Ngày
30 Tháng Tư, 1975, Lần Thật Chết Với Quê Hương Phan Nhật Nam |
Dẫn
Nhập: Không hiểu từ bao giờ, như
thế nào, đứa nhỏ mới tập đánh
vần, đọc và học thuộc ḷng bài thơ.. Đây
sông Gianh đây biên cương thống khổ.. Đây
sa trường đây nấm mộ trời Nam Đây ḍng
sông ḍng máu Việt c̣n loang.. Đây cổ độ xương
tàn xưa chất đống.. Mà quả
thật nó không hiểu “cổ
độ” là ǵ lại có nhiều xương
chất đống?! Nó cũng không hiểu v́ sao tên nó
“Nam” được kể vào, cũng như tên hai
đứa em “Lạc, Hồng”
con ông chú Xuyến cũng được kể ra
với “Nơi gươm
hồng tàn giết giống Lạc Hồng”.. Ai
đă lấy gươm “giết/nghe
ghê quá” hai đứa em của nó? Tóm lại,
đứa nhỏ hoàn toàn không hiểu hết nghĩa
bài học thuộc ḷng, tuy nhiên nó cảm nhận
một cảm giác rất rơ.. Nó
thấy buồn buồn nặng xuống trũng
ngực – Cũng chưa hiểu nghĩa
“buồn là ǵ”.. #1- Hoá ra cảm giác nhạt
nhạt trong miệng,
buồn buồn đè nặng, đau đau ở trũng
ngực làm đứa nhỏ có thói quen luôn rờ tay lên
ngực áo như muốn gỡ đi một khối
nặng vô h́nh dính sâu đâu trong người mà sau
nầy khi khôn lớn, nó mới biết đó là
vị trí gần quả tim làm chặn ngang đường
thở. Cảm giác nầy vốn có từ thời thơ
ấu nhưng do c̣n quá nhỏ nên đưá bé chưa
biết gọi ra tên. Cảm ứng xa xưa ấy chính
là Nỗi Đau/Cảm giác
Buồn sau nầy khôn lớn anh mới biết
ra qua thân phận Người
Lính trên Quê Hương Việt Nam. Nhưng không
chỉ là thế, sâu xa hơn ám ảnh từ thời
ấu thơ, mối ưu phiền (không duyên cớ) ngày
tuổi trẻ vừa tới 20 tuổi, từng đêm
nói Trường Đà Lạt, nh́n ra ánh đèn xanh nơi
xa vườn Bích Â.. C̣n có điều ǵ khác, lớn
lao, kinh hoàng, khốc liệt hơn.. Đấy là Năm
1965, sau trận chiến bùng nỗ ngày 11 tháng 6, với
cơn mưa u uất mùa hạ Miền Nam, nơi Nghĩa
Trang Quân Đội G̣ Vấp. Mưa không đủ
lớn, không dài lâu để cho người có cảm
giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa
âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy thêm mùi xác
chết của những đơn vị gồm Tiểu
Đoàn 2, Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 Bộ Binh;
của Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân; và
đơn vị đầu đời, thiết thân, thương
mến, Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù với những người
lính anh quen mặt từ buổi trưa cuối năm
1963 khi mang chiếc xắc marin nhà binh bước qua
cổng doanh trại, vào tŕnh diện tiểu đoàn trưởng..
Những người lính với sức chịu đựng
dường như vô hạn dưới khối
nặng của thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ
khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để từng
ngày cúi gầm mặt bước xuống vùng śnh
lầy mênh mông, trèo lên dốc đá núi thăm
thẳm, lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không
tiếng nhỏ than van, gh́m lại hơi thở dài
nặng nhọc… Nhưng ngày ấy, tất cả
những người lính gần gũi thuơng mến
nầy đă là những xác chết căng cứng, da
tím sẫm bốc mùi xanh xao tanh tưởi..
Những khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi
trẻ của tuần, tháng trước biến
dạng thành những khối thịt ủng lầy máu
sẫm, đất bùn đỏ, nhầy nhụa thêm
bởi thấm mưa của bao ngày nằm nơi đụng
trận, một chốn gọi là xă Đồng Xoài,
Quận Đôn Luân, Tỉnh B́nh Dương, nơi
chỉ xa Sài G̣n chưa đấy 100 cây số
đường chim bay. #2/ Rồi từ Giao Thừa
Mậu Thân,
bắt đầu ở Huế, ngơ Âm Hồn, lối
đi ra đường Mai Thúc Loan, hướng Cửa
Đông Ba. Khoảng đường u thẫm chập
dầy bóng đen đêm Xuân 1968, với t́nh thế
nguy biến tang thương hơn qua hoạt cảnh người
lính xao xác chạy dọc những khu nhà đỗ nát,
vừa chạy tránh đạn, vừa kéo xác đồng
đội.. Anh đi ngang qua căn nhà có xác người
đàn bà chết trong vị thế quỳ trước
chiếc bàn thờ xiêu đỗ tung toé, hẳn đang
khấn lạy, cầu xin.. Nhưng xác chết chỉ c̣n
thân người, bởi chiếc đầu đă
bị cắt lià, vất tung đâu đó. Bên cạnh,
thây cô gái tóc dài lây lất, khuôn mặt chỉ c̣n
những tảng thịt rời ră.. Nhận biết
đấy là người thiếu nữ do chiếc áo
dài trắng và áo len màu tím than, màu riêng biệt đặc
trưng của người thiếu nữ xứ
Huế. Nhưng, như một an ủi khốn cùng,
ở Huế, hay quanh ngoại ô Sài G̣n, vùng Nhị B́nh,
Thạch Lộc, Hốc Môn, Gia Định trong dịp
chiến loạn Mậu Thân 1968, người ta vẫn c̣n
khả năng phân biệt đấy là xác chết
của lính hay của dân; của dân chúng Huế hay gă
bộ đội Sinh Bắc-Tử Nam, hoặc cán binh
Mặt trận giải phóng.. qua áo quần, dạng tướng,
đôi dép Nhật làm ở Chợ Lớn, giày botte de
saut của lính cộng ḥa hay loại dép râu mang theo
từ Miền Bắc của bộ đội cộng
sản. Suốt dọc cù lao sông Sài G̣n chảy qua B́nh
Phước, B́nh Triệu, Thạnh Lộc, Nhị B́nh,
G̣ Vấp.. Cả một vùng hoa mai tàn tạ trong ánh
nắng lung linh mùi tử khí. #3/Tiếp đến năm 1972,
cảnh chết trên quê hương miền Nam tăng
vụt cường độ với bất
hạnh, tang thương nhân lên gấp bội phần
cho dù trí tưởng tượng về t́nh huống
khốn cùng từ lâu đă được người
Việt hằng mang nặng, chuẩn bị gánh
chịu. Trên chín cây số từ La Vang, nam Quảng
Trị đến Cầu Trường Phước
lớp nhựa đường đă hoàn toàn chảy
nhăo, đun nóng sôi bởi một thứ lửa nhân
tạo. Lửa được cháy lên do từ áo
quần, tay nải, bao bị, gồng gánh, và tế bào
thịt da của người tẫm vào lưỡi
lửa của xe cộ, xăng nhớt.. Tất cả
biến thái nên thành ngọn lửa bền bỉ âm
ỉ. Thế nên trên quảng đường chín cây
số nam Thị Xă Quảng Trị mà báo chí Miền
Nam đặt nên tên đau thương Đại
Lộ Kinh Hoàng hoàn toàn không c̣n dạng thây ma để
được gọi nên là xác chết, mà chỉ là
những mảnh xương cốt rời ră, lăn lóc,
lẫn lộn đất, đá, cát vương văi dưới
gầm khung xe cháy nám, nơi ổ súng cong queo, sau
những bụi lùm trơ trọi, những g̣, đụn
oan khiên mà ổ mối đùn lên gây tanh mùi máu. Trong cùng
lúc, vào thời điểm đầu mùa Hè, 1972 ở
An Lộc nơi Bệnh viện Tiểu Khu B́nh Long cũng
xẩy ra t́nh cảnh kinh hoàng đau thương tương
tự. V́ pháo binh yểm trợ cho các sư đoàn 5,
7 bộ binh cộng sản đă học được
một kinh nghiệm hữu dụng: “Ban ngày chỉ pháo
xuống nhiều điểm bên trong thị xă để
dân chúng tin rằng “bộ đội giải phóng”
không pháo kích vô chỗ bệnh viện!” Nhưng vào
ban đêm, Trường Trung Học Cộng Đồng,
Bệnh Viện Tiểu Khu B́nh Long.. nơi lớp
lớp người bị thương đang lê lết
trong băi máu, giữa những người hấp hối
để cầu sống sót, cầu được lúc
b́nh yên.. Cho dẫu b́nh yên được chết..
Những nơi nầy biến thành những điểm
tập trung của pháo binh cộng sản.. Điễn
h́nh chỉ trong một đêm 10 tháng Tư tám ngàn
quả đạn 130 ly rơi xuống xé toang đám xác
người.. Người sống lẫn kẻ
chết.. Tất cả đồng tung lên ngật
ngật với thân thể con người chỉ c̣n là
những mảnh vụn tơi tả lẫn với
bụi, khói, mănh thép.. #4/ Với t́nh cảnh
sống-chết đan kín,
xen kẻ cùng nhau trong suốt chặng đường dài
hơn một thập niên như trên vừa kể ra.. Nên
đă rất nhiều lần, trong đêm khuya bất
chợt anh nghe ra tiếng gọi oan hờn từ Nghĩa
Trang Quân Đội nh́n từ Đồi Mũ Đỏ,
Căn Cứ Nguyễn Huệ, bản doanh Lữ
Đoàn 2 Nhảy Dù trên vùng đồi Long B́nh..
TẤT CẢ HIỆN ĐỦ TRONG BUỔI SÁNG HÔM NAY
– Ngày 30 tháng Tư Năm 1975 – Sự Chết bắt
đầu trùm chiếc cánh tối tăm hung hiểm lúc
6 giờ 15 chiều ngày 28 tháng 4, khi chuỗi bom dưới
cánh của những chiếc A37 do viên phi công phản
trắc Nguyễn Thành Trung hướng dẫn rơi
xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Đạn pḥng
không bắn lên, phi cơ F5 đuổi theo muộn màng,
vô vọng. Cửa ngỏ tháo chạy của Sài G̣n
đóng sập lại. Cuối cùng, Tân Sơn Nhất
thật sự vùng vẫy, hấp hối, ch́m dần
trong lửa hoả ngục khi dàn đại pháo,
hỏa tiễn cộng sản từ Đồng Dù,
Củ Chi, ranh giới Hậu Nghĩa, Gia Định
bắt đầu đỗ xuống không ngắt
nhịp.. Từng trái đạn 130 ly, từng hỏa
tiễn 122 ly chính xác rơi xuống..Tân Sơn Nhất
vật vă, co quắp, ră chết, sụp vỡ, hấp
hối trong khói đen, lửa ngọn.. Cuộc hành h́nh
kéo dài từ 1 giờ sáng ngày 29 tiếp tục đến
rạng đông. Ở căn cứ DAO, Văn pḥng Tùy
Viên Quân Lực Mỹ, ba ngàn người tỵ nạn
chờ đợi di tản bằng C130, hoặc C141 qua
Guam đưa mắt nh́n lên trời, giữa vũng
lửa, đếm rơ từng viên đạn pháo rơi
xuống.. Đống hành lư khổng lồ gồm quư
kim, vàng, kim cương, giấy bạc Năm Trăm
Trần Hưng Đạo của Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam; giấy bạc đô-la của ngân khố
Mỹ.. Tất cả cùng trộn lẫn với
thịt da thân thể người thành một thứ pháo
bông tan tác bay tung toé, hiện thực nơi trần
thế cảnh địa ngục vô vàn mà nhà thơ
Dante đă diễn tả qua thi ca. #4.1/ Sáng 29 Tháng 4, những
tướng lănh đă ra đi, những sĩ quan cao
cấp cũng rời bỏ nhiệm sở, đơn
vị.. Nhưng, Trung Úy Phi Công Trang Văn Thành c̣n
lại. Thành có danh hiệu “Thành mọi” (biết
được tên sau 30/4/1975 khi đi tù chung
với những bạn tù gốc Không Quân) do nước
da ngâm đen lái chiếc C119 Phi Đoàn Tinh Long
đơn độc bay lên trời xanh bảo vệ Tân
Sơn Nhất. Những vị trí pháo cộng sản
từ vùng Bà Điểm, Hóc Môn tạm ngưng
hoạt động (có thể) vừa bị anh tấn
công, triệt hạ.. Hóa ra cả một quốc gia
chỉ c̣n được lần cứu viện bi hùng
tuyệt vọng nầy. Một ḿnh anh.. Phải chỉ
một ḿnh anh – Trung úy Trang Văn Thành, “Thành
Thiếu Sinh Quân”.. Lửa! Lửa! Lửa cháy ngang cánh
trái con tàu.. Cánh dù bung ra vướng víu.. Những
mảnh lửa từ thân máy bay rơi xuống..
Lửa bừng bừng! Lửa ào ạt.. Người
phi công ch́m trong lửa, chết giữa không gian trên quê
hương! Từ dưới đất, trước
Tử Sĩ Đường Không Quân kế cổng
Trại Trần Quư Mại, Tiểu Đoàn 8 Nhẩy Dù,
anh đưa máy ảnh lên.. Nước mắt chảy
đầy má, ống kính rung động, nhạt nḥa..
Tất cả đă là vô ích! #4.2/ Sáng 30 tháng 4, năm 1975.
Anh lục túi lấy hết giấy tờ gồm
Chứng Chỉ Tại Ngũ, Thẻ Lănh Lương,
Thẻ Báo Chí, Chứng Minh Thư mang Danh Số 41 Ban Liên
Hợp Quân Sự Trung Ương… ném tất cả
xuống miệng cống trước trước nhà sách
Khai Trí, Đường Lê Lợi.. Coi như ḿnh đă
chết…H́nh như anh vừa nói ra lời với
cảm giác thanh thản của người vừa
cất xong gánh nặng quá lớn. Tay anh giữ hai
chiếc máy ảnh trước ngực.. Anh tự
nhắc nhở: Ít ra c̣n có vật dụng để
thực hiện một công việc, làm một nhiệm
vụ. Đây là những h́nh ảnh không thể
thiếu cho mai sau. Để tương lai c̣n có người
biết đến, thấy ra lần tận diệt
của Sàig̣n. Của miền Nam. Với cách giải thích
tội nghiệp cùng đường nầy, anh đi
về phía Công Trường Lam Sơn, trước
trụ sở Hạ Viện. Chung quanh Sàig̣n vắng hoe.
Trời bỗng nhiên trở mưa.. Cơn mưa
ngắn, từng giọt khô nồng, u uất. Chiếc
xe Molotova Trung Cộng (sau khi đi tù mới biết
đấy là xe Zil) từ hướng đường
Trần Hưng Đạo, chạy chậm răi qua bùng
binh chợ Bến Thành.. Những người đi
đường nh́n lên, ngó mông trống trải. Xe
tới trước thềm Hạ Viện, đám
thiếu nữ nhẩy xuống, một người
đội mũ tai bèo, chắc là người chỉ
huy trung đội lính phụ nữ, từ ca-bin xe bước
ra, chỉ chỏ, ban lệnh, kéo từng người vào
vị trí gọi là “chiến đấu”… Các đồng
chí, các đồng chí… bố trí đây ń, sẵn sàng
tác chiến… Giọng người vùng miền Bắc
Trung Việt cấm cẳng, the thé. Những thiếu
nữ ngồi bất động nghiêm trọng. Tất
cả đều mặc áo quần mới, áo mầu
xanh dương, quần đen, vải nội hoá c̣n
nguyên dấu hồ, giây đạn đeo chéo qua thân,
miết xuống những thớ thịt ở ngực,
phần bụng. Băng đạn trên thân người
mới tinh màu đồng đỏ au. #4.3/ Từ Công Trường Lam Sơn,
đầu đường Nguyễn Huệ, đám
đông dần tập trung để xem mặt “bộ
đội Việt cộng”. Thêm hai xe đổ quân trước
rạp Rex. Lính cộng sản nhẩy xuống, chạy
vội vào hàng hiên, nằm, trườn, ḅ, nháo nhác.
Tiếng đập đục rầm rập từ
những cơ sở ngoại quốc, những khối
cửa sắt lay động, phá bung, những tấm
kiếng tủ lớn bị đập vỡ, đồ
đạt kéo lê hỗn độn, vội vàng trên
mặt đường. Người mỗi lúc mỗi
đông. Người dồn dập ùn ùn, la ó, chưởi
thề, giành giựt. Đám đông chạy về phía
Building Brink, khu Đồn Đất, nhà thương
Grall, những nơi có cơ sở của Mỹ
kiều, những văn pḥng mà chủ nhân đă
bỏ đi. Bất chợt, tất cả lắng
lại để nghe rất rơ .. Có người tự
tử. Có người mới bắn chết. Ai? Lính
hả? Không biết, chỉ thấy mặc đồ lính
ḿnh. Ở đâu? Ở ngoăi, chỗ tượng
Thủy Quân Lục Chiến.. Lời trao đổi
đứt khúc, vội vă, mất hút giữa những
tiếng thở dồn dập, bước chân cuống
cuồng nôn nóng của đám đông đang hăm
hở tiến tới những kho hàng, cơ sở đầy
ắp vật dụng, thức ăn, rượu, bia.
Tiếng súng nổ, đạn bay lên trời.. Và
những bóng người chạy lúp xúp vào cổng Ṭa
Đô Chính. Anh đưa máy h́nh lên làm động tác
quen thuộc, thuần thục hằng thực hiện trước
kia nơi những chiến trường lửa đạn
vây bủa. Đồng thời anh chợt nhói đau,
nói thầm.. Đây là lần cuối cùng. Đây là
giờ cuối cùng với cảm giác cạn ly rượu
ân huệ hành quyết trước khi bịt mắt
dẫn đi bắn. Anh đi theo đám lính cộng
sản với hai thanh niên cầm cờ đỏ
chạy vào chiếm Ṭa Đô Chánh. Thoáng rất
ngắn, anh ngừng lại, liếc về phía khối
tượng đài Thủy Quân Lục Chiến, nơi
có Người Lính vừa chết. Buổi Sáng 30 tháng
Tư, 1975. Chen giữa âm sắc xích xe tăng đổ
nhào cửa Dinh Độc Lập có tiếng nổ khô
nhỏ của viên đạn ghim vào, nằm sâu trong
đầu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia NGUYỄN VĂN
LONG. #4.4/ Anh lên yên, nhấn mạnh bàn
đạp,
động tác không chủ đích đi dọc
đường Lê Văn Duyệt, qua Chợ Đũi,
nơi các bạn hôm qua hằng vui vầy, sống động..
Anh đạp dài theo Lê Văn Duyệt giữa gịng âm
động dồn dập của Sài G̣n đang hồi
tẫm liệm với nhịp chày vồ dộng
mạnh xuống trăm, ngàn quan tài. Mà quả thật
có nhiều quan tài của những người vừa
chết.. Đến trước cổng trại
Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn
1 Dù, gặp Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Tiểu
đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Dù, Khóa 20 Đà
Lạt. Anh hỏi Hạnh: “Bây giờ bạn tính
sao?” Tṛng mắt người bạn khô khan ráo
hoảnh sau bao ngày đêm không ngủ. Hạnh nói
dứt khoát, dẫu mệt nhọc, rời ră: “Tôi c̣n
đến 500 người lính, tất cả các đại
đội trưởng đang đợi lệnh tôi.
Anh xem tôi có thể làm ǵ, đi đâu?!” Có một xác
con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ
bao giờ lên mặt đường. Một cô gái
mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác
chiếc xe đạp mini cạnh lề đường,
b́nh thăn, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy
góc cạnh thây đứa trẻ chết. Anh hỏi cô
gái: Cháu chụp tấm h́nh nầy làm ǵ trong khi không dám
nh́n đến thây đứa bé mà giờ nầy đă
miết xuống mặt nhựa đường do đám
người chạy loạn từ khu Ngă Tư Bảy
Hiền dẫm lên. Cô gái nhỏ trả lời mau chóng:
Chụp để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy
trước khi bọn chúng rẫy chết! Giọng cô
nhỏ đanh lại, mắt quắt lên sau lớp kính
trắng. Anh thoáng kinh hăi v́ chứng kiến một
điều ghê rợn: “Hóa ra Sự Ác do cộng
sản giáo dục có thể chụp xuống ḷng người
mau chóng đến thế sao?” Bấy giờ chỉ
mấy mươi phút sau lệnh đầu hàng của
Dương Văn Minh. #4.5/ Một trung đội lính Dù
mà
thật sự chỉ khoảng hơn một tiểu
đội giữ nhiệm vụ an ninh cư xá sĩ
quan Bắc Hải đặt dưới quyền
chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung
Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn
Dù. Chuẩn Tướng Hậu trăi chiếc bản
đồ trên mui xe jeep, bàn tính với những viên sĩ
quan. Khi biết lệnh đầu hàng đă thi hành, ông
vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời
nguyền rũa, bỏ vào nhà.. Anh nói với viên
thiếu úy trung đội trưởng: Tôi vừa
gặp ông Hạnh ngoài cổng Tiểu Đoàn 1. Ông
Hạnh không có ư kiến, bảo anh em ai về nhà
nấy. Nhưng viên thiếu úy trả lời quyết
liệt: “Tôi không đầu hàng, tôi với trung đội
sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu..”.
Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội,
hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển.. Trung đội
lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường
Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương,
đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng
bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù
của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến
bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng
binh Ngă Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành ṿng tṛn,
đưa súng lên trời đồng hô lớn.. Việt
Nam Cộng Hoà Muôn Năm.. Con chết đây cha ơi!
Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng
bực nỗ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất
nước Miền Nam. #46/Sau nầy, anh
biết thêm, trên đoạn đường anh vừa
đi qua, ngơ nhỏ băng ra Chợ Ông Tạ, trong
một căn nhà đă diễn nên hoạt cảnh uy
nghi bi tráng của cả một gia đ́nh quyết
tử cùng vận nước. Thiếu Tá Đặng Sĩ
Vĩnh thuộc Khoá 1 Nam Định, chuyên ngành t́nh báo
đặc biệt, biệt phái ngoại ngạch qua ngành
viễn thông, phụ trách đường giây quốc
ngoại. Người con trai lớn của gia đ́nh,
Trung Úy Đặng Trần Vinh sĩ quan Pḥng 2 Bộ
Tổng Tham Mưu.. Hai người cùng trao đổi
lời đối thoại sau khi có lệnh đầu hàng..
Tùy con, riêng bố đă quyết như đă nói
với con từ trước. Nếu bố đă
quyết như thế, con và các cháu cũng đồng
ḷng. Toàn gia đ́nh uống chậm những liều
thuốc độc cực mạnh đă chuẫn
bị từ trước. Cuối cùng Trung Úy Đặng
Trần Vinh kết thúc bi kịch với viên đạn
bắn tung phần sọ năo sau khi đứng chào
tấm Đại Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
với lời hô khiến sông núi cũng quặn
thắt thương đau.. Việt Nam Cộng Ḥa Muôn
Năm! #47/Ở Vùng IV, đồng bằng châu
thổ Sông Củu Long, chị Nguyễn Thị Thàng
vợ một Nghĩa Quân Đồn Giồng Trôm, thay
chồng giữ đồn đến trái lựu đạn
cuối cùng. Chị kết thúc đời ḿnh bên
cạnh thây của chồng, các con, với những vũ
khí, máy truyền tin đă bị phá hủy.. Không
để cho Việt cộng một cái ǵ cả! Người
chồng đă dặn chị trước khi lâm tử.
Cùng lần với những danh tướng vị
quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ,
Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú,
Hồ Ngọc Cẩn… rất nhiều người không
ai biết cấp thiếu, trung úy kể cả binh sĩ,
hạ sĩ quan,.. Cũng không thiếu những người
dân, những người dân thường đă
chết cùng lần vĩnh quyết Miền Nam. Anh đi
qua biên giới tử sinh nầy với mặc cảm
phạm tội – Tội đă sống sót. Đấy
là cảm ứng có thật từ ngày 15 tháng 3 khi theo
đoàn người di tản dọc Tỉnh Lộ 7
từ Pleiku về Phú Bổn, xuống Tuy Hoà.. Khi đứng
trên Đèo Hải Vân ngày 25 tháng 3, nh́n đoàn người
chạy loạn từ Quảng Trị, Huế vào Đà
Nẵng. Khi nghe ra tiếng hờn đau ai oán của người
đàn bà chân trần, tóc rối, lật vạt áo dài
ra để thấy đứa con nhỏ đă chết
từ lâu trên tay. Nay sáng 30 Tháng Tư, anh đi về
nhà với màn nước mắt pha máu.. Máu trên áo,
ở đầu ngón tay, nơi cánh mũi gây gây,
nồng gắt mùi nồng lạnh do khi anh đến
gần, cúi xuống chụp h́nh Thiếu Úy Thái và
những người lính nhảy dù tự sát. Mắt
người chết nh́n anh trừng trừng khốc
liệt. Không hiểu anh đă về đến nhà theo
lối nào, nhưng quả thật đây thật là
đoạn đường dài nhất, gớm ghê
nhất anh vừa đi qua với cổ đắng,
miệng khô rốc, trí óc vỡ loăng trỗng không. Hậu
từ – “Người
Nhật là một dân tộc vĩ đại qua nghi
lễ hiến tế, tức Sepuku (mỗ bụng tự
sát) khi danh dự cá nhân, tập thể, tổ quốc
bị xúc phạm. Dân tộc Việt Nam không có nghi
thức uy hùng, dũng cảm ấy. Tuy nhiên, Người
Việt cũng có phương thức riêng để bày
tỏ Ḷng Yêu Nước, cách ǵn giữ phẩm giá
Con Người. Người Việt xử dụng Cái
Chết để chứng thực nguyện vọng kia
qua cách thế im lặng và đơn giản nhưng không
kém phần cao thượng. Cuối cùng, bi kịch không
chỉ xẩy ra với thời điểm 30 tháng tư,
1975 mà sau đó, suốt hai thập niên 70, 80, hai
triệu người Việt Nam, không phân biệt người
Nam, hay người Bắc những người đă
sống lâu dài dưới chế độ cộng
sản Hà Nội từ 1945, từ 1954.. Tất cả
đă cùng phá thân băng qua biển lớn, xuyên
rừng rậm vùng Đông-Nam Á, với giá máu 600.000 người
chết trên đường di tản ra khỏi nước.
Hóa ra Dân Tộc Việt, những người Việt
Nam b́nh thường đă đồng lần thực
hiện một điều mà họ không hề diễn
đạt nên lời: Chết v́ Tự Do để
bảo vệ Phẩm Giá, Quyền Làm Người. Người
Việt Nam đă và đang hiện thực điều
mầu nhiệm nầy qua từng ngày vượt
sống trên quê hương khổ nạn, với chính
thân xác của ḿnh. Viết
lại sau 45 năm Dâng lên Tổ Quốc, Và Anh Linh Người
Việt đă lâm tử trong Lần Thật
Chết Với Quê Hương. Cali, 30 Tháng Tư,
1975-2020 Phan Nhật Nam |