon ấn định
cho xứ sở Phổ đă được các sĩ
quan Phổ tránh né bằng cách huấn luyện và
tổ chức các đoàn tân binh nhờ đó vào năm
1813, nước Phổ đă có hơn 150,000 binh lính
sẵn sàng chiến đấu.
Đồng thời với các cải cách quân đội,
việc tổ chức hành chính và xă hội cũng
được thực hiện tại nước
Phổ do các ư kiến của Bá Tước Heindrich
Stein (1757-1831), một nhà quư tộc khai sáng thuộc
miền Rhineland, nhờ đó các tỉnh và thành
phố được thêm quyền tự trị, các người
Do Thái có thêm nhân quyền, chế độ nông nô
bị hủy bỏ do đạo luật tháng 10 năm
1807. Tinh thần quốc gia Đức đă trỗi
dậy.
Sau năm 1807, khi Sa Hoàng Alexander gặp gỡ Napoléon
tại Tilsit, các hành động của người Pháp
đă khiến cho Hoàng Đế Nga nghi ngờ sự thành
thật của Napoléon Bonaparte. Tới năm 1809, khi quân
đội Pháp chiếm đóng nước Áo th́
miền Balkan thuộc Nga bị đe dọa và việc
cắt xứ Galicia của nước Áo sát nhập vào
lănh địa hầu tước Warsaw đă đe
dọa phần đất Ba Lan thuộc Nga. Ngoài ra, c̣n
có áp lực của người Pháp muốn người
Nga tuân theo Hệ Thống Lục Địa. Cuộc
gặp gỡ giữa Sa Hoàng và Napoléon tại thành
phố Đức Erfurt vào năm 1808 đă không mang
lại sự đồng ư giữa hai nước Pháp và
Nga, rồi xứ Oldenburg bị sát nhập vào miền
ảnh hưởng thuộc Pháp, cai trị do người
em rể của Napoléon làm hầu tước. Tất
cả các sự kiện này đă gây nên cuộc xâm lăng
nước Nga vào năm 1812 của Napoléon.
Mùa xuân năm 1812, Napoléon Bonaparte đưa quân vào
xứ Ba Lan, đe dọa biên giới của Sa Hoàng
Alexander rồi sau khi các thỏa hiệp không thành, Đại
Quân của Napoléon vào khoảng 453,000 người, đă
vượt qua ḍng sông Niemen, tiến sang đất Nga.
Quân đội Nga đă rút lui, áp dụng chiến lược
"tiêu thổ kháng chiến". Mùa đông trên lănh
thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga càng
rút lui, càng khiến cho quân đội Pháp sa lầy vào
xứ sở tuyết trắng mênh mông với các điều
kiện sinh sống mà Napoléon chưa từng có kinh
nghiệm. Hệ thống tiếp liệu của người
Pháp ở quá xa, làng mạc Nga đă bị đốt
sạch trước khi quân Pháp tiến tới khiến
cho người và ngựa của lực lượng Pháp
không thể t́m ra được các thực phẩm thông
thường. Một cận vệ của Napoléon đă
phải ghi lại rằng: "… không t́m ra được
một cư dân nào, không bắt được một
tù binh nào. Chúng tôi đang ở trung tâm của xứ
Nga không người cư ngụ và chúng tôi giống như
một con tầu không có địa bàn, ở giữa
một đại dương rộng lớn, không
biết điều ǵ sẽ xẩy ra chung quanh chúng tôi".
|
Napoléon rút lui khỏi nước Nga
|
Vào
ngày 7 tháng 9 năm 1812, Tư Lệnh lực lượng
Nga là Tướng Mikhail I. Kutuzov (1745-1813) đă dàn
trận, đánh quân Pháp tại Borodino. Trận
chiến rất đẫm máu, tàn ác và không phân
thắng bại. Napoléon muốn kết thúc cuộc
chiến thật nhanh mà không được. Một
tuần lễ sau, Napoléon đă tiến vào thành phố
Moscow, nơi mà người Nga rút lui sau khi đă đốt
cháy mọi cơ sở. Sa Hoàng Alexander nhất định
không chịu thương thuyết. Việc rút quân Pháp
bị coi là bắt buộc. Mùa đông đă tới
sớm trên đất Nga. Lực lượng Pháp
bị thiệt hại nặng nề v́ thiếu ăn,
thiếu mặc, thiếu phương tiện y tế,
luôn luôn bị quân du kích Nga quấy phá và bị
tấn công bởi "Đại Tướng Mùa Đông"
(General Winter).
Sau cuộc rút quân vượt qua sông Berezina vào tháng 11,
lực lượng chính của Napoléon chỉ c̣n ít hơn
20,000 lính đói ăn và rách rưới tả tơi.
Đa số quân Pháp đă chết v́ đói, v́
lạnh, v́ bệnh tật, một số lớn bị
bắt làm tù binh. Vào lúc này, các lănh tụ Nga cũng e
ngại Napoléon sẽ giải phóng các nông nô để
họ nổi lên chống lại các địa chủ,
nhưng những người nông dân bần cùng này
đă tham gia vào các đội quân du kích, đánh phá
quân đội Pháp. Khi lực lượng Pháp đang rút
lui thảm bại, Tư Lệnh Nga là Tướng
Kutuzov muốn để các nước đồng minh
của Nga tiếp tục đánh quân Pháp nhưng Sa Hoàng
đă ra lệnh cho đạo quân Nga truy kích quân Pháp
qua cả biên giới của nước Nga.
Sự thất trận của Napoléon Bonaparte trên đất
nước Nga đă làm phấn khởi các dân tộc
của châu Âu. Tại nước Đức, đă có
các cuộc biểu t́nh chống Pháp. Các lính quân
dịch Đức bị bắt buộc phục vụ
trong Đại Quân Pháp đă đào ngũ và tham gia vào
lực lượng quân sự chống đối. Người
Áo cũng rút về quân đội của họ và có
thái độ thù nghịch với người Pháp,
tại nước Ư, người dân đă vùng lên
phản kháng. Tại Paris, trong cuộc đảo chính vào
ngày 23-10-1812, đă có công bố rằng Napoléon bị
chết trận tại nước Nga. Tất cả các
yếu tố này đă khiến cho Napoléon Bonaparte
vội vă rút lui trở về Pháp trước cả
Đại Quân. Trong cuộc xâm lăng nước Nga,
gần 500,000 binh lính của Napoléon đă bị
chết, hoặc đào ngũ hay bị bắt làm tù
binh.
Napoléon Bonaparte trở về tới Paris vào ngày 18 tháng
12 và đă công nhận cuộc thảm bại trong
bản thông cáo số 29 (the 29th Bulletin). Dù vậy, dân
chúng Pháp vẫn c̣n ủng hộ Napoléon. Chế độ
độc tài một lần nữa lại được
củng cố và Napoléon tổ chức lại các đội
quân mới.
Từ năm 1813, người dân của các xứ
sở khác nhau của châu Âu đă nổi lên chống
lại người Pháp v́ nền Tự Do của
họ, giống như người Pháp đă tranh đấu
v́ Tự Do trong các năm 1792 và 1793, và vào lúc này,
niềm phấn khởi của người dân Pháp khi
trước đă không c̣n. Lư tưởng chinh phục
của Hoàng Đế Napoléon không c̣n được dân
chúng Pháp hậu thuẫn.
Sau khi rút lui khỏi nước Nga, Napoléon Bonaparte
lại phải đương đầu với liên
minh quân sự mới gồm các nước Anh, Nga, Áo,
Phổ và Thụy Điển. Tháng 4-1812, Napoléon với
các đạo quân mới, đă đánh thắng quân
Nga và quân Phổ tại các trận Lutzen, Bautzen và
Dresden nhưng lực lượng của Liên Quân đông
hơn. Đại Quân của Napoléon rất cần
được tăng cường nhưng không thể
thực hiện nổi việc bổ sung quân số. Do
sự trung gian của nước Áo, một hội
nghị các nước liên minh chống Pháp được
tổ chức tại Prague và giải pháp do Bộ Trưởng
Ngoại Giao Metternich đề nghị là Đế
Quốc Pháp phải rút lui về các biên giới thiên
nhiên cũ, lănh địa hầu tước Warsaw cùng
Liên Bang Sông Rhine phải bị giải tán và nước
Phổ lấy lại được các biên giới
của năm 1805. Trong hoàn cảnh này, Napoléon đă
phạm phải một sai lầm, là đă do dự quá
lâu. Hội nghị kể trên đă bế mạc vào
ngày 10-8 trước khi bản văn trả lời
của Napoléon tới nơi. Nước Áo bèn tuyên
chiến.
Trong cuộc chiến tranh chống lại Napoléon, nước
Anh là quốc gia đầu tiên đă đánh thắng
người Pháp tại Trafalgar và trên các mặt
trận kinh tế của Hệ Thống Lục Địa.
Sau đó là các thất bại của Napoléon tại nước
Tây Ban Nha và tại nước Nga. Quân đội Pháp càng
ngày càng suy kém đi. Các người lính quân dịch
Đức đă dần dần đào ngũ, bỏ
chạy qua phía liên minh chống Pháp. Napoléon cố
gắng xây dựng lại một đạo quân
mới, nhưng đă không thể thay thế các trang
bị thiệt hại trên đất Nga. Cuộc
sụp đổ nặng nề nhất của Napoléon
Bonaparte là "Trận chiến Leipzig" hay
"Trận chiến của các Quốc Gia" (the Battle
of the Nations) diễn ra vào các ngày 16 tới 19 tháng 10 năm
1813, tại đó Đại Quân (Grand Armée) Pháp đă
bị đập nát tan tành. Các đoàn quân Pháp
tại Tây Ban Nha đă phải rút lui sau các thất
trận vào tháng 6, rồi quân đội Anh tấn công
quân Pháp tại phía bắc của miền Pyrenées.
Tại nước Ư, quân Áo đă vượt qua ḍng sông
Adige, chiếm Romagna và Thống Chế Murat, vị tướng
duy nhất phản bội Hoàng Đế Napoléon, đă
kư giao ước với triều đ́nh Vienna. Các người
Bỉ và Ḥa Lan cũng nổi lên chống lại người
Pháp.
|
Leipzig - Trận chiến của các quốc gia
|
Vào
tháng 1 năm 1814, nước Pháp bị tấn công
tại tất cả các biên giới. Các nước liên
minh đă khôn khéo tuyên bố rằng họ chỉ
chống lại cá nhân ông Napoléon. Tại chính nước
Pháp, Quốc Hội Lập Pháp và Thượng Viện
Pháp, trước kia dễ dàng vâng lời Napoléon, th́
nay lại đứng lên đ̣i hỏi ḥa b́nh và các
tự do chính trị, dân sự…
Qua Hiệp Ước Chaumont kư vào tháng 3-1814, các nước
Áo, Anh, Nga và Phổ đă đồng ư không thương
thuyết riêng lẻ với nước Pháp trong 20 năm,
cho tới khi nào Napoléon bị lật đổ. Khi thua
trận Leipzig, Napoléon đă phải rút về và Liên Quân
đă tiến vào thành phố Paris vào ngày 30 tháng 3. Các
người có chức quyền của thành phố Paris
vào lúc này không c̣n e sợ Hoàng Đế Napoléon
nữa, họ t́m cách bắt liên lạc với liên
minh quân sự. Là nhà lănh đạo của chính
phủ lâm thời, ông Talleyrand đă đề nghị
việc truất phế Hoàng Đế Napoléon và
rồi không tham khảo ư kiến của dân chúng Pháp,
ông ta đă thương thuyết với Louis 18, người
em của vị Vua Pháp bị hành quyết là Louis 16. Khi
Napoléon rút quân về tới Fontainebleau th́ được
tin thành phố Paris đă đầu hàng lực lượng
Liên Minh. Được khuyên nhủ việc chống
trả sẽ vô ích, Hoàng Đế Napoléon cuối cùng
đồng ư thoái vị vào ngày 11-4-1814.
|
Napoleon từ biệt "Toán cận vệ cũ"
|
Do
Hiệp Ước Fontainebleau, các nước liên minh
đồng ư giao cho Napoléon cai quản một tiểu vương
quốc là ḥn đảo Elba, nằm tại phía tây
bắc của bờ biển Ư Đại Lợi,
với lợi tức hàng năm là 2 triệu quan do nước
Pháp cung cấp và một đội quân bảo vệ
gồm 400 người t́nh nguyện, và ông Napoléon
vẫn giữ được danh hiệu Hoàng Đế.
Sau lần dự mưu tự vẫn bằng độc
dược không thành công, Napoléon Bonaparte ngỏ lời
từ biệt "Toán quân cận vệ cũ" (the
Old Guard), qua sống tại đảo Elba. Vợ và con
trai của ông được gửi về nuôi bên người
cha vợ, là Hoàng Đế Francis I của nước
Áo. Napoléon không bao giờ được gặp lại
hai người thân này.
Sau cuộc chiến thắng Napoléon, các chính khách
của Liên Minh đă hội họp tại Vienna để
phác thảo ra kế hoạch ḥa b́nh. Vua Louis 18,
thuộc ḍng họ Bourbon, lên ngai vàng của nước
Pháp và đă ban ra đạo dụ năm 1814, thiết
lập nên chế độ quân chủ lập hiến.
Đă xẩy ra cuộc "khủng bố
trắng" của phe bảo hoàng đối với các
người Cách Mạng Pháp cũ.
Việc phục hưng ḍng họ Bourbon đă sớm
bị dân chúng Pháp chỉ trích. Mặc dù vào năm
1814, người dân Pháp chán nản trước Hoàng
Đế Napoléon nhưng họ cũng không mong muốn
sự trở về của phe bảo hoàng, v́ Vua Louis 18
đă lên ngai vàng do sự trợ giúp của các người
ngoại quốc. Người dân Pháp vào lúc này vẫn
c̣n lưu luyến các thành quả của Cách Mạng.
Bắt đầu có các âm mưu chống đối chính
quyền hoàng gia mới.
Tại đảo Elba, Napoléon vẫn theo dơi các tiến
triển trên lục địa. V́ vào lúc này, các nhà chính
trị tại Vienna đang trù liệu về số
phận của châu Âu và họ coi đảo Elba quá
gần với nước Pháp và nước Ư, nên
họ muốn đầy Napoléon tới một ḥn đảo
thật xa trong Đại Tây Dương. Napoléon cũng
phản đối nước Áo đă ngăn trở
không cho vợ con theo sống với ông trên đảo.
Thực ra, bà Marie-Louise lúc này đă có một người
t́nh nên không có ư định đi theo chồng, và thêm
vào đó, chính phủ Pháp cũng từ chối
trợ cấp tài chính cho Napoléon, khiến cho ông lâm vào
hoàn cảnh túng thiếu. Tất cả những yếu
tố kể trên đă đưa đẩy Napoléon
phải hành động.
Vào tháng 2 năm 1815, Napoléon Bonaparte cùng với 1,100 người
theo đi đầy trước kia, đă xuống
tầu, rời đảo Elba, t́m đường qua
đất Pháp. Ngày 1 tháng 3 năm đó, họ đổ
bộ tại Cannes và rồi tiến về thành phố
Paris. Khi vượt qua rặng núi Alps, Napoléon đă
được các nông dân cộng ḥa vây quanh tán thưởng.
Một đạo quân được phái đi từ
Paris do Thống Chế Michel Ney chỉ huy, để
bắt Napoléon nhưng khi những người này
gặp lại vị lănh tụ cũ của họ,
họ đă hoan hô Napoléon Bonaparte như là vị Hoàng
Đế và tham gia vào đoàn quân mới. Trước
t́nh thế mới, Vua Louis 18 bỏ chạy.
Ngày 20-3, Napoléon Bonaparte tiến vào thành phố Paris và
được đám đông dân chúng khiêng lên,
đưa vào Điện Tuileries. Ngay sau đó, Napoléon
đă công bố một hiến pháp mới có tính
giới hạn các quyền hành của ông, và ông cũng
hứa với các nước liên minh rằng ông sẽ
không gây chiến. Nhưng các nhà lănh đạo của
các nước liên minh vẫn coi Napoléon là "kẻ
thù và kẻ quấy phá nền ḥa b́nh của thế
giới". V́ vậy, cả hai phe lại chuẩn
bị chiến tranh.
Để chống lại các đạo quân liên minh
tập trung tại biên giới nước Pháp, Napoléon
đưa 125,000 quân sang nước Bỉ. Ngày 16-6, Napoléon
đánh bại Thống Chế Gebhard von Blucher của nước
Phổ tại Ligny, gần Fleurus. Ngày 18-6 tại Waterloo,
Napoléon tấn công đạo quân Anh dưới
quyền Tướng Wellington, là kẻ chiến
thắng tại cuộc Chiến Tranh Bán Đảo.
Trận chiến tàn sát đă diễn ra. Hàng ngàn
kỵ binh Pháp đă xông trận và Napoléon sắp
sửa chiến thắng th́ đạo quân Phổ
của Thống Chế Blucher tiến đến, tăng
cường cho đạo quân Anh, và mặc dù đạo
quân cận vệ cũ (the Old Guard) đă chiến đấu
rất kiên cường, Napoléon đă bị thua
trận v́ bị địch quân quá đông áp đảo.
Napoléon bị thiệt hại 25,000 lính chết và
bị thương, 9,000 lính bị bắt. Tổn
thất của Tướng Wellington là 15,000 quân và
của Thống Chế Blucher vào khoảng 8,000 người.
Waterloo trở nên một trong các trận đánh danh
tiếng nhất trong Lịch Sử.
|
Trận chiến Waterloo 1815
250,000 quân Pháp bị bao vây tứ phía bởi
850,000 quân của các quốc gia đồng minh
|
Napoléon
Bonaparte bỏ chạy về Paris và phải thoái vị
lần thứ hai vào ngày 22 tháng 6 năm 1815. Thời
gian Napoléon trở về Paris từ đảo Elba
tới khi ông thoái vị lần này, được
gọi là "Giai đoạn 100 ngày". Ngày 3 tháng 7,
Napoléon đă tới Rochefort, định t́m đường
trốn qua châu Mỹ nhưng con tầu chiến của
nước Anh tên là Bellerophon, do Đại Tá Frederick
Lewis Maitland chỉ huy, đă ngăn chặn, không cho con
tầu Pháp chở Napoléon rời khỏi bến
cảng. Napoléon đành phải kêu gọi sự
bảo vệ an ninh của người Anh. Các nước
liên minh lần này cùng đồng ư về một điểm:
ông Napoléon Bonaparte sẽ không được trở
về đảo Elba nữa mà bị đưa tới
một ḥn đảo rất xa. Sau đó chính quyền
Anh công bố rằng ḥn đảo Saint Helena tại phía
nam Đại Tây Dương đă được
chọn làm nơi cư ngụ cho cựu hoàng.
Ngày 15 tháng 10 năm 1815, Napoléon cùng với một
số người t́nh nguyện theo đi đầy,
đă bước lên ḥn đảo St. Helena, gồm có:
Tướng Henri-Gratien Bertrand, nguyên thống chế
bản doanh với vợ, Bá Tước Charles de
Montholon, tùy viên với vợ, Tướng Gaspard Gourgaud,
ông Emmanuel Las Cases, cựu nhân viên cao cấp hoàng gia, và
một số tùy tùng cũ. Sau một thời gian
ngắn cư ngụ tại ngôi nhà của một thương
gia Anh giàu có, Napoléon Bonaparte dọn tới nhà của
vị toàn quyền ḥn đảo xây dựng tại
Longwood.
8- Ngày tàn của Hoàng Đế Napoléon.
Napoléon Bonaparte trở về với đời sống
buồn tẻ hàng ngày. Mỗi ngày ông thức dậy
trễ vào khoảng 10 giờ sáng và ít khi bước
chân ra khỏi nhà. Ông được tự do đi
lại trên đảo nhưng với điều
kiện phải có một sĩ quan người Anh đi
kèm. Ông đă không chịu chấp nhận điều
kiện này mà ở trong nhà đọc sách và nói
chuyện với các người thân cận cũ. Người
thư kư của ông là Las Cases đă ghi chép lại các
lời tường thuật của vị cựu Hoàng
Đế Pháp để về sau, biên soạn thành sách.
Buổi tối từ 7 tới 8 giờ, Napoléon dùng cơm
chiều, sau đó dành thời giờ chơi bài hay
đọc sách. Ông ưa thích các tác phẩm cổ
điển. Ông cũng học tiếng Anh và bắt
đầu đọc được báo chí Anh nhưng
ông cũng có nhiều sách Pháp từ lục địa
gửi qua, và ông đă đọc chăm chú các
cuốn sách này cùng ghi thêm các lời nhận xét.
Saint Helena là một ḥn đảo khí hậu tốt nhưng
một nhân vật đă từng dọc ngang chinh
phục khắp châu Âu trong 20 năm trường làm sao
chịu đựng được cảnh cô quạnh,
giam hăm trên một ḥn đảo hẻo lánh. Napoléon
Bonaparte lại không được tin tức ǵ về
vợ và con, biết đâu rằng Hoàng Hậu
Marie-Louise đă lập gia đ́nh một cách lén lút
với một sĩ quan người Áo tên là Graf Adam von
Neipperg mà không đợi tới lúc ông chết. Người
con trai của ông, sinh ngày 20-3-1811 có tên là Francois Charles
Joseph Bonaparte, lúc sinh ra đă có danh hiệu "Vua La Mă"
(King of Rome), th́ nay trưởng thành và sinh sống như
một tù nhân hoàng gia dưới sự canh chừng
của ông ngoại là Hoàng Đế Áo Francis I.
Thời đó, các chính khách của phe liên minh vẫn e
ngại các người ủng hộ Napoléon sẽ
lợi dụng danh nghĩa của cậu con trai này
để mưu cầu quyền lực tại nước
Pháp nên Francois Bonaparte được đổi tên thành
Hầu Tước Reichtadt.
Từ tháng 4 năm 1816, Sir Hudson Lowe tới đảo
St. Helena làm toàn quyền, đă khiến cho đời
sống của Napoléon khó chịu thêm. Napoléon trước
kia đă không ưa ǵ ông Lowe, là người đă
từng chỉ huy toán quân xung kích trên đảo Corsica
và đây là nhóm lính t́nh nguyện phần lớn căm
thù gia đ́nh Bonaparte. Sir Lowe cũng hiềm khích
với ông Las Cases, người tin cẩn của Napoléon
và đă t́m cách bắt bớ ông này rồi trục
xuất khỏi đảo. V́ vậy, liên lạc
giữa Napoléon và vị toàn quyền đă trở nên
căng thẳng.
Tới cuối năm 1817, đă có dấu hiệu
bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế,
một phần cũng v́ ông thiếu vận động.
Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử.
Vị bác sĩ người Ái Nhĩ Lan là ông Barry O'
Meara đă từng khuyên Napoléon thay đổi lối
sống, nay bị thuyên chuyển đi nơi khác. Thay
thế là một bác sĩ tầm thường, gốc
thuộc đảo Corsica với tên là Francesco Antommarchi,
đă cho thuốc cựu Hoàng Đế nhưng không làm
sao điều trị được thứ bệnh nan
y vào thời đại đó.
Đầu năm 1821, căn bệnh của Napoléon
trở nên trầm trọng thêm. Từ tháng 3, vị
cựu Hoàng Đế bị nằm liệt giường.
Tháng 4, Napoléon Bonaparte đă đọc lời di chúc
cuối cùng, gồm có câu: "Tôi ước muốn
nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông
Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi
rất yêu mến… Tôi chết trước thời
hạn, bị giết bởi thể chế hoạt
đầu Anh (the English oligarchy) và do các kẻ sát nhân
được thuê mướn".
Ngày 5 tháng 5 năm 1821, cựu Hoàng Đế Napoléon
đă thều thào câu nói: "Thượng Đế
của tôi… Nước Pháp… con trai của tôi…
vị chỉ huy quân đội…". Napoléon đă qua
đời lúc 5:49 giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa
tṛn 52 tuổi. Thi thể của ông được
mặc vô bộ quân phục mà ông ưa thích và
được phủ lên bằng tấm áo choàng màu sám,
tấm áo trận mà ông đă khoác trong trận đánh
Marengo. Đám tang của ông được tổ
chức đơn giản tại thung lũng Rupert, nơi
ông thường đi tản bộ và trên nấm
mộ bên cạnh 2 cây liễu rủ, có tấm đá
ghi hàng chữ: "Nơi đây an nghỉ " (Ci-Git).
|
Mộ của Napoleon
|
Vào năm 1840, Hoàng Tử Francois, con của Vua
Louis-Philippe nước Pháp, đă được phái
đi trên một tầu chiến tới đảo St.
Helena để mang về Pháp di cốt của cựu Hoàng
Đế Napoléon theo như ước nguyện cuối
cùng của ông. Lễ an táng rất trọng thể
được tổ chức tại thành phố Paris vào
tháng 12 năm đó, và linh cữu của Napoléon
Bonaparte được đưa qua Khải Hoàn Môn (Arc
de Triomphe) và đặt tại Giáo Đường Du
Dome (Eglise du Dome), một bộ phận của Đài
Chiến Sĩ Trận Vong (Hotel des Invalides).
Napoléon Bonaparte vừa là một nhân vật lịch
sử, vừa là một nhân vật huyền thoại và
đôi khi, khó ḷng tách biệt hai đặc tính này v́
các sự kiện trong cuộc đời của ông
đă từng làm bừng sống trí tưởng tượng
của các văn sĩ danh tiếng, các nhà viết
kịch có tầm vóc lớn và các nhà làm phim đa tài,
họ là những người đă xây dựng nên các
huyền thoại Napoléon.
Napoléon Bonaparte là một trong các vị lănh đạo
quân sự thiên tài bậc nhất trong Lịch Sử.
Người ta đă coi ông là kẻ chinh phục ham
quyền và chính Napoléon đă từng nói rằng ông không
muốn chinh phục các dân tộc khác mà chỉ
muốn xây dựng một liên bang các dân tộc tự
do của châu Âu với một chính quyền cấp
tiến. Nhưng v́ mục đích này, Napoléon đă
muốn tập trung mọi quyền lực vào trong tay ḿnh.
Tại châu Âu và tại nước Pháp, câu châm ngôn
"Tự Do - B́nh Đẳng - Huynh Đệ"
của cuộc Cách Mạng năm 1789 tuy chưa cho phép
người dân Pháp thụ hưởng đầy đủ
nền Dân Chủ như trong thế kỷ 20, nhưng
từ năm 1815, dân chúng Pháp đă được
đôi phần nào Tự Do hơn, giới trung lưu
đă không c̣n gặp các giới hạn của chế
độ cũ cấm đoán, các người Tin Lành,
Do Thái và các nhà tự do tư tưởng đă
nhận được sự dung thứ (toleration) trên
miền đất Pháp và trên các xứ vệ tinh
của Pháp. Hiến Pháp năm 1815 của nước Pháp
tuy chưa đáp ứng được các lư tưởng
dân chủ liệt kê qua Bản Tuyên Bố Dân Quyền
(the Declaration of the Rights of Man) nhưng đă bao gồm
trong đó một h́nh thức mới về tính Dân
Chủ.
Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng
đặt ra căn bản về quyền b́nh đẳng
trước nghĩa vụ phải đóng thuế. Giai
cấp thứ ba (the 3rd estate) được cung cấp
nhiều cơ hội kinh tế hơn, các trở
ngại áp đặt vào các hoạt động thương
mại bị gỡ bớt, các phần đất
rộng lớn của hai giai cấp quư tộc và tu sĩ
bị phân chia, truyền qua tay giới tư sản thành
thị và giới nông dân giàu có. Tính b́nh đẳng
về tài sản (property) được xác nhận
trong đạo luật Ventose của năm 1794 rồi
về sau được bổ túc.
Cuộc Cách Mạng Pháp là một bước quan
trọng trong việc đi lên của giới tư
sản trung lưu, thuộc cả về thành thị
lẫn nông thôn. Bộ Luật Napoléon sau đó đă
chôn vùi mọi bất b́nh đẳng xă hội của
chế độ cũ và cũng v́ thế, Napoléon
đă nói: "Bất kể tôi là Tổng Tài Thứ
Nhất hay là Hoàng Đế, tôi đă là một
vị Vua của dân chúng: tôi đă cai trị v́
quốc gia, và v́ lợi ích của quốc gia mà không
để chính ḿnh bị thiên lệch v́ lời
phản đối hay v́ các tư lợi của một
nhóm người nào".
Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng
làm thăng tiến t́nh huynh đệ qua đó, mọi
người dân Pháp được coi là b́nh đẳng
trước Pháp Luật và đồng thời cũng
cổ động cho tinh thần quốc gia (nationalism),
một t́nh cảm thuộc về một quần
thể rộng lớn hơn là nước Pháp, một
quốc gia được người dân coi là ưu
đẳng hơn các quốc gia khác. Từ trước
năm 1789, tinh thần quốc gia Pháp đă tồn
tại qua các nhân vật như Joan of Arc, Vua Henry IV và
Vua Louis 14 để rồi về sau, tinh thần
quốc gia đó lại thể hiện qua đạo
luật tổng động viên ngày 23-8-1793 của
Hội Nghị Quốc Ước. Đế Chế
Napoléon đă cho thấy tinh thần quốc gia đă
dễ dàng đưa đến chế độ "đế
quốc" với tầm vóc lớn lao mà trước
kia chưa từng thấy.
Trong cuộc Cách Mạng Pháp, Robespierre và các đảng
viên Jacobin là những người làm chính trị không
nhân nhượng, tiếp theo là các nhân vật Thermidor
và Brumaire trở nên thực tế hơn và ôn ḥa hơn,
rồi sau đó dưới thời Napoléon, tinh thần
cách mạng đă trở thành một loại "tôn
giáo", đ̣i hỏi tới đặc tính chính
thống chính trị (political orthodoxy), và tinh thần
"quốc gia" sau năm 1815 đă tạo nên "các
chiến sĩ, các tông đồ và các người
tử đạo" (martyrs) tại nhiều nơi trên
mặt đất.
Sau khi Napoléon Bonaparte qua đời, đă có các cuốn
sách chê trách cũng như ca tụng danh tiếng
của vị cựu Hoàng Đế này. Nhà văn người
Pháp rất nổi danh và có cảm t́nh hoàng gia là ông
Francois de Chateaubriand đă viết ra một tác phẩm văn
chương chỉ trích Napoléon, có tên là "Về
Buonaparte và ḍng họ Bourbons, và sự cần thiết
phải tập hợp quanh các ông hoàng chính gốc
của chúng ta, v́ sự an toàn của nước Pháp và
của châu Âu " (De Buonaparte, des Bourbons et de la nécessité
de se rallier à nos princes légitime, 1814). Về sau vào năm
1870, khi Đế Chế Pháp thứ hai (the Second Empire)
sụp đổ, cũng có các sách chê trách Napoléon mà
đại biểu là cuốn "Các nguồn gốc
của nước Pháp hiện đại" (Origines de
la France contemporaine, 1876-94) của Hippolyte Taine. Napoléon
Bonaparte cũng bị các nhà lư trí (rationalist) thuộc nhóm
Bách Khoa (Encyclopédie) phê phán là "ông kẹ người
đảo Corsica" (the Corsican ogre), người đă
dám hy sinh 500,000 đồng bào v́ các tham vọng của
ḿnh.
Trái với các lời phê b́nh kể trên, các huyền
thoại về Napoléon Bonaparte đă phát triển
rất mau. Các cuốn hồi kư, tường thuật,
ghi chép… của những người đi đầy
theo cựu Hoàng Đế đă đóng góp rất
đáng kể vào việc tạo dựng nên các
huyền thoại đó. Ngay từ năm 1814, đă có
các thơ văn ca tụng Napoléon, chẳng hạn như
bài thơ ngắn của Lord Byron (Ode to Napoléon Bonaparte),
bài thơ "Die Grenadiere" (Người lính bộ
binh) của thi hào người Đức Henrich Heine.
Cuộc đời của Napoléon được mô
tả lại qua tác phẩm "Vie de Napoléon"
của tiểu thuyết gia người Pháp Stendhal vào năm
1817.
Năm 1822, Bác Sĩ O'Meara đă cho xuất bản
tại London cuốn sách "Napoléon trong cảnh tù
đầy" (Napoléon in Exile) rồi năm sau, 1823,
xuất hiện cuốn sách của Montholon và Gourgard
với tên là "Hồi Tưởng để dùng cho
lịch sử của nước Pháp dưới
thời Napoléon, viết tại Sainte-Helène do Hoàng Đế
đọc ra" (Mémoires pour servir à l'histoire de France sous
Napoléon, écrits à Sainte-Helène sous sa dictée). Người thư
kư riêng của Napoléon là ông Las Cases cũng tŕnh bày
cựu Hoàng Đế như là một người
cộng ḥa, đă chống lại châu Âu để
bảo vệ Tự Do, qua tác phẩm nổi tiếng
"Hồi Tưởng" (Memorial).
Cuốn sách "Các giờ phút cuối của Napoléon"
(Derniers moments de Napoléon) của Bác Sĩ Antommarchi cũng
được in ra vào năm 1825 và con số các tác
phẩm ca tụng Napoléon đă gia tăng rất
nhiều, đáng kể là bài thơ ca ngợi của
Victor Hugo (Ode à la Colonne), trong toàn tập 28 cuốn "Các
vinh quang và chinh phục của người Pháp"
(Victoires et conquêtes des Francais), và tác phẩm của Sir
Walter Scott "Cuộc đời của Napoléon Bonaparte,
Hoàng Đế của người Pháp" (Life of
Napoleon Bonaparte, Emperor of the French).
Napoléon Bonaparte là một nhân vật đă để
lại nhiều định chế lâu bền mà trên
đó nước Pháp ngày nay vẫn c̣n được
xây dựng, đó là hệ thống hành chính của các
tỉnh (prefects), Bộ Luật Napoléon, hệ thống tư
pháp, Ngân Hàng Pháp Quốc và tổ chức tài chính
quốc gia, các đại học và các hàn lâm viện
quân sự.
Napoléon Bonaparte là một danh nhân đă làm thay đổi
Lịch Sử của nước Pháp và của Thế
Giới.
Phạm Văn Tuấn
Các tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica
Encyclopedia, Napoleon by Paul Johnson, Viking, N.Y. 2002.
|