NƯỚC
CHÈ TÍM Tuấn Anh TRẦN TRỌNG HẢI (HAIJ) |
Trại tù cải tạo YÊN BÁI Miền thượng du
Bắc Việt Tháng 4-1977
- Cậu để tớ vác thử đằng
gốc xem sao.
Tôi đồng ý và cố tình đưa vai
vác vào phía gần giữa thân cây còn Cung thi sĩ thì vác
ở phía gốc. Anh đi trước còn tôi đi sau.
Đi được một đoạn, Cung thi sĩ lên
tiếng:
- Ê, cậu xem, tớ cũng khoẻ như
cậu, đâu có nặng gì mấy!
Tôi đi phía sau chỉ im lặng tủm
tỉm cười rồi nhẹ nhàng lùi vai về phía
sau gần sát đầu cây gỗ.
Chỉ chưa đầy ba giây đồng
hồ, Cung thi sĩ lắp bắp:
- Ê, ê… toa, sao nặng quá!
- Muốn bình đẳng thì phải
chịu nặng thôi, còn than chi nữa.
Đùa cho vui
một chút chứ lúc đó tôi vội vàng nhích
vai về phía giữa thân cây vì biết chắc anh không
chịu nổi sức nặng của cây gỗ. Kể
từ đó về sau Cung Trầm Tưởng không
hề nhắc tới hai chữ bình đẳng nữa.
Hôm nay chúng tôi đi chặt nứa thì anh
nghỉ bệnh. Cơn bệnh của anh kéo dài đến
gần hai tuần mà vẫn chưa khỏi. Anh bị
cảm lạnh kể từ hôm anh nghe lời xúi
dại của tôi lội qua con suối nước
ngập đến tận cổ.
Đi rừng một mình là điều không
nên vì rất nguy hiểm và nhất là không có người
bên cạnh để giúp đỡ khi hoạn nạn.
Nhưng tôi vẫn có cái thú đi một mình.
Lần này cũng vậy, tôi lại độc
hành.
Vừa tới chỗ ngã ba quen thuộc, tôi
bèn tách ra khỏi nhóm bạn để tiến sâu vào
khu rừng nứa nằm khá sâu trong núi. Tôi đã
nhiều lần vào khu rừng này để tìm gỗ,
giang và nứa nên chỉ trong vòng hơn hai tiếng
đồng hồ sau tôi đã chặt xong năm mươi
cây nứa rồi bó lại thành hai bó. Thế là xong
chỉ tiêu. Nhiệm vụ của người tù đã
xong. Tôi bèn vác hai bó nứa ra ngoài bìa rừng, dựng
bên vách núi để xế chiều sẽ mang về
trại. Còn bây giờ thời gian còn lại là của
riêng tôi.
Lần theo con đường mòn dẫn sâu
vào trong núi, tôi len lỏi đến bên đồi
sắn của người Tày. Nhìn trước nhìn sau
một lúc lâu không có ai, tôi lấy tay bới gốc
sắn, chọn một củ nhỏ khoảng một
gang tay, vặn đứt khỏi gốc rồi lấy
tay vun đất lại cho mất dấu tích.
Cứ thế tôi ăn sống. Tôi chỉ dám
ăn củ nhỏ vừa đủ để cầm
cự cái đói. Tôi không dám ăn nhiều vì biết
trong sắn có chất độc, nhất là khi ăn
sống. Khi vừa tạm no bụng, tôi tiếp tục
lần theo con đường mòn dẫn tới một
con suối mà tôi đã nhiều lần đặt chân
tới. Tôi tự đặt tên cho con suối là
Ngọc Tuyền! Thôi thì cứ thi vị hóa như
vậy để thấy đời vẫn còn mầu
hồng dù cho thân xác mình đang bị giam hãm trong
chín tầng địa ngục!
Lúc này mặt trời đã lên cao.
Dòng suối trong suốt nhìn thấu tận
đáy. Tôi bất chợt quên đi thân phận tù
đầy và cảm thấy thân xác mình như đang
hòa lẫn với thiên nhiên. Tôi cởi hết quần
áo và từ từ bước xuống dòng suối. Nước
mát lạnh làm tôi cảm thấy tinh thần sảng
khoái.
Lần mò theo dòng suối, tôi hụp
lặn trong cái vũng nước do con suối tạo
thành vì dòng suối bị chận lại bởi
một tảng đá rất lớn chắn ngang. Vũng
nước khá lớn, đường kính khoảng năm
thước và chiều sâu cũng vừa ngang tầm
ngực.
Bất chợt tôi nhìn thấy một con tôm
đang di chuyển bên dưới những chiếc
lá mục nằm sát gần bờ. Tôi nhẹ nhàng
tiến lại đưa hai tay chụp bắt. Con tôm búng
một cái biến mất. Tôi tiếc hùi hụi.
Thế rồi trong khoảnh khắc, bất
chợt tôi nhớ tới những ngày sống trên các
chiến hạm. Nhất là những ngày mới ra trường
khi còn đeo lon Thiếu úy. Mỗi khi chiến hạm
neo nghỉ bến tại các hải đảo Miền
Trung hoặc những hải đảo miền Phú
Quốc, tôi thường rủ nhân viên đi săn cá
hoặc tôm hùm.
Tôi còn nhớ mãi lời anh Tô Văn
Giốc khi đó anh là Người Nhái huấn
luyện viên bơi lội tại trường Sĩ
Quan Hải Quân Nha Trang. Anh đã chỉ dẫn chúng
tôi cách bắt tôm hùm: “Các
anh phải nhớ là loài tôm, đặc biệt là tôm
hùm, chúng rất tò mò. Do đó khi các anh lặn
xuống sâu thấy chúng ở trong hang ló đầu ra
thì đừng vội hành động gì cả. Các anh
đợi một lúc rồi thật từ từ
tiến lại gần. Lúc đó nó sẽ thụt vào
trong hang. Các anh thọc cây cù ngoéo vào trong hang rồi
để đầu móc câu nằm ngang và đừng
động đậy gì hết. Các anh phải kiên
nhẫn chờ, có khi tới mươi mười lăm
phút. Khi nào thấy cái râu của nó ló ra khỏi hang
ngoe nguẩy thì các anh nhẹ nhàng lấy đầu ngón
tay cũng ngoe nguẩy chạm nhẹ vào râu của nó.
Nó sẽ thụt vội vào trong, nhưng rồi nó
sẽ từ từ tiến ra. Các anh cứ lập
lại hành động như trên rồi từ từ lùi
dần đầu ngón tay. Lúc này con tôm hùm sẽ
lộ bản chất tò mò và tiến dần ra cửa
hang để đưa những sợi râu cạ vào
đầu ngón tay của các anh. Đến lúc này,
chờ cho thân con tôm hùm trườn qua khỏi móc
nhọn của cù ngoéo thì các anh vặn cái cù ngoéo chín
mươi độ đồng thời đưa tay
kia chụp lấy râu của con tôm hùm. Phản ứng
tức thời của con tôm là búng thụt lùi, do đó
mình của nó sẽ mắc vào móc nhọn của cù
ngoéo”.
Thế là tôi chợt bừng tỉnh khi nhìn
kỷ lại những con tôm đang ngoe nguẩy cái râu,
núp dưới những chiếc lá mục trong vũng nước
này. Tôi ý thức được rằng mỗi con
đều cần có một cái hang. Tôi bèn bụm bàn
tay phải lại và từ từ di chuyển bàn tay
về phía chiếc lá mục rồi hạ bàn tay
xuống dần sát với chiếc lá. Con tôm liền búng
mình ra khỏi chiếc lá. Tôi liền đưa bàn tay
trái bụm lại và chận về phía lưng con tôm.
Con tôm xoay mình tìm hướng búng, tôi cũng xoay bàn
tay trái chận ở phía lưng của nó, đồng
thời tay phải của tôi hạ dần xuống. Khi
đó ánh sáng của mặt trời đã bị bàn
tay phải của tôi che lại nên con tôm cứ tưởng
là nó đang nằm trong hang. Tiếp theo, tôi di
chuyển bàn tay trái lại gần với bàn tay
phải. Hai bàn tay đều bụm lại. Con tôm nhúc
nhích xoay chiều định búng. Tôi bèn di chuyển bàn
tay phải sát xuống mặt đất để
chặn hướng búng của nó, đồng thời
bàn tay trái di chuyển lại gần với bàn tay
phải. Kế tiếp tôi từ từ khép chặt hai
bụm tay lại. Lúc này con tôm nằm gọn trong lòng
hai bụm tay của tôi mà nó cứ yên chí là đang
nằm trong hang nên không hề nhúc nhích. Thế là tôi có
được một chú tôm. Tôi bèn đút ngay vào
mồm nhai. Không phải tôi nhai ngấu nghiến đâu.
Tôi nhai một cách từ từ và nhẹ nhàng để
tận hưởng cái hương vị độc
đáo của nó vì ban nãy tôi đã no một bụng
sắn rồi. Cứ vậy, tôi bắt nốt ba con tôm
còn lại trong vũng nước.
Ăn xong bữa ăn thịnh soạn, tôi
lại tiếp tục cuộc phiêu lưu lên phía đỉnh
đồi. Những ngọn đồi thuộc vùng Ba
Khe của tỉnh Yên Bái này đều đã được
quy hoạch để trồng trà. Tuy nhiên có những
ngọn đồi vì đất không được
tốt nên người ta không khai quang để
trồng trà, do đó ngọn đồi vẫn còn là cánh
rừng bí hiểm và u tịch như ngọn đồi
này.
Lên đến đỉnh đồi,
bất chợt tôi thấy một vùng đất
bằng phẳng, diện tích khoảng một trăm mét
vuông. Trên mảnh đất đó có khoảng năm mươi
cây trà gốc lớn bằng cườm tay nhưng
cằn cỗi và xác sơ có lẽ vì không ai chăm bón.
Sau này tôi mới biết đó là những cây trà
trồng thí nghiệm lúc ban đầu của nông trường
trà Trần Phú.
Lúc này mặt trời đã đứng bóng.
Bên cạnh mảnh đất trồng trà có
một cây cổ thụ. Tôi bèn ngả lưng đánh
một giấc bên cạnh gốc cây.
Khoảng một tiếng đồng hồ
sau tôi chợt thức giấc. Vừa vươn vai
đứng dậy, tôi bất chợt trông thấy
một nhánh cây con vươn cao lên khỏi lùm cây um tùm
nằm sát ngay bên cạnh mảnh đất trồng trà.
Tôi lại gần thì thấy đó chính là cây trà, cao
khoảng hai mét nhưng thân của nó chỉ bằng ngón
tay út. Có lẽ đây là cây trà hoang do những cây trà
trồng thí nghiệm đơm hoa kết trái rụng
xuống đất và bị mưa gió cuốn đi
rồi nảy mầm và sinh trưởng. Có lẽ vì
nguyên khí sinh tồn của cây trà này quá mạnh nên
“gen” của nó đã biến đổi từ
thân mộc chuyển sang thân thảo để có
thể vươn lên cao nhanh hơn lùm cây bao phủ nó.
Có lẽ vì vậy nên thân của nó rất nhỏ và
mềm so với những cây trà bình thường.
Tôi
tiến lại gần cây trà lạ. Đọt của
nó to và nhọn giống như đầu bút lông. Riêng
chiếc lá kế tiếp cái búp đã to bằng hai ngón
tay. Chiếc lá kế tiếp to gấp đôi. Chiếc
lá thứ ba to bằng bàn tay. Tiếp theo, những
chiếc lá bên dưới cũng to nhưng rồi
nhỏ dần.
Tôi đưa hai ngón tay sờ chiếc lá
thứ ba vì đó là chiếc lá to nhất. Mặt trên
của lá hứng ánh sáng mặt trời nên có mầu
xanh, mầu xanh của những lá trà bình thường.
Nhưng khi tôi lật mặt dưới của
chiếc lá này thì tôi bất chợt sửng sốt.
Mặt dưới của lá có mầu tím giống như
mầu tím của lá mơ tam thể (lá thúi địt).
Tôi đưa đầu ngón tay rà trên mặt sau
chiếc lá và cảm thấy mịn như nhung vì ngoài
mầu tím, mặt sau chiếc lá còn có một lớp lông
măng giống như lông măng của lá mơ nhưng
dầy hơn và mượt hơn. Tôi liền
đưa tay ngắt lấy đọt trà và năm
chiếc lá rồi đảo mắt nhìn quanh xem còn cây
trà nào khác giống như vậy không.
Chỉ trong vòng hai mươi mét chu vi, tôi hái
thêm được 9 chiếc lá của ba cây trà
giống như vậy nữa. Trong lòng hân hoan mãn
nguyện, tôi thấy buổi lãng du hôm nay thật thú
vị và nóng lòng về trại để kể
lại sự việc cho Cung Trầm Tưởng nghe.
Ra đến ngoài bià rừng, tôi nắm tay
bóp nát hai mươi chiếc lá trà rồi nhét sâu vào
đầu ống nứa. Tôi phải làm như vậy
vì nếu để trong túi áo hoặc túi quần
sẽ phồng lên, khi đi qua trạm gác những tên
gác cổng sẽ nghi và khám xét, lúc đó hậu
quả sẽ khôn lường, có thể bị cùm như
chơi vì cai tù sẽ buộc tội ăn cắp tài
sản Xã Hội Chủ Nghĩa.
Về đến trại, vừa qua khỏi
cổng tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi lấy dao
chặt đoạn ống nứa đựng lá trà
với cung cách làm ra vẻ như chặt ống
nứa để làm tăm xỉa răng.
Vừa bước vào trong lán, tôi tìm Cung
Trầm Tưởng và hỏi anh cho mượn cái lon
“gô”. Đó là cái lon dùng để đựng
sữa bột dành cho em bé mà đa số chúng tôi mang
theo để đựng nước uống. Cái lon có
dung tích khoảng một lít. Tôi vội nhét nắm lá
trà nát bấy vào lon gô rồi tất tả đi
xuống nhà bếp để xin nước sôi.
Thật là xui xẻo. Nước sôi vừa
mới hết mà bếp cũng đã tắt rồi.
Anh bạn nấu bếp nói:
- Nước đang sôi thì hết nhưng còn
một ít dưới đáy chảo chắc cũng
khoảng chín mươi độ. Anh xem nếu dùng
được thì lấy.
Tôi đành múc nước đổ vào gô.
Về đến chỗ nằm trong lán, tôi
thấy Cung Trầm Tưởng kêu mệt và ngồi
tựa lưng vào vách. Tôi đến bên cạnh và
đặt gô nước gần bên anh. Khoảng mười
phút sau tôi mở nắp gô, một mùi hương thơm
lạ phảng phất bay theo hơi nước. Tôi rót
ra hai cái bát. Cặp mắt Cung Trầm Tưởng
bỗng nhiên nheo lại:
- Cái gì thế này! Nước gì mà tím
ngắt vậy?
- Thì nước chè tươi chứ gì
nữa!
Thắc mắc vậy chứ hai người
chúng tôi đều cầm hai bát nước lên
uống.
Một vị ngọt dịu pha lẫn mùi
hạnh nhân thấm vào cổ họng. Tôi và Cung
Trầm Tưởng cả hai đều buột
miệng:
- Ồ!
Ngồi nhâm nhi khoảng mười lăm
phút, tôi rót nốt chỗ nước còn lại vào bát
Cung Trầm Tưởng. Anh uống hết một hơi
rồi khà một tiếng sảng khoái.
Chưa đầy năm phút sau, Cung Trầm
Tưởng vuôn vai bước xuống đất
rồi bước tới bước lui một cách hùng
dũng:
- Thần dược, thần dược!
Quả thực bát nước chè tươi
mầu tím đó có tác dụng thật thần kỳ.
Tôi cảm thấy người tràn đầy sinh
lực, tinh thần sảng khoái. Tôi hỏi Cung Trầm
Tưởng, anh nói anh cũng thấy hệt như tôi.
Thế là mấy hôm sau, có dịp vào khu
rừng nứa nơi có đồi trà hoang, tôi soạn
lại bổn cũ. Về đến trại, may
mắn có nước đang sôi, tôi liền hãm một
gô. Nhưng khi rót nước chè ra bát thì thấy khác
hẳn lần trước. Lần này nước chè có
mầu tím lợt pha lẫn với mầu xanh vàng
chứ không tím đậm như lần trước và
đặc biệt không ngửi thấy mùi hạnh nhân.
Đúng là bát nước chè xanh giống như
những bát nước chè xanh bán ở ngoài quán
nhưng có điều vị của nó chát hơn
lần trước.
Tôi hết sức ngạc nhiên và thất
vọng. Không hiểu tại sao lại có chuyện khác
nhau giữa hai lần. Đặc biệt lần này
mất đi mùi hạnh nhân!
Thế rồi khoảng hai tuần lễ sau
tôi có dịp lên đồi trà hoang lần nữa để
tìm hái những chiếc lá trà đặc biệt.
Lần này tôi lấy nước sôi rồi để
cho nguội bớt khoảng chín mươi độ
mới đổ vào gô.
Vưà rót ra hai cái bát, tôi và Cung Trầm Tưởng
đều bất chợt la lên:
- À! Có thế chứ!
Hai bát nước chè tươi mầu tím
với hương thơm thoang thoảng mùi hạnh nhân:
Cái mà chúng tôi đang chờ đợi!
Khoảng mười ngày sau tôi lại có
dịp lên lên đồi trà hoang. Lần này khi về
đến gần cổng trại tôi tìm cách nhét
những chiếc lá trà mà tôi cố tình giữ nguyên
vẹn cất dấu vào chung quanh cạp quần. Tôi ráng
thót bụng để điều chỉnh áp lực cho
khỏi dập những chiếc lá trà quí hiếm. Thoát
qua khỏi cổng, vào đến bên trong lán, những
chiếc lá trà vẫn còn nguyên vẹn không bị
dập nát như những lần trước. Tôi hí
hửng và hy vọng một kết quả tốt đẹp
hơn.
Nhưng lần này nước chè tươi
mặc dù vẫn có mầu tím lợt nhưng tự nhiên
mất hẳn mùi hạnh nhân, và ngược lại nước
chè có vị chát hơn.
Tôi hết sức thắc mắc nhưng
rồi sau đó cũng quên đi vì không còn tìm đâu
ra lá trà đặc biệt có mặt sau đầy lông
tơ mầu tím. Nhưng dù sao nước chè tím cũng
đã gây cho Cung Trầm Tưởng và tôi những
ấn tượng mạnh mẽ. Vì vậy thời gian
kế tiếp sau đó tôi thường ghé qua
những đồi trà của nông trường trà
Trần Phú để hái trộm những lá trà tốt
nhất đem về pha uống.
Thế rồi sau nhiều lần thực
nghiệm tôi mới đi đến kết luận: Lá
trà tươi của những cây trà bình thường
phải được vò nát trước khi chế nước
sôi. Nếu pha với nước sôi một trăm
độ thì mất mùi hạnh nhân nhưng nước
chè đậm đà và chát hơn. Nếu pha với nước
sôi chín mươi độ thì nước chè sẽ có
mùi hạnh nhân nhưng mất đi vị chát và đậm
đà.
Một điều đáng nói là tất
cả những lá trà bình thường bán ngoài chợ
dù pha với nước đang sôi hoặc để
nguội khoảng chín mươi độ cũng đều
cho nước mầu xanh lợt hoặc vàng chứ không
hề có mầu tím. Riêng chỉ có những lá trà
hoang, thân thảo mà tôi tìm được trên đồi
trà hoang Trần Phú; những chiếc lá trà mà mặt
sau mầu tím thẫm và có lông tơ thì những
chiếc lá đó mới cho nước chè mầu tím mà
thôi.
Sau khi khám phá ra điều đặc
biệt về những lá trà này, tôi chợt nhớ
tới những sự việc liên quan mà từ nhỏ
tôi hằng thắc mắc nhưng chưa hề
được giải thích.
Tôi nhớ hoài những buổi theo mẹ
đi chợ làng quê. Tôi nhớ hoài những hình
ảnh cô bán lá trà tươi. Lá trà tươi
được bán theo rổ. Rổ
được dùng làm đơn vị đo lường.
Sau khi thoả thuận giá cả, cô bán hàng bốc
một nắm lá trà bỏ vào rổ rồi cơi lên
cho đầy có ngọn. Người mua đổ lá trà
vào thúng của mình rồi trả lại rổ cho cô bán
hàng đồng thời nói một câu: “Thêm nhé”.
Vưà dứt lời, người mua gồng bàn tay, ngón
cái cong lên cùng với bốn ngón kia làm thành một
gọng kềm rồi nhanh nhẹn thọc sâu vào thúng
lá trà của người bán hàng bóp thật chặt
một nắm thật lớn. Thế là cô bán hàng kêu
toáng lên. Nhưng tiếng kêu chỉ để lấy
lệ, vì cô bán hàng vội vàng lấy hai bàn tay
gồng lên bóp chặt những lá trà nằm hai bên mép
bàn tay cứng ngắc của người mua. Thế là
hai người giằng co nhau một hồi làm nát
bấy nắm lá trà. Sau cùng người mua cũng còn
được nguyên một mắm lá trà nát bấy
trong tay. Số lượng lá trà nát này cũng gần
tương đương với số lượng lá
trà mua chính thức.
Đến bây giờ tôi mới chợt ý
thức được về truyền thống pha nước
chè tươi của hầu hết người dân
Miền Bắc là vò dập lá trà trước khi đổ
nước sôi.
Có lẽ vì đằng nào lá trà tươi
cũng cần phải bóp cho dập nát trước khi
pha để có được cái vị chát và đậm
đà của bát nước chè xanh, do đó mới
nẩy sinh ra cái tục “thêm” và giằng co
khi mua bán lá trà.
|