Những Mùa Xuân qua Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
|
Trong
đời người, chắc chắn ai cũng có
những mùa Xuân để nhớ măi: Xuân buồn, Xuân
vui, Xuân hạnh ngộ... Riêng
tôi, vẫn nhớ măi về những mùa Xuân của
một thuở Thanh B́nh, vào thời kỳ đầu
của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa,
của tuổi ấu thơ, với những chiều ba
muơi Tết xum xoe, vuốt ve tà áo mới, chờ trông
đêm Giao thừa chóng qua, để sáng mai mùng
một Tết, mặc áo mới, chạy ra con ngơ dài lát
đá xanh, hai bên có hàng chè tàu thẳng tắp đă
đuợc cắt xén cẩn thận từ chiều hôm
truớc; để ra đứng nép ḿnh vào thân cây
buởi; để xem cái đầu của ḿnh đă
cao hơn cái vết khắc trên thân cây buởi hay chưa? Ngày
ấy, tôi vẫn thường dùng những mẩu
đá dăm khắc vào thân cây bưởi, phía trên
đầu của ḿnh; để thỉnh thoảng tôi
ra đứng đó, nép vào thân cây, để xem ḿnh
đă cao lên đuợc bao nhiêu. Tôi đâu biết
tuổi của cây bưởi c̣n non hơn tuổi
của tôi nữa, nên tôi cao thêm một tí, th́ cây
buởi cũng cao thêm; bởi tôi thích làm người
lớn, v́ nghĩ làm nguời lớn sẽ vui thích hơn
nhiều. Rồi
tuổi thơ đă đi qua, khi đuợc làm
nguời lớn rồi th́ mọi thứ đă không như
cái đầu non nớt của tôi đă tưởng.
Bởi lúc ấy, Miền Nam Tự Do đă bắt
đầu những bất ổn, khi cái gọi là
“Mặt trận giải phóng miền Nam” đă ra
đời vào ngày 20/12/1960. Và, tuy đă được
ngụy trang bằng cái mỹ danh “Mặt trận
giải phóng miền Nam” nhưng thực ra là một
tổ chức khủng bố trực thuộc đảng
Cộng sản Bắc Việt. Sở dĩ tôi gọi là
khủng bố v́ tôi đă chứng kiến những hành
vi tàn bạo, độc ác, dă man của Việt
cộng từ khi c̣n bé. Mặc
dù vậy, nhưng vào thời kỳ ấy, nhờ có
Ấp Chiến Lược nên người dân
ở nông thôn vẫn c̣n có được một
cuộc sống tương đối yên vui. Mô
h́nh của một Ấp Chiến Lược:
Tại
quê tôi, Ấp Chiến Luợc là những ṿng
đai có hai ṿng rào gai rừng, ở giữa hai ṿng rào
là những giao thông hào sâu quá đầu nguời,
rộng hơn hai mét, do dân làng cùng nhau đào, dưới
ḷng giao thông hào có cắm chông làm bằng những
gốc tre già đă được chẻ ra, vót
nhọn, sắc, có ba cạnh. C̣n ṿng rào là những
tấm gai cứng nhọn, có bề rộng hai mét,
bề cao hơn hai mét được ghép lại. Tôi
xin nhắc rằng: V́ để bảo vệ tánh
mạng và tài sản của chính gia đ́nh của ḿnh
nên mọi người dân quê đều hưởng
ứng, họ rất vui vẻ với công việc này.
Đặc biệt là lớp thanh niên, với những
nụ cười, tiếng hát với nhau trong lúc cùng
nhau thực hiện Ấp Chiến Lược. Ngoài ra,
người dân c̣n dùng những chiếc thùng thiếc,
loại thùng đựng dầu hỏa, hoặc thùng gánh
nước đă bị hỏng, đem đục
lỗ, cột dây thừng nhỏ được
tết bằng những sợi mây rừng, ban đêm
sau 20 giờ, các anh Dân Vệ đóng cổng Ấp
lại, rồi họ đem giăng dọc theo bờ rào
Ấp Chiến Lược và các lối đi ở
b́a vuờn, để ngăn bước chân của
Việt cộng nằm vùng ban đêm thường
lẻn xuống giết hại dân lành và cuớp
gạo, muối của dân mang lên rừng để
sống. Bọn trẻ như chúng tôi th́ thích đi giăng
thùng lắm, chúng tôi đ̣i các anh Dân Vệ phải
cho chúng tôi đi theo, giăng thùng xong chúng tôi c̣n trông
cho có ai đó, hoặc con vật ǵ nó vướng dây
để được đánh mơ c̣n nếu
được “la làng” th́ càng thích hơn nữa. Tôi
vẫn nhớ măi về những năm tháng ấy
thật vui, tôi nhớ dân quê tôi c̣n “phát minh” ra phong
trào đánh mơ và la làng. Ngoài các trạm gác đêm
của Dân Vệ, th́ nhà nào cũng sắm ra nhiều
chiếc mơ tre; mỗi khi có tiếng thùng đổ th́
mọi nguời đánh mơ “ba hồi một dùi”, nghĩa
là đánh ba hồi dài, sau đó đánh một
tiếng, c̣n nếu thấy có bóng dáng nguời
xuầt hiện th́ đánh mơ “hồi một”, nghĩa
là đánh một hồi rất gấp, rồi kèm theo
chỉ một tiếng. Lúc đó mọi nguời không
ai được đi lại phải chờ cho các anh
Dân Vệ đi tuần tra xem tại sao thùng đổ,
nếu là Việt cộng nằm vùng xuất
hiện, th́ dân vệ sẽ tri hô và mọi nguời
đồng thanh la làng: “Cộng sản
bớ làng, cộng sản bớ làng”; sau
đó, dân làng tay cầm chiếc gậy có sợi dây
thừng cuộn ở phía trên, tay cầm đuốc sáng
trưng để vây bắt Việt cộng. Chính v́
thế, mà tôi nhớ người dân đă bắt
đuợc bốn cán bộ Việt cộng nằm vùng,
nhưng tôi chỉ nhớ tên hai nguời là Duơng
Đ́nh Tú và Đỗ Luyện, cả hai đuợc
đưa ra ṭa. Sau đó, họ ra Côn Đảo, đến
năm 1973 khi trao trả tù binh họ chọn con đuờng
ra Bắc. C̣n nếu do một con chó th́ họ sẽ la
to: “Bà con ơi! chó vướng thùng, đừng
đánh nữa”, th́ dân làng họ mới thôi
đánh mơ. Tôi
vẫn nhớ về những đêm vui kỷ niệm;
ngày ấy, đêm nào bọn trẻ con trong làng cũng
trông mong cho có ai đó, hay con chó, con mèo vướng
dây giăng thùng để đuợc đánh mơ, v́
cả làng đều đánh mơ ḥa với tiếng
trống ở trụ sở thôn làng, nghe thật vui tai,
chúng tôi đứa nào cũng thích, cũng đ̣i cha
mẹ sắm cho những chiếc mơ thật tốt, kêu
thật to. Chúng tôi thích đánh mơ, đánh dai lắm,
cho đến khi các anh Dân Vệ đă la to lên
nhiều lần: “Chó vướng thùng, bà con
ơi đừng đánh mơ nữa” các anh
cứ la c̣n chúng tôi th́ vẫn cố đánh thêm
mấy hồi nữa, v́ mấy khi thùng đổ để
đuợc đánh mơ đâu. Tôi
cũng không bao giờ quên được những
kỷ niệm ở làng tôi Tiên Giang Thượng, làng
Thạnh B́nh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam, bên
cánh Đồng Lớn là những vườn chè, đồi
tiêu, đồi quế, nương dâu trải dài soi bóng
xuống gịng sông Đá Giăng xanh ngát. Quê tôi,
miền Trung, nhưng đất cày lên không sỏi
đá, cấy, tỉa, trồng, không cần tưới
nước v́ quanh năm đất ẩm, nhiều
mầu mỡ do phù sa của gịng sông Đá Giăng
mang đến. Dân quê tôi đa số theo Đạo
thờ Trời mà từ thưở xa xưa các vua Hùng
đă làm gương và khuyên con dân Việt hăy noi
theo. V́ vậy, hàng năm trong công việc nông tang
họ thường làm lễ Đảo Vũ để
cầu Trời xin cho mưa thuận gió ḥa, để
quanh năm ruộng đồng xanh tốt, cho lúa trĩu
bông, cho vườn dâu đâm chồi nẩy lá, để
nghe những tiếng kêu reo vui no nê từ những nong
tằm, để nghe những câu ḥ, tiếng hát
của các nam, nữ Thanh Niên Cộng Ḥa, của
một thời, mà tôi c̣n nhớ đôi câu: “Về
đồng quê, ta xây ngày mai tươi vui, trong gió mát
lành ḥa theo tiếng sáo bên đồi. Tiếng sáo êm
ru…ù… u…Tiếng sáo êm ru… ù…u… Tiếng sáo êm ru
trôi về bên cuối thôn…” Thuở
ấy, tôi, đứa bé thường hay mơ mộng,
mỗi buổi trưa Hè thường đi bẻ
những cành cây, của một loại hoa rừng không
tên, có những chùm hoa cánh mỏng, nhỏ màu
trắng, đem về cắm xuống đất trước
sân; loại cây này rất đặc biệt, là khi
những chùm hoa và những chiếc lá héo rũ, là lúc
từng đàn bướm đủ loại, đủ
sắc màu, chẳng biết từ đâu chúng bỗng
t́m bay đến rồi đậu chen chúc trên cành lá,
mỗi lúc như thế, tôi cứ ngồi lặng yên
dưới gốc cây Thiên Mộc Lan ở trước
nhà, để nh́n lũ bướm đến say mê quên
hết mọi chuyện trên đời. Và v́ loại cây
hoa này chúng vốn không có tên, nên tôi đă gọi chúng
là hoa Quy Điệp. Và
tôi vẫn nhớ những buổi chiều thường
được chị Thạnh, người con nuôi
của cha mẹ tôi dắt đi hái hoa kèn, có người
gọi là hoa “dủ dẻ” một loại hoa vào mùa
Hè nở ra năm cánh mầu trắng sữa, có mùi thơm
ngát bay rất xa. Mỗi buổi chiều sau khi hái hoa,
đem về nhà, chị Thạnh tôi đem gói cẩn
thận vào chiếc khăn voan nhỏ, đặt bên
chiếc gối, để hương kèn theo tôi vào
giấc ngủ. Khi hoa tàn nhụy kết thành những
quả nhỏ, dính liền từng chùm mầu xanh, h́nh
dáng giống như một nải chuối tí hon, đến
lúc chín lại có mầu vàng lại càng giống
nải chuối chín, ăn vào nghe ngọt lịm. Nhưng
đặc biệt là những chiếc lá, khi đem tách
làm đôi rồi vấn lại thành những chiếc
kèn, khi thổi lên âm thanh nghe rất lạ, nên chúng tôi
một lũ trẻ con, mỗi đứa tay cầm
đôi ba chiếc kèn, miệng tập thổi lên
những bài nhạc mà ḿnh yêu thích. Tôi cũng vậy,
cứ tập măi, cho đến khi tôi thổi lên
được một câu: “Chào
b́nh minh hoa ban mai lả lơi, nhạc dịu êm âm vang
theo ngàn nơi... sóng lúa chơi vơi xanh ngát chân
Trời...” V́
thế, anh Lê Văn Tiên hiện nay ở Úc châu, lúc
ấy dù nhỏ tuổi hơn Cha tôi nhưng anh vẫn
thường đến chơi chuyện tṛ với
Cha tôi, v́ đa số những người nhỏ
tuổi hơn Cha tôi lại thích đến chơi
với Cha tôi để nghe Cha tôi kể đủ
thứ chuyện; nhưng đặc biệt nhất là
những chuyện tiếu lâm, là được các
vị thích hơn cả. Bây
giờ Cha tôi, và Bác ruột tôi đều là lương
dân vô tội đă chết thảm dưới bàn tay
của Cộng sản. Tôi vẫn xem anh Lê Văn Tiên là
h́nh ảnh của Cha tôi vậy, mỗi lần đọc
thư của anh Lê Văn Tiên gửi sang, anh thường
nhắc đến con ngơ dài lát đá xanh của gia
đ́nh tôi và đă “vấn kèn cho cô bé
Tuyền cục cưng của ông Hai thổi” khiến
ḷng tôi bồi hồi, không sao cầm được nước
mắt!!! Hậu
quả của việc phá bỏ Ấp Chiến Lược: Mùa
xuân năm 1964, Quê hương tôi không c̣n thanh b́nh
nữa, bởi lúc ấy Nền Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Ḥa đă sụp đổ. Ấp
Chiến Lược bị phá bỏ, v́ như mọi
người đều biết, từ thưở xa xưa
tổ tiên chúng ta ở thôn quê, quanh vườn người
ta thường trồng tre, gai làm bờ rào, c̣n nhà th́
có bờ giậu, có cửa ngơ, làng th́ có cổng làng,
mục đích để pḥng gian, huống thay là trong
thời chiến tranh, lúc cái “Mặt trận giải
phóng miền Nam“ đă ra đời, th́ những
kẻ v́ ngu xuẩn hay cố t́nh kia lại ra lệnh
phá bỏ Ấp Chiến Lược, là phá bỏ
mọi trở ngại, khó khăn để cho Việt
cộng đánh chiếm các làng thôn một cách dễ
dàng. Tôi
đă chứng kiến những ngày Xuân 1964, đầy
khói lửa, hoang tàn, từng đoàn người
bồng bế, hoặc gánh con thơ chạy trốn, dân
quê tôi họ đă biết rất rơ về cái gọi
là “Giải phóng miền Nam“ v́ cũng những người
trong làng trước kia họ biết rơ là đảng
viên Cộng sản, sau đó, họ biệt tích,
rồi một ngày họ bỗng dưng từ trên núi
trở về lại tự xưng là “Giải phóng
miền Nam” Nên dân quê tôi đă phân biệt
Quốc/Cộng là hễ ở trên núi xuống là
Cộng sản, chúng nói ǵ họ cũng không nghe,
thấy bóng dáng Cộng sản đâu là họ t́m
đường chạy trốn, bởi họ có đầy
kinh nghiệm vào những năm “kháng chiến
chống Pháp” rồi. Ngày ấy, trong khi bọn Du kích
Việt cộng xông vào nhà tôi, đă bắn chết
Cha tôi, và bắt Bác ruột tôi giam, ṛi chết trong
“Trại cải tạo Đá Trắng”, th́ Việt
cộng đă bắt cả gia đ́nh tôi đưa vào
núi rừng, cho đến sáu tháng sau, gia đ́nh tôi
mới được giải thoát qua một cuộc hành
quân của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Chính
trong thời gian bị giam cầm này, tôi đă biết
được, có rất nhiều bà mẹ quê, đành
phải nuốt nước mắt để nhận làm
“Mẹ bộ đội” mà “con bộ đội”
đâu phải ít, v́ có những gia đ́nh có tới năm
bảy “con bộ đội” không biết từ
đâu nó ngang nhiên ôm tất cả vật dụng
của nó vào nhà, trong đó có cái “ruột tượng”;
một loại túi bằng vài, may có h́nh dáng hơi
giống như ruột tượng (voi), dùng để
chứa gạo, để mỗi lần đi “đánh
giặc” nó cũng ngang nhiên xúc gạo đổ
cho đầy rồi mang đi. Nó trơ trẽn
gọi các bà bằng “Mẹ”. Để rồi sau
đó họ phải nhịn ăn, bắt con thơ
phải chịu đói, cả nhà phải ăn khoai,
sắn, để dành phần cơm nuôi “anh trai ăn
no đánh thắng sau nầy sẽ đem no ấm cho
mọi người nhiều hơn”. Có con gà, cái
trứng cũng dành để “nuôi quân”. Và rồi
họ đă thấy tất cả, nên không lừa
bịp họ được. Và
cũng chính năm 1964, người Cha ruột của tôi
đă bị bọn du kích bắn chết, cả gia
đ́nh tôi kinh hoàng gào thét, rồi năn nỉ xin
được chôn cất Cha tôi, nhưng bọn du kích
cương quyết không cho. Chẳng những thế mà
tên Huỳnh Thuyên Trung đội trưởng Du kích, c̣n
móc tay vào cái xác chết của Cha tôi để
lấy ba mươi bảy ngh́n đồng (tiền
VNCH). Rồi bắt tất cả gia đ́nh tôi vào vùng
bị chiếm. Chúng tôi đă sống trong vùng
Việt cộng kiểm soát sáu tháng. Sau
đó, gia đ́nh tôi được tin anh Huỳnh Xanh,
là cháu nội của cụ Huỳnh Thúc Kháng, đă
đưa quân vào đem xác Cha tôi ra vùng an ninh chôn
cất. Cho đến một ngày gia đ́nh tôi
được giải cứu trong một cuộc hành
quân Việt-Mỹ. Ngay
hôm được giải thoát, chúng tôi đă đến
nhà của anh Huỳnh Huy, em ruột anh Xanh. Tôi c̣n
nhớ măi lúc ấy, anh Huy nói với Mẹ tôi: “Anh
em tôi đă lo chôn cất cho dượng ấm thân
rồi” Nói xong, anh Huy dắt chúng tôi ra sau nhà,
anh vừa nói vừa đưa tay chỉ: “Mả
của dượng ở chỗ ni cô nè” .
Đứng trước nấm mộ của Cha tôi,
cả nhà tôi chết lặng, những ḍng nước
mắt chảy dài tưới lên ngôi mộ cỏ
vừa mới lên xanh!!! Phần
Bác ruột tôi th́ bị chúng bắt đi vào
“Trại cải tạo Đá Trắng”. Ngày 13-3-1975,
khi quận Tiên Phước rơi vào tay của cộng
sản. Ngày 15-4-1975, Việt cộng đă bắt thanh
niên Tiên Phước “khởi công” phá bỏ trại
Đá Trắng vốn nằm dưới hầm, để
đưa trại tù này lên trên mặt đất. V́
thế, sau khi hoàn thành Việt cộng đă chính
thức đổi tên “Trại cải tạo Đá
Trắng” thành “Trại cải tạo T.154”
tại xă Phước Lănh. Sau 30-4-1975, đổi tên là
xă Tiên Lănh. Trại này, gồm có Trại chính:
Trại 1, và bảy phân trại khác, là “trại
cải tạo” lớn nhất của Quảng Nam-Đà
Nẵng, đă giam giữ hàng ngàn Quân-Dân-Cán Chính
Việt Nam Cộng Ḥa, sau khi ra tŕnh diện tại “chùa”
Pháp Lâm ở số 500, đường Ông Ích Khiêm,
Đà Nẵng. Bác
ruột tôi và các vị đă bị bắt cùng lúc
với Bác tôi, đă chết tại trại Đá
Trắng trong ṿng sáu tháng đầu v́ không chịu
được sự hành hạ và đói khát trong
hầm tù, chúng tôi đă được nghe những
lời kể lại của cụ Lê Uẩn người
cùng bị bắt với Bác tôi lúc ấy may mắn
sống sót trở về. Điều nầy không như
ông Bùi Tín đă nói: “Nếu bác Hồ c̣n
sống th́ không có các trại cải tạo ở
miền Nam.” V́ “Trại cải tạo
Đá Trắng” đă thành lập từ cuối năm
1960. Người đầu tiên ở quê tôi bị
bắt vào năm 1960 và chết tại trại nầy là
ông Nguyễn Phước Linh, Chủ Tịch Ban Đại
Diện Hội Đồng xă Phước An, (chủ
tịch xă). Nhưng không chỉ có ông Nguyễn Phước
Linh và Bác ruột tôi đă bị Việt cộng hành
hạ cho đến chết trong trại Đá Trắng
vào năm 1964, trong lúc Hồ Chí Minh vẫn c̣n sống,
mà c̣n nhiều vị lắm; nhưng tôi chỉ
biết và thấy các vị đă bị Việt
Cộng trói thúc ké dính liền với Bác tôi trong lúc
áp giải như sau đây: Cụ
Lê Uẩn, ông Huỳnh Lượng, ông Lê Kinh và anh
Nguyễn Văn Tùng 17 tuổi, là học sinh lớp
Đệ tứ của trường Trung Học
Quận Tiên Phước. Riêng cụ Lê Uẩn người
đă chôn xác của Bác tôi. Sau 30-4-1975, cụ Lê
Uẩn sống sót trở về, cụ đă kể cho
gia đ́nh tôi về những cái chết của
những vị cùng bị bắt với cụ, trong
đó có Bác ruột của tôi. Chính v́ vậy, mà
suốt đời, tôi gọi ông Bùi Tín là kẻ
“vọng ngữ” v́ đă nói: “Nếu bác
Hồ c̣n sống th́ không có các trại cải tạo
ở miền Nam”. Cái
chết của người Bác ruột, tôi ghi khắc măi
trong ḷng. Sau năm 1975, tôi cũng đă bị tù, qua hơn
một năm ở các trại tạm giam Kho Đạn,
Đà Nẵng. Tam Kỳ và Hội An để
“thẩm cung”. Cuối cùng tôi đă bị đưa
vào “Trại cải tạo Tiên Lănh, tức “Trại
T.154” hậu thân của trại Đá Trắng. Trong
suốt thời gian tám năm ở trại này, tôi không
hề hé nửa lời cho ai biết về cái chết
của Bác tôi trong trại tù này, nhưng mỗi ngày lên
rừng đốn củi, trồng sắn; hay lội
xuống śnh lầy cấy, gặt lúa... trên tất
cả những con đường đă dẫm chân qua,
tôi đều âm thầm cố tâm để t́m
kiếm mộ của Bác tôi theo lời kể của
cụ Lê Uẩn, nhưng cho đến ngày ra tù tôi
vẫn không t́m ra được. Tôi cũng được
biết thân nhân của các ông Nguyễn Phước
Linh, ông Huỳnh Lượng, và anh Nguyễn Văn Tùng
cũng không sao t́m được dấu tích ǵ của
họ cả. Rồi
kể từ mùa Xuân 1964, khi Ấp Chiến Lược
đă bị phá bỏ, như một ngôi nhà đă
bị phá tung cửa ngơ. V́ thế, Việt cộng
đă đánh chiếm các vùng quê như vũ băo.
Đến tháng 5 năm 1964, quận Tiên Phước
gồm 15 xă, đă mất hết 11 chỉ c̣n 4 xă, mà
chẳng có xă nào c̣n nguyên vẹn, xă nào cũng
mất một, hai thôn. Riêng quê tôi, Tiên Giang Thượng,
làng Thạnh B́nh gồm có bảy thôn, mất hết sáu,
chỉ c̣n lại một thôn Đại Trung nằm bên
bờ Tiên Giang Hạ. Và mỗi ngày càng thêm tiếng súng,
khói lửa lan tràn, nên dân làng nhiều người
đành phải bỏ quê chạy về thành phố
để tỵ nạn cộng sản. V́ thế, tôi
đă có mặt tại thành phố Đà Nẵng. Nhưng
có điều tôi không ngờ được là tại
Đà Nẵng tôi c̣n phải chứng kiến thêm
nhiều cảnh đẫm máu, dă man, kinh hoàng hơn
nữa: Từ cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức
Lợi (24-8-1964) - Cuộc bạo loạn bàn Phật
xuống đường (mùa Hè 1966) - Cuộc thảm sát
Tết Mậu Thân (1968) và những màn giết người
để trả thù vô cùng man rợ vào những ngày
trước 29-3-1975, là ngày thành phố Đà Nẵng
bị rơi vào tay của Cộng sản Hà Nội. Trở
lại với những mùa Xuân. Tôi vẫn nhớ măi
về những ngày Xuân Mậu Thân, 1968, lúc
ấy, nhà tôi ở gần chùa Tứ Bang, trước
mặt trại Nguyễn Tri Phương. Tổng Hành
Dinh Quân Đoàn 1; v́ nhà gần Quân Đoàn, gần phi
trường, nên chúng tôi phải t́m nơi lánh
nạn. Sau khi Quân đội VNCH đă đánh bật
Cộng quân ra khỏi thành phố Đà Nẵng, gia
đ́nh tôi mới trở về nhà. Trên đường
trở về tôi đă thấy những xác bé thơ
nằm răi rác bên cầu Tŕnh Minh Thế, trên tay chúng
vẫn c̣n đôi viên pháo chưa kịp đốt!!!
Mùa
Xuân 1975, khi thành phố Đà Nẵng rơi vào tay
cộng sản. Tôi đă chứng kiến từ ngày
20/03/1975, với từng đoàn người di tản
từ các tỉnh Trị-Thiên, Nam-Tín-Ngăi, đổ
về Đà Nẵng mỗi ngày một đông, họ
chỉ mong được lên tàu di tản v́ ở
những tỉnh đó Việt cộng đă hoàn toàn
kiểm soát, không c̣n ǵ để hy vọng. Tại
Đà Nẵng, trong khi từng đoàn người
bồng bế nhau chạy xuống bến Bạch Đằng,
th́ từng loạt pháo kích của Việt cộng
bắn theo nổ chặn đường, làm nhiều
người chết và bị thương, ai c̣n
sống, bỏ tất cả lại để chạy
thoát thân. Nhưng rồi chuyến tàu cuối cùng cũng
đă rời bến Bạch Đằng; những người
c̣n lại đành phải quay về. Trên đường
phố từng toán người d́u dắt nhau trở
lại, sau khi về nhà, họ đóng cửa, chỉ
nh́n ra đường qua cửa sổ, họ đă
sống trong những giờ phút hăi hùng, chờ đợi,
không biết những ǵ sẽ xăy ra. Thành phố ngưng
mọi sinh hoạt. Buổi
sáng 29/03/1975, trong lúc đi t́m người thân bị
thất lạc, nên lúc bấy giờ tôi có mặt
tại ngă ba Huế, tôi cũng như đồng bào
tại thành phố Đà Nẵng đă thấy hai
đoàn xe đủ loại xe jeep, xe chở khách, xe nhà
binh của các đơn vị của Quân đội
VNCH bỏ lại. Trên các đầu xe phía trước
đều có cắm song song một lá cờ ngũ
sắc của Phật giáo và một lá cờ nửa
xanh, nửa đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng
của “Mặt trận Giải phóng miền Nam” và
đều có gắn loa phóng thanh đang ầm ầm
tiến ra hai ngă Ḥa Mỹ và Phước Tường. Đến
13 giờ cùng ngày, cả thành phố đều nghe
những tiếng hô vang dậy: “Chúng tôi,
Lực lượng Ḥa hợp, Ḥa giải Thị
bộ Đà Nẵng, yêu cầu đồng bào hăy mau
mau mở cửa chào mừng và hoan hô bộ đội
giải phóng miền Nam anh hùng!” Cả
thành phố đều mở cửa nh́n ra. Trên
đường phố từng đoàn xe từ hai ngă Ḥa
Mỹ và Phước Tường đang tiến vào thành
phố, đồng bào nh́n kỹ, th́ ra là hai đoàn
xe đă ra đi hồi sáng sớm, chỉ khác hơn
là trên các xe bây giờ chở đầy “bộ đội”
miền Bắc, c̣n được cắm thêm những
cành lá mà trước đây Việt cộng thường
gọi “cành lá ngụy trang”. Tiếp theo sau, là
những xe thiết giáp trang bị đầy đủ
hỏa tiễn pḥng không, đại bác... và tiếng hô
vẫn tiếp tục vang vang, bây giờ mọi người
mới nh́n thấy rơ ràng, tất cả các xe ở phía
trước, ngoài người tài xế, c̣n có một
“ông ḥa giải” mặc thường phục và
một “vị sư” mặc áo vàng, ngồi bên
cạnh và tiếng hô đó cứ thay phiên phát ra
từ hai cái miệng của hai người nầy. Và
bây giờ, tôi xin viết về một mùa Xuân, hay
đúng hơn một cái Tết trong nhà tù, đó là
“Trại cải tạo Tiên Lănh”, Tiên Phước;
một trại tù lớn nhất của Việt
cộng tại Quảng Nam-Đà Nẵng. Hôm
ấy, một buổi chiều cuối năm 1983.
Nắng sắp tàn trên đồi nương, nhưng
chúng tôi vẫn c̣n làm cỏ lúa ở Đồng
Cừ v́ “chưa đạt chỉ tiêu”. Trong nhóm
nữ tù có người bị ngất xỉu. Tôi báo công
an xin đưa người vào bệnh xá trại nam
cấp cứu. Khi bệnh nhân hồi tỉnh, tôi
đưa người đó trở lại Đồng
Cừ. Khi đi gần đến cổng, bỗng
thấy có hai người trong bộ áo quần tù màu
xanh đă bạc màu, người nọ níu lấy cánh
tay người kia, đứng ở cổng báo cáo: “Thưa
cán bộ cho phép hai người xuất trại” nghĩa
là được ra tù. Thấy
vậy, tôi đến góc nhà cùm để xem hai vị
đó là ai, khi đến gần, tôi mới nhận ra
đó là Thiếu tá Đỗ Công Hào, thuộc
Tiểu đoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị, và Thiếu
tá Phạm Sĩ Phú là Trưởng pḥng 2, Tiểu khu
Quảng Tín. Tôi biết anh Hào, trong một lần
chuyển gỗ đă bị một cành cây nhọn
đâm xuyên bắp chân. Nhưng công an trại không cho
đi bệnh viện, cũng chẳng cấp thuốc
men ǵ cả, nên chân anh bị nhiễm trùng làm mủ.
Cuối cùng anh đă bị què một chân. C̣n anh Phú
bị bệnh mắt hột, công an trại cũng không
cho chữa trị bằng thuốc, mà lại ra lệnh
cho Trung tá Tôn Thất Biên điều trị cho anh
bằng cách... châm cứu. Kết quả là anh bị mù
cả hai mắt. Sau ba năm bị mù anh mới
được “phóng thích nhân đạo” để
về quê ăn Tết. Anh Hào què nhưng c̣n đôi
mắt, tay cầm gậy dắt anh Phú mất đôi
mắt, nhưng c̣n đôi chân. Hai nạn nhân khốn
khổ dắt d́u nhau bước khập khểnh ra
khỏi trại!!! Trước
cảnh đau ḷng ấy, tất cả các anh ở
“nhà cấp dưỡng” (nhà bếp) và làm vệ
sinh đều ngưng làm việc. Những đôi
mắt rưng rưng lệ nh́n theo hai anh, cho đến
khi bóng hai người khuất hẳn sau “nhà khách”
của công an. Giữa lúc ấy, tôi nhận ra tiếng
của Giáo sư dân biểu Trần Công Định nói
với Giáo Sư Trịnh Thể: “Một người
què dắt một người đui biết bao giờ
mới tới nhà”. Sau
này, khi tôi được ra tù, về đến
bến xe Tam Kỳ, tôi đă được đồng
bào ở bến xe kể lại rằng: Trước
đây vào một đêm Giao thừa có hai người
tù, một què, một đui, đă nằm ngủ trên
nền gạch của pḥng bán vé. Đồng bào thương
cảm mời hai người vào nhà cho đỡ
lạnh, cả hai người cám ơn nhưng từ
chối và nói rằng họ bị đui, què nên không
muốn có mặt trong nhà của bà con vào sáng mùng
một Tết. Thấy vậy, đồng bào đă
đem trà, bánh, mứt ra tại nền gạch của
pḥng bán vé để mời hai anh cùng ăn và tṛ
chuyện suốt đêm cho đến sáng. Khi
về Đà Nẵng, gặp anh Đỗ Công Hào, tôi
kể lại chuyện đó. Anh Hào cho biết, hai người
ngủ ở bến xe Tam Kỳ đêm Giao thừa năm
ấy chính là anh và anh Phú. Anh kể: “Khi
ra trại v́ không có tiền đi xe, nên hai anh em tôi
đă phải làm “khất sĩ” nghĩa là anh em chúng
tôi phải vừa xin ăn và xin tiền để
đi xe. Khi đủ tiền rồi th́ hết xe v́ là
30 Tết. Nhưng may mắn, có một người dân
“kinh tế mới” dùng xe Honda chở chúng tôi
được một đoạn đường đến
chợ quận Tiên Phước. Sau đó, chúng tôi
phải đi bộ. Đến Tam Kỳ th́ đă giao
thừa. Nhà anh Phú ở Tam Kỳ, nhưng v́ mù nên không
t́m được, tôi lại không biết nhà anh Phú.
Trong đêm Giao thừa, không biết giờ giấc, thân
đui, mù chúng tôi không dám gơ cửa đồng bào, v́
sợ đầu năm mang cái xui đến cho họ,
nên chúng tôi quyết định ngủ lại ở
bến xe, chờ đến sáng hôm sau tôi đưa anh
Phú về tận nhà, tôi mới yên tâm t́m xe ra
Đà Nẵng”. Nhắc
đến chuyện Thiếu tá Đỗ Công Hào không
làm sao tôi quên được ngày 29/03/1975, khi anh và
một số vị Sĩ quan nữa đến tŕnh
diện tại “chùa Pháp Lâm”, các anh đă bị
“Lực lượng Ḥa giải Thị bộ Đà
Nẵng” do La Thành Tỵ làm Chủ tịch. Sau 1975, La
Thành Tỵ là “Chủ tịch Ban hướng
dẫn gia đ́nh Phật tử Quảng Nam-Đà
Nẵng”. Đám “Ḥa hợp-Ḥa
giải” đóng tại “chùa” này đă làm t́nh làm
tội chỉ v́ các anh đă vứt mất súng, nên
không có “súng ngắn” để nộp. V́
vậy, anh Hào và các anh đă bị bọn “ Ḥa
giải” này la hét, nạt nộ đủ điều: “Các
anh phải giao nộp vũ khí đầy đủ, các
anh giấu súng để làm loạn hả, không có súng,
chúng tôi không cấp giấy chứng nhận đă tŕnh
diện đâu”. Người
đáng thương nhất là Thiếu tá Đỗ Công
Hào, nghe vậy anh về nhà đi hết hang cùng ngơ
hẻm, t́m được mấy cây súng M16, mừng quá
vác lên “chùa”, nhưng không ngờ anh Hào c̣n bị la
hét to hơn nữa: “Anh
có đem cả trăm cây súng dài chúng tôi vẫn không
cấp giấy, v́ Sĩ quan phải nộp súng
ngắn.” Cuối
cùng anh phải đưa tiền cho “Đội An ninh
Ḥa giải” đám này sẽ lấy những cây súng
đang chất thành đống cao ngất trước
sân “chùa” đưa cho để nộp mới yên thân. Khi
viết những ḍng này, th́ một mùa Xuân nữa: Xuân
Kỷ Sửu, 2009, lại trở về trên Cố Hương
yêu dấu. Tại hải ngoại, có nơi người
Việt tỵ nạn Cộng sản vẫn phải
đi làm trong màn tuyết rơi trắng xóa lạnh
lẽo; và lại phải đón Xuân trong nỗi
niềm cay đắng, trong nhung nhớ khôn nguôi!!! Riêng
tôi, kể từ những mùa Xuân Thanh B́nh của
tuổi mộng mơ, êm đềm bên mái ấm gia
đ́nh vào những năm đầu của Nền
Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa cho đến hôm
nay, tính ra tôi đă được làm người
lớn quá lâu rồi, nên giờ đây tôi đă
trở thành một người già. Với 34 mùa Xuân
mất nước, hơn 20 mùa Xuân trên đất
tạm dung. Một
lần nữa Xuân lại đến. Nhớ về
những mùa Xuân cũ. Bỗng nhiên tôi không c̣n
muốn làm người lớn nữa, mà chỉ ước
mơ được sống lại như những mùa
Xuân xa xưa của thời thơ ấu. Để
mỗi sáng mùng một Tết được chạy ra
gốc bưởi nơi cuối ngơ, nép ḿnh vào thân cây,
để đo, để thấy ḿnh không bao giờ
lớn, để mỗi đêm về, ngồi dưới
ngọn đèn dầu, ê a bài học thuộc ḷng năm
cũ, và để hồi tưởng về những năm
tháng Thanh B́nh, nay đă mất, và không bao giờ t́m
thấy lại: Đẹp thay Chính Thể Cộng Ḥa, Vui
thay tiếng hát câu ca Thanh B́nh. Cộng
Ḥa như ánh B́nh Minh, Như
gịng nước mát như t́nh lúa xanh. Xuân
Kỷ Sửu, 2009 Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền
|