Sau
ngày đ́nh chiến theo Hiệp định Geneve năm
1954, Đỗ Thị T́nh kết hôn với Phan
Văn Anh, một Chính Trị Viên tiểu đoàn
của bộ đội Việt Minh.
Một
tháng sau, chồng đi tập kết ra Bắc để
nàng ở lại trong Nam.
T́nh có nhan sắc mặn mà nên lắm người tán
tỉnh. Vài anh thanh niên trong xã , dăm cán bộ Dân
Sự Vụ năng lui tới nhà, khiến T́nh lo
ngại bỏ quê đến đất Gia Định vào
chùa lánh thân giữ ḿnh. Nàng
có hạnh nguyện ở chùa hai năm, chồng về
sẽ trở lại đời sống b́nh thường
hưởng cảnh hạnh phúc trần tục. Thời
gian kéo dài, người chồng năm xưa vẫn
biền biệt. T́nh không ngờ nàng đã chôn
gíấu cuộc đời son trẻ của ḿnh
trong chiếc áo nâu ṣng lại lê thê vô vọng. Và
từ một ni cô “Kệ
kinh câu cũ thuộc ḷng. Hương đèn việc trước,
trai pḥng quen tay.” Ni cô Thích Tâm Ngọc (tục
danh Đỗ Thị T́nh) đă trở thành Sư
trụ tŕ chùa D.Q. thay Sư Bà Thích Tâm Huệ
viên tịch.
Bà Đỗ Thị Thân là chị ruột
của Sư Trụ trì Thích Tâm Ngọc gởi
con trai là Bùi
Hữu Thiệt
vào chùa D. Q. tạm trú để theo
học đại học tại Sài Gòn. Thiệt
chỉ lo ăn học, tính tình chất phát
, vô tư.
Một hôm, Thiệt nhận được một
số sách tái bản của nhóm Tự Lực Văn Đoàn
do một phật tử vô danh gởi tặng. Các tác
phẩm nổi tiếng ngày xưa mà Thiệt rất mê
đọc như Gánh Hàng Hoa, Đoạn Tuyệt… Thiệt
giật ḿnh bởi khoảng mười trang đầu
là truyện, c̣n những trang trong th́ in toàn tài liệu
tuyên truyền của Việt cộng như “Những
Mẫu Chuyện Trong Đời Hồ Chủ tịch”,
“Ba Mươi Năm Đời Ta Có Đảng”…
Thiệt bắt đầu lo ngại và nghi ngờ
những hoạt động của chùa D. Q. , v́
vậy, anh quyết định xin phép bà d́ Trụ tŕ
được vào ở khu nội trú sinh viên với lư
do dành th́ giờ đến thư viện đọc sách
tham khảo.
Vừa tốt nghiệp đại học lại trúng
đợt Tổng động viên, Bùi Hữu Thiệt
không chần chừ nhập ngũ khóa Sĩ quan Trừ
bị Thủ Đức. Bà Thân, Mẹ của Thiệt
bảo chạy giấy tờ hoăn dịch vì “hoàn
cảnh con một” nhưng Thiệt từ chối.
Thiệt khuyên mẹ yên tâm, sau khi măn khóa anh sẽ làm
đơn xin phục vụ tại đơn vị không
tác chiến. Qua giai đoạn 2, Thiệt được
chọn vào khóa sĩ quan kỹ thuật không quân.
Sau bốn năm phục vụ tại phi trường
Biên Ḥa, Trung úy Bùi Hữu Thiệt cưới vợ và
yêu cầu mẹ bán nhà vào ở với ḿnh nơi cư
xá không quân. Bà Thân luyến tiếc ngôi nhà, không
nỡ dứt bỏ cái thị trấn mà bà đă
gắn bó từ thời ấu thơ, dù biết
rằng nơi nầy không c̣n an ninh nữa.
Đêm 24 tháng 3 năm 1975, Bộ Chỉ Huy Tiểu
khu QN được lệnh rút quân về Chu
Lai, nơi đóng quân của BTL Sư đoàn 2
BB. Người người tranh nhau theo chân quân đội
rời thị trấn hướng về Chu Lai t́m nơi
an toàn. Bà Thân mệt mỏi, cô đơn chẳng màng
chạy lánh nạn. Bà chỉ sốt ruột lo lắng
cho gia đ́nh con trai ở Biên Hòa có mệnh hệ
nào không. Bà hối hận đă không nghe lời con. Tháng
trước đây, Thiệt có đánh điện
nhắn mẹ vào Biên Ḥa gấp v́ t́nh h́nh bất
ổn. Bà Thân cứ chần chừ măi đến nay th́
muộn rồi. Thôi th́ phó mặc cho số mạng. Ư
nghĩ như thế, nhưng trước t́nh h́nh
bất lợi cho phía Quốc gia, trong thâm tâm bà Thân
lại mừng thầm rằng bà có cơ
hội gặp lại ông Dinh chồng bà và
đứa con trai út tên Bùi Mậu Thà đã
tập kết ra ngoài miền Bắc đã gần
hai mươi mốt năm. Niềm hy vọng đoàn
tụ với chồng con ngày càng gần giúp cho ḷng bà
yên ổn trở lại.
*
Chiếc xe con kiểu Liên xô băng qua cổng vào chùa
D. Q., theo sau là chiếc Molotova chở đầy bộ
đội cộng sản Bắc Việt, kéo theo
một khẩu đại pháo. Tất cả dừng trước
sân chùa. Người chỉ huy và hai lính bảo vệ
xuống xe vào thẳng khu chánh điện.
A Di Đà Phật, giọng trầm trầm của một
Ni cô vẳng lên từ trên điện thờ. Trong
bộ cà sa màu khói hương, Ni cô tiến đến
trước mặt ba người bộ đội:
- A di đà Phật, quư khách cần ǵ ?
Người chỉ huy lên tiếng :
- Tôi cần gặp chủ hộ ngôi chùa nầy.
- A Di Đà Phật, Ni cô quay mặt đi vào cửa hông
chánh điện. Một lát sau, sư Trụ Tŕ đến
trước mặt ba người đang giương
mắt nh́n những tượng phật mạ vàng trên
bàn thờ sáng trưng. Không biết trong đầu
họ đang nghĩ ǵ trước cảnh chùa
lộng lẫy đến khi vị Sư Trụ Tŕ lên
tiếng A Di Đà Phật họ mới giật ḿnh
hỏi :
- Bà đứng tên chủ hộ chùa nầy phải không
?
- A Di Đà Phật, thưa phải .
- Tôi là Thủ trưởng của trung đoàn pháo
của Cách mạng, được cơ sở
địa phương chỉ dẫn đến đây
thông báo cho bà rơ một đơn vị pháo của
lực lượng cách mạng sẽ đóng chốt
tại vườn chùa nầy.
Nghe giọng nói của người xứ Quảng pha
giọng Bắc, vị sư Trụ tŕ ngước
nh́n gương mặt người chỉ huy, đột
nhiên sư cúi xuống thầm th́: “Ôi,
Anh …” rồi
ngã khuỵ xuống. Ba lính Bắc Việt quay lưng
rời khỏi chánh điện. Các ni cô bên sau điện
thờ vội chạy ra d́u sư phụ ḿnh vào trong.
Đặt sư nằm trên chiếc giường tại
pḥng tĩnh tâm, các đệ tử nh́n nhau lo ngại.
Lần đầu tiên họ thấy tâm tư thầy
bất an dường như có điều ǵ đó
đang khuấy động đời sống tu hành .
Họ nào biết khuôn mặt người chỉ huy
Trung đoàn pháo đă đánh thức kư ức của
Sư Trù tŕ nhớ lại kỷ niệm của hai
mươi mốt năm về trước. Ḷng
rạo rực yêu đương của người con
gái trong tuổi xuân th́ đã bị lừa dối
làm con tin trong sách lược cài người
của CS Hà Nội chuẩn bị cho cuộc lấn
chiếm Miền Nam sau này càng làm nhói
buốt tim bà. Khuôn mặt lạnh lùng khắc khổ
của người chồng cũ khơi thêm nỗi
đau làm rối loạn Bồ Đề Tâm của
bậc tu hành.
Sư trụ tŕ ngồi dậy, chậm răi đi
về hướng chánh điện gióng hồi chuông
đảnh lễ trước điện thờ
Phật rồi tọa thiền dưới chân Đức
Thế Tôn tụng tạng kinh Bát Nhă lấy lại
sự yên tĩnh tâm hồn.
*
Hai mươi mốt năm sống ở miền
Bắc, Bùi
Mậu Thà được chế độ đào
tạo thành một bác sĩ.
Đầu năm 1976, Thà về Nam gặp lại
mẹ . Người
anh cả Bùi Hữu Thiệt sĩ quan miền Nam đang
ở trong tù.
Bà Đỗ thị Thân mừng rỡ khi gặp
lại đứa con trai út sau bao năm trời
xa cách. Bà đă ngoài sáu mươi tuổi, dành
dụm được một số vàng, thương
đứa con xa cách lâu năm nên chia cho Thà một
nửa. Năm lượng vàng đối với
một bác sĩ ở miền Bắc là cả một
gia tài. Thế nhưng,vợ chồng hắn nghi ngờ
số vàng mẹ chia có thể chỉ một phần mười
hay một phần hai mươi.
Ba
tháng sau do vợ hối thúc, Thà quay về đ̣i
mẹ phải đưa thêm vàng. Mẹ thực ḷng nhưng
con không tin, bà cảm thấy bị xúc phạm nặng
nề.
Thương con, bà đă gom góp chút của cải
cuối cùng chia đều cho hai đứa, thế mà
hắn vẫn ngờ vực tấm ḷng rộng răi
của mẹ. Bà giận lắm, bèn bảo :
- Năm cây vàng đó là ân huệ của tao cho,
mầy chẳng có quyền ǵ đ̣i hỏi. Số c̣n
lại là phần của thằng Thiệt, anh ruột
mầy đang ở trong trại tù cải
tạo, và một ít của tao dành để
dưỡng già.
Thà nói :
- Bà quên rằng tên lính ngụy đó đă
đi ngược lại truyền thống cách mạng
của gia đ́nh ta, mượn bom Mỹ giết
chết người cha suốt đời tận
tụy với Đảng để lại những đứa
con côi cút ở Hà Tĩnh.
Nhắc
đến người chồng phụ bạc, bà Thân
không nén được cơn đau. Lăo Dinh ra Bắc
chưa đầy ba năm là lấy người vợ
khác, riêng bà vẫn chung thủy chờ chồng.
Sau ngày Ba Mươi tháng Tư 1975 bà Thân mới
biết được tin chính xác ông Dinh đă tử
thương dưới chân súng pḥng không đặt
tại cầu Hàm Rồng trong trận máy bay Mỹ ném
bom.
Mối hận t́nh âm ĩ làm khô héo tim bà. Giờ
đây chính miệng thằng con trai út giở
giọng chửi anh ruột mình là ngụy
lại còn bênh vực người cha đốn
mạt , cơn giận ập đến như thác
vỡ bờ, bà hét lên :
- Cả lũ bay là đồ bất nghĩa, vô ơn.
Cút ! cút ra khỏi nhà tao ngay !
Thà đứng lên, từng bước một đến
sát bà mẹ, miệng gầm gừ :
- Không cần bà đuổi, tôi đi ngay bây giờ, nhưng
hăy đưa hết vàng đây.Vừa nói hắn
vừa chụp lấy cổ mẹ hăm dọa. Bà Thân
cảm thấy bị xúc phạm, đưa cao hai
tay dùng hết lực cấu vào mặt hắn.
Cơn giận sôi lên, Thà siết mạnh tay hơn. Hơi
thở bà Thân kḥ khè, chân tay giựt lên từng
hồi rồi cả người bà rũ xuống. Thà
hoảng hốt buông tay. Hắn vội vàng vào buồng
ngủ lục t́m được gói vàng giấu bên
dưới đầu giường rồi lên xe đ̣
ra Bắc, trốn biệt từ ngày đó.
Sau cơn ngất vì nghẹt thở, bà Thân
dần dần hồi tỉnh. Khi nhớ ra
hành động của thằng con đòi thêm
vàng, bà vội vàng vào xem lại số
vàng đã cất giấu thì hỡi ôi
, thằng con khốn nạn đã lấy đi
hết số vàng bà đã dành dụm,
gồm 5 cây vàng cho thằng con lớn
và 5 cây bà để dành dưỡng
già. Bà
Thân ngã vật trên giường rồi ngất
đi, đến ngày hôm sau bà trút hơi thở
cuối cùng.
Ba
năm sau ra tù, Bùi Hữu Thiệt ôm mộ mẹ
khóc suốt một ngày. Chàng
v́ mẹ đă trễ chuyến bay cuối cùng ra
hạm đội. Mẹ v́ chàng quyết giữ năm
cây vàng để chàng có phương tiện vượt
biên đoàn tụ với vợ con đang ở nước
ngoài. Thiệt giận em th́ ít, nhưng căm thù cộng
sản đă tạo cho con người sống trong chế
độ mang tính ác thú.
*
Người chỉ huy của Trung đoàn pháo Bắc
Việt có toán quân đóng chốt tại chùa D. Q. trong
những ngày đầu của 30 tháng Tư,
bây giờ là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện
. Ông vừa kư lệnh trưng dụng ngôi chùa D. Q. làm
Trung tâm thương nghiệp và ra lệnh trục
xuất tất cả những ai cư trú bất
hợp pháp trong chùa.
Sư Trụ tŕ Tâm Ngọc buông tờ công
lệnh có chữ kư của chủ tịch huyện
Phan Văn Anh. Bà không tưởng tượng
được lại có ngày oan trái đến với
bà. Ngôi chùa đă che chở bà những năm tháng
còn trẻ trung để tránh cạm bẫy
trần tục, giữ trinh tiết chờ chồng. Ngôi
chùa đă che giấu cán bộ hoạt động
nội thành mỗi khi cơ sở bị phá vỡ. Bà,
các sư muội cùng thiện nam tín nữ đă góp công
góp của xây dựng, tu sửa ngôi chùa để bây
giờ “Cách mạng” gom vào tài sản nhà nước
và tước đoạt quyền hành đạo
của nhân dân.
Nỗi đau của bà là đă hi sinh cả một
thời xuân sắc cho chồng, ngược lại
chồng đă quên hẵn bà, xem bà như không c̣n
hiện hữu trên cơi đời nầy !
Đúng
giờ Ngọ ngày Rằm tháng Tư Âm lịch (1978) Ni
Sư Thích Tâm Ngọc đă châm lửa tự thiêu
giữa sân chùa D. Q. để phản đối chính
quyền cộng sản biến ngôi chùa thành trung tâm thương
nghiệp. Công
an thành phố đă cướp xác sư Trụ tŕ kín
đáo mang đi. Trên cổng chùa, cửa chánh điện
được dán đầy những bản sao
lệnh trưng dụng ngôi chùa có chữ kư của
Chủ tịch huyện Phan Văn Anh.
Ngày hôm sau, Nhật báo “Sài G̣n Giải Phóng”
đăng mẩu tin ngắn :
“Một
phụ nữ quê quán miền Trung tên Đỗ Thị T́nh
mắc bệnh tâm thần, có lẽ v́ trắc trở
t́nh duyên nên đă tự thiêu tại sân chùa D. Q. Thi
thể đă được chính quyền địa phương
an táng"
*
Chủ tịch huyện Phan Văn Anh đọc lướt
qua bản tin trên rồi b́nh thản đặt tờ báo
lên bàn. Cùng lúc, ban văn thư mang vào văn pḥng
một phong b́ lớn, ghi tên người nhận :
Phan Văn Anh . Khui bao thư khác thường nầy ông
lấy ra một chiếc khăn trắng đă ố màu
có thêu hai đóa hoa hồng đan chéo với nhau,
một lọn tóc đen dài và một lá thư. Ông tái
mặt, vội vàng lùa những món “tang tóc” ấy vào
ngăn kéo rồi thẫn thờ đọc lá thư :
Thưa
ông Phan Văn Anh,
Tôi viết thư nầy với tư cách của
một người phụ nữ mang tên Đỗ Thị
T́nh.
Trước tiên, tôi gởi lại chiếc khăn tay mà
ông đă tặng cho tôi trong ngày cưới, đó là
món quà duy nhất của cô dâu nhận được
khi về làm vợ ông. Thứ hai là lọn tóc của
tôi đă cất giữ suốt hai mươi năm
từ lúc vào chùa quy y. Tôi đă lặng người và
khóc hết nước mắt khi mái tóc dài óng mượt
của tôi được mẹ bảo dưỡng
từ lúc c̣n bé thơ bị cắt đi. Người
con gái mới hai mươi ba tuổi đời đă
chịu xuống tóc vào chùa là một quyết định
hi sinh vô bờ bến cũng chỉ v́ muốn giữ
lấy ḷng trung trinh tiết nghĩa đối với
chồng. Thế mà ông đă nhẫn tâm quên hẳn người
vợ ở lại trong Nam. Ngày tôi gặp lại ông
sau hơn hai mươi năm xa cách là lúc ông đưa
đơn vị pháo đến giẫm nát cảnh chùa
mà tôi đă tu tịnh trong suốt thời gian qua. Hành
động tiếp theo của ông là kư lệnh biến
chùa làm nơi buôn bán của nhà nước.
Thần tượng “Cách mạng” trong tôi hoàn toàn
sụp đổ . Tài sản đồng bào miền Nam
đă bị đảng các ông cướp đoạt
một cách trắng trợn và chà đạp lên cả
quyền sống con người.
Khi ông nhận được thư nầy, tôi với
tư cách là Sư Trụ tŕ chùa D. Q. đă tự thiêu
để phản đối chính sách cướp chùa
phá đạo của Cộng sản Việt Nam. Tôi v́
Đạo pháp mà thắp sáng ngọn lửa Từ bi Vô
úy trong tinh thần Đại ngă Tinh tấn của
Phật Giáo để soi đường cho chúng sanh và
hi vọng soi sáng cả lương tri ông.
A Di Đà Phật.
Ni Sư Thích Tâm Ngọc, trụ tŕ chùa D.Q.
Đặt bức thư trên bàn, Phan Văn Anh đưa
mắt nh́n khu cây kiểng trước pḥng làm
việc. Gương mặt ông tối sầm. Kéo
chiếc hộc bàn ông nh́n lại lọn tóc đen
tuyền nằm khoanh tṛn trong bao nylon. Chợt khuôn
mặt của người vợ trẻ ngày xưa như
thoáng hiện chập chờn bên lọn tóc, ông
trầm ngâm, nghĩ ngợi. Một hồi lâu, ông
cầm điện thoại gọi pḥng công an bảo
vệ chính trị hỏi cái xác thiêu ở chùa D. Q. chôn
ở nơi nào.
Một tuần lễ sau, đích thân ông lén lút đặt
trên ngôi mộ người vợ cũ một bia có
khắc hàng chữ : “Nơi an nghỉ của Đỗ
Thị T́nh, sinh ngày 18 tháng 4 năm 1931 tại Q. N.
Chết ngày 15 tháng 4 năm 1978 tại Gia Định, ... 47
tuổi”.
Ông âm thầm thực hiện công việc nầy có
lẽ để lương tâm ông đỡ cắn
rứt. Nhưng ông không ngờ cử chỉ đó
lại càng xúc phạm đến linh hồn người
tu sĩ đã dày công tu luyện. Bởi
vì trên bia ông đã cố ý giấu
nhẹm Pháp danh “Sư Nữ Trụ Trì
Chùa D.Q. Thích Tâm Ngọc.”
*
Trước khi thực hiện một chuyến vượt
biển, Bùi Hữu Thiệt t́m
đến mộ bà d́ ruột Đỗ Thị T́nh
thắp hương từ biệt. Nh́n tấm bia mộ
không tên người phụng lập, ḷng Thiệt
quặn thắt. Thiệt chấp tay khấn nguyện
: “ D́ đă hiến thân cho Đạo Pháp mang ư nghĩa
vô cùng lớn lao. Ngọn lửa Bi Trí Dũng của
Phật pháp bùng lên từ thân xác D́ đă thắp sáng
lương tri loài người và soi đường
cho chế độ này ra khỏi vòng mê
lụy.
Thưa D́, ngày mai nầy con sẽ ra đi, không may gặp
hiểm nguy, thân con có thể ch́m tan trong biển cả
mênh mông nhưng hồn con sẽ nhập cùng với hàng
vạn linh hồn của những người
bỏ nước ra đi bị tử nạn làm
nên những con sóng thần đánh động lương
tâm thế giới. Linh hồn Dì linh thiêng xin
phò hộ cho con trong chuyến đi này
được bình yên đến được
bến bờ Tự do . Con hứa với Dì,
nơi vùng đất mới, con sẽ
ươm mầm hạt giống Tự do để chờ
ngày mang về trồng lại trên mảnh đất
quê hương Việt Nam mà hiện nay đang
tràn ngập cảnh khổ đau đầy
máu và nước mắt !”
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
|