‘Người
Nhái’ Trần Xuân Tin và những công tác đặc
biệt chưa thố lộ Lâm Hoài Thạch/Người Việt |
“Người Nhái” Trần Xuân Tin ở Little
Saigon. (H́nh: Lâm Hoài Thạch/Người Việt) WESTMINSTER, California (NV) – Nức ḷng v́
trách nhiệm bảo vệ đất nước,
Trần Xuân Tin, chàng trai quê Nha Trang nhập ngũ vào Tháng
Ba, 1969, tại quân trường Quang Trung để
học khóa căn bản quân sự. Sau đó, ông
được nhập
Khóa 5/69 Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ra trường Tháng Tư,
1970, ông về học Khóa
4 Người Nhái ở Trung Tâm Huấn Luyện Người
Nhái Cam Ranh. Sau khi ra trường Sĩ
Quan Trừ Bị Thủ Đức, những bè bạn
của ông trong khóa này phần nhiều chọn về
những binh chủng tác chiến để thỏa chí
“tang bồng hồ thỉ,” như Nhảy Dù,
Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến…
Riêng ông lại muốn trở thành một Người
Nhái. Lư tưởng này bắt nguồn từ h́nh
ảnh hào hùng của người anh họ học Khóa
2 Người Nhái. Mặc dù anh họ của ông ra trường
với cấp bậc hạ sĩ quan, nhưng bọn du
đảng trong xóm hay xóm khác ở Nha Trang khi nghe
nhắc đến tên đều kiêng dè. Trong thời
chiến, đúng là danh tiếng của đơn
vị Người Nhái đă ảnh hưởng đến
tâm lư xă hội khiến người ta nể phục. Thời gian huấn
luyện Người Nhái Năm 1970, Trung
Tâm Huấn Luyện Người Nhái Quân Lực VNCH
thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng II ở Cam
Ranh đă có các khóa
huấn luyện Người Nhái cho sĩ quan, hạ sĩ
quan và đoàn viên thủy thủ. Lúc bấy giờ, Tư
Lệnh Hải Quân Vùng II Duyên Hải là Hải Quân
Đại Tá Trịnh Quang Xuân, và chính ông đă
chủ tọa cho các lễ nhập khóa Người Nhái. Ông Trần Xuân Tin
kể: “Những
quân nhân chọn đơn vị Người Nhái đều
phải trải qua những khóa huấn luyện đầu
tiên là lội giỏi, chạy bền và chịu đựng
cao. Sức chịu đựng bao hàm ư chí, sự am tường
chiến thuật, khả năng biến báo trong trường
hợp khẩn cấp… Trải qua các ṿng trui rèn
về cá thể cũng như tinh thần, nếu ai không
chịu nổi th́ phải bị quân trường
loại ra. Những người vượt qua được
sự rèn luyện đanh thép trên th́ được
đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Người Nhái
ở Cam Ranh. Và, nếu ai có tŕnh độ Anh Ngữ
cao th́ sẽ được sang Hoa Kỳ để
học khóa huấn luyện Người Nhái ‘Team One’
và ‘Team Six’ ở Puerto Rico, New York.” “Người Nhái” Trần Xuân Tin, h́nh
chụp năm 1972. (H́nh: Trần Xuân Tin
cung cấp) Theo ông, trong thời
gian huấn luyện, các khóa sinh không mặc quân
phục, không đeo cấp bậc mà chỉ mặc
một quần đùi màu vàng và chỉ mang một lưỡi
lê (dao găm) bên hông người. Mọi khóa sinh
trở nên b́nh đẳng dưới sự hướng
dẫn của các huấn luyện viên hạ sĩ quan
hay đoàn viên của những khóa đàn anh trước.
Đến
khi ra trường, chính vị Tư Lệnh Hải Quân
Vùng II Duyên Hải sẽ trả lại cấp bậc
cho từng khóa sinh. Đoạn đường
huấn luyện đầy cam go và nguy hiểm như d́u
một người nặng cân từ biển khơi vào
bờ cách khoảng bốn đến năm hải lư.
Hoặc khi xác định được tọa độ,
các khóa sinh vừa lội vừa d́u bạn ḿnh trong
đêm tối để đến mục tiêu. Các khóa
sinh không được rời khỏi toán, ít nhất
là phải đi đôi với nhau. Trong tuần “Địa
Ngục,” các khóa sinh hầu như phải thức
trắng đêm, chỉ ngủ được vài mươi
phút trên băi cát và sóng biển; c̣n những thời gian
khác th́ phải luyện chịu đựng gian khổ
từ thể xác đến tinh thần như chạy
bền, học cách đặt và tháo gỡ những
loại ḿn bẫy, học sử dụng vũ khí đặc
biệt để chống đặc công. Ngoài ra, c̣n
phải trau giồi khả năng linh hoạt khi gặp
trở ngại,… Sau tuần “Địa
Ngục,” từ 6 giờ chiều, huấn luyện viên
thả 10 khóa sinh ra giữa biển khơi cho đến
2 giờ sáng hôm sau phải t́m ra mục tiêu đă
ấn định, có khi mục tiêu ở trên núi cao hay
trong rừng sâu hiểm độc. Người Nhái và
những công tác đặc biệt Đơn vị Người
Nhái thuộc loại đặc biệt nên tin tức
trong đơn vị không được tiết lộ
ra bên ngoài. Trần Xuân Tin và đồng đội
thực hiện những công tác bí mật mà không ai
được biết, ngoại trừ những
đơn vị bạn có chung mục tiêu, hoặc
những đơn vị đóng quân gần nơi
thực hiện công tác. Đặc biệt nhất là
chỉ có Quân Trường Người Nhái th́ mới
thấu rơ các anh thực hiện những công tác ǵ.
Trong tinh thần bảo mật, cho đến bây
giờ, có những công tác đặc biệt mà các
chiến sĩ Người Nhái vẫn chưa thố
lộ cho ai biết. Trần Xuân Tin (phải) tại Quân Trường
“Người Nhái” Cam Ranh. (H́nh: Trần Xuân Tin
cung cấp) C̣n các Giang Đoàn
Thủy Bộ hoặc Giang Đoàn Trục Lôi trên các
sông gạch trực diện với địch hằng
ngày. Các chiến sĩ đó đă chiến đấu
dũng cảm và thậm chí hy sinh cả tính mạng
để bảo vệ hải tŕnh. Người Nhái
Trần Xuân Tin được gởi lên trường
Quân Cụ trong năm tháng để học tháo gỡ
chất nổ, đạn dược, bom, ḿn bẫy
ở trên bờ. Sau khi khóa học hoàn tất, ông
được nhập khóa học chuyên về chất
nổ dưới nước tại Quân Trường
Người Nhái Cam Ranh. Các loại ḿn mà Người
Nhái đă học qua đều thuộc loại nguy
hiểm. Ông Tin kể: “Lúc
bấy giờ, cơ quan MACV (Military Assistance Command Vietnam
– Bộ Chỉ Huy Viện Trợ Quan Sự Hoa Kỳ
tại Việt Nam)
c̣n hoạt động, th́ người Mỹ đă chiêu
mộ một số hồi chánh viên để làm công
tác gián điệp nhị trùng. Những người này
vào vùng địch họp rồi trở ra cung cấp
tin tức cho các toán Người Nhái. Chính v́ vậy,
chỉ trong ṿng một năm, thành quả của các công
tác của Liên Đoàn Người Nhái rất thành công
tốt đẹp, bằng hoặc hơn cấp trung
đoàn thiện chiến. V́ có khi chỉ có hai cho đến
bốn toán Người Nhái lại có thể đánh úp
được cả hai đại đội của
địch quân. Đó là những chiến công đều
được ghi danh, nhưng không bao giờ tiết
lộ ra ngoài. Chỉ
có Bộ Tổng Tham Mưu và Ban Quấn Huấn là
biết rơ.” Các chiến sĩ Người
Nhái biết sử dụng mọi vũ khí như AK,
K-54 (của địch), M-16, M-15, M-79, Đại Liên
M-60, Colt-45 (của VNCH). Từ những chuyến công tác
về lại thành phố, họ thường bị Quân
Cảnh xét hỏi, v́ theo luật quân đội,
họ chỉ được mang trên ḿnh súng cá nhân, nhưng
Người Nhái lại mang theo nào AK, M-16 kể cả
Đại Liên M-60 về thành phố. V́ thế, Quân
Cảnh tạm giữ họ lại để sưu
tra. Đến khi nhân viên của Liên Đoàn Người
Nhái đến bảo lănh, th́ họ đă giải thích
cho Quân Cảnh biết, những vũ khí của địch
là những chiến lợi phẩm mà toán Người
Nhái mới vừa thực hiện xong chuyến công tác
mật. Trong sự vụ
lệnh của Người Nhái là đương
sự có quyền sử dụng tất cả những
quân phục để ngụy trang và để râu tóc.
V́ có chuyến công tác kéo dài từ một đến
hai tháng, nhưng đến khi công tác xong th́ họ
vẫn thực hành theo tiêu chuẩn của quân phong, quân
kỷ. Hoạt động
của Liên Đoàn Người Nhái Phù hiệu đơn vị “Người
Nhái.” (H́nh: Trần Xuân Tin cung cấp) Liên
Đoàn Người Nhái của Hải Quân VNCH có ba
đơn vị chính: Một là Hải Kích,
tổng cộng có bảy khóa, xuất phát từ UDT
(Underwater Demolition Team). Các toán viên được
huấn luyện qua chiến thuật rộng hơn
với danh hiệu Navy
SEALs (Sea-Air-Land-Teams) để có thể
hoạt động trong cả ba môi trường là
chiến đấu trên không, nhảy dù bằng
trực thăng vận đeo theo b́nh hơi xuống
biển khơi, sông rạch hoặc trong đất
liền. Đơn vị Hải Kích chuyên đi vào vùng
địch đánh phá, lấy tin tức nên công tác
rất nguy hiểm. Biệt đội Hải Kích c̣n
được gọi là “Biệt
Đội Mặt Rằn,” v́ họ phải
vẽ mặt rằn ri khi thực hành công tác bằng
những chiếc xuồng nhỏ với động cơ
giảm thanh đi từ ngoài biển vào những sông
rạch nhỏ. Một toán viên phải ở lại
một địa điểm ấn định để
canh giữ xuồng rồi chờ rước toán
về, v́ đó là vận mệnh của anh em trong toán.
Những người c̣n lại tuần tự đi theo
tiền sát viên mang Đại Liên M-60. Khi xâm nhập vào
vùng địch, họ thường ngụy trang đội
nón cối, mang dép B́nh Trị Thiên, có lúc bị địch
phát hiện th́ toán dùng ám số để tránh bị
bắt, rồi t́m đường rút. Hai là Biệt Đội
Tháo Gỡ Chất Nổ và Chống Đặc Công,
tổng cộng có sáu khóa. Nhiệm vụ của
họ là hằng đêm, những Người Nhái này
phải lặn kiểm soát xung quanh mạn tàu dưới
nước để tránh đặc công địch có
thể gài ḿn các tàu chiến, các thương
thuyền địa phương hay ngoại quốc
đang neo đậu tại vùng biển thuộc chính
phủ VNCH kiểm soát. Ba là Đơn
Vị Trục Vớt, đơn vị này không
huấn luyện theo khóa, v́ quân trường sẽ
gởi những toán viên Trục Vớt đi tu
nghiệp ở Phi Luật Tân. Nhiệm vụ của toán
Người Nhái này là mỗi khi có chiếc tàu nào
đó bị ch́m do tai nạn, hoặc bị địch
đánh ch́m th́ Giang Đoàn Người Nhái Trục
Vớt sẽ làm nhiệm vụ trục vớt để
khai thông thủy tŕnh. Khóa 4 Người Nhái tại Trung Tâm
Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. (H́nh: Trần Xuân Tin
cung cấp) Giang Đoàn Trục
Vớt đă từng trục vớt chiếc Giang Pháo
Hạm HQ-327 mang rất nhiều đạn dược
bị ch́m ở Kênh Chợ Gạo, Mỹ Tho. Đây là
một vùng khá nguy hiểm nên đ̣i hỏi sự
phối hợp của ba đơn vị: Chiến đấu
trên bờ, lặn xuống gỡ ḿn và trục vớt
tàu. Năm 1971, trong một
đêm mưa gió, toán của ông bắt được
một Việt Cộng từ Nam Ô, Đèo Hải Vân,
người này đang t́m cách vận chuyển ḿn qua bán
đảo Sơn Trà. Đó là những bẫy ḿn
cực kỳ nguy hiểm. Có lần chiếc Trans Colorado
bị đặc công đặt loại ḿn này. Lúc
đó, các thủy thủ đoàn phải rời
khỏi tàu, chỉ có hạm trưởng ở lại
để lái tàu vào băi cát chờ toán Người Nhái
tháo gỡ và cắt ḿn. Trục vớt tám
Thiết Giáp M-84 bị ch́m dưới sông Tuy trực thuộc
Biệt Đội Tháo Gỡ Chất Nổ Chống
Đặc Công, nhưng mỗi lần có tàu ch́m, ông
Trần Xuân Tin đều tham gia công tác trục
vớt. Năm 1973, khi đang làm
trưởng toán ở Cát Lái, toán của ông được
gọi đến cầu Quân Cảng để ḍ t́m
tọa độ của tám chiếc thiết giáp M-84
bị rơi xuống ḷng sông. Nguyên do là các nhân viên có
nhiệm vụ chở những chiếc thiết giáp, v́
buộc cột không đúng kỹ thuật, nên khi tàu
lớn đi ngang qua gây sóng đánh khiến sà lan tṛng
trành lật ch́m những chiếc thiết giáp xuống
sông. Bối cảnh thời
bấy giờ là phía Hoa Kỳ yểm trợ cho VNCH trên
nguyên tắc “một đổi một.” V́ vậy,
khi những chiếc thiết giáp nói trên đă qua
thời gian hoạt động, chính phủ VNCH phải
đưa trả chúng để phía Hoa Kỳ, rồi
được Hoa Kỳ đổi cho những chiếc
mới. Ông Tin kể:
“Lệnh công tác trục vớt c̣n đưa ra yêu
cầu là phải thực hiện càng nhanh càng tốt
để bảo toàn các thiết bị máy móc của
tám chiếc thiết giáp. Công việc hết sức
vất vả, bởi v́ do nước sông chảy
xiết lại thêm nước bùn khuấy đục nên
mọi thứ chỉ có thể quan sát mờ mờ
trong tầm nh́n hạn chế. Vậy mà tám chiếc
thiết giáp đều được trục lên
chỉ trong ṿng 10 ngày. Đó cũng nhờ các toán Người
Nhái đă dày công khổ luyện, và đă học chi
tiết của các loại thiết giáp nên họ đă
nắm rơ chỗ nào có thể câu móc được và
sử dụng loại cần cẩu nào cho phù
hợp.” Toán “Người Nhái” trong ngày Lễ
Thánh Tổ Trần Hưng Đạo tại Bến
Bạch Đằng, Sài G̣n. (H́nh: Trần Xuân Tin cung
cấp) Trục vớt trực
thăng rơi xuống biển Một kỷ niệm
khiến Người Nhái Trần Xuân Tin không bao giờ
quên được, và ông rất hănh diện khi
thực hiện xong công tác này. Đó là sự kiện
xảy ra vào 25 Tháng Hai, 1972, khi Chuẩn Tướng
Phan Đ́nh Soạn, tư lệnh phó Quân Đoàn 1 và
Quân Khu 1, và Đại Tá Ngô Hán Đồng, chỉ huy
trưởng Pháo Binh, cùng Thiếu Úy Nguyễn Đ́nh
Thư, sĩ quan tùy viên của Tướng Soạn, cùng
bay trực thăng từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
1 đến họp với phía Quân Đội Hoa Kỳ
tại tàu Hải Quân Mỹ đậu ngoài khơi
Đà Nẵng. Người lái chiếc trực thăng
này là một thiếu tá phi công Mỹ. Trên chuyến
bay trở lại đất liền, trực thăng
bị rơi và gây tử thương cho cả đoàn.
Chỉ có xác của Thiếu Úy Thư do không có
cột dây an toàn đă nổi lên qua vài ngày sau, c̣n xác
của Tướng Soạn, Đại Tá Đồng và
thiếu tá phi công vẫn không t́m được. Sau đó, chiếc tàu Mỹ đă
thả phao nổi để đánh dấu tọa độ
chiếc trực thăng bị rơi. Thời đó,
Giang Đoàn Trục Vớt của Hải Quân Hoa Kỳ
đang đóng ở bán đảo Tiên Sa, nên họ
muốn thực hiện việc vớt xác. Tuy nhiên, sóng
gió và độ sâu của biển cả khoảng 500 mét
đă khiến họ không t́m ra tọa độ trong ṿng
ba tuần lễ, lại thêm có một chiếc tàu
đánh cá của dân thấy một phao nổi đă vô
t́nh lấy phao nổi đó đi. Phía Quân Đội
Hoa Kỳ yêu cầu VNCH xác định lại tọa
độ của chiếc trực thăng bị
rớt. Tư Lệnh Phó Hải Quân Vùng I là Trung Tá
Nguyễn Hữu Xuân cho lệnh toán Người Nhái
của Trần Xuân Tin lên nhận công tác này. Thời đó, chưa có trang thiết
bị tối tân như bây giờ để ḍ t́m tàu
ch́m hay máy bay bị rớt xuống biển. Trực thăng
bị rớt từ trên cao có thể bị vớt ra
từng mảnh, nên khả năng để t́m
được tọa độ chính xác th́ rất là
mông lung. Trần Xuân Tin mới nghĩ ra cách tŕnh lên
cấp trên là xin cho ba chiếc ghe giả cào của ngư
dân đi song hành trên vùng mà chiếc trực thăng
bị rớt, v́ những chiếc ghe giả cào có lưới
cào bắt cá tôm sâu xuống đáy biển, và họ
di chuyển để bắt cá tôm, nên có thể ghe
sẽ cào trúng vào chiếc trực thăng bị
rớt. (Lâm Hoài Thạch) Kỳ cuối: “Người Nhái” Trần Xuân Tin những ngày cuối cùng trong ṿng chiến |