Rừng
khóc giữa mùa Xuân (Câu chuyện thương tâm của một người vợ lính BĐQ VNCH) |
Hơn hai mươi năm nay,
từ ngày đến định cư ở Na-Uy,
một nước Bắc Âu nổi tiếng với
những mùa đông dài băng giá, nhưng lại
rất đẹp vào những ngày hè và lăng mạn vào
thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong
rừng, không chỉ vào những ngày
nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy
ḷng ḿnh trăn trở. Không phải ṭ ṃ v́ những
cuộc t́nh cháy bỏng trong ”Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết
nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn
Nhật Bản, nhưng để được
lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây
lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mănh lực
quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đă làm cho tôi
đau đớn, khốn khổ cả một đời. Tôi sinh ra ở Huế, nhưng
lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà
theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là
một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học
lớp đệ lục trường Nữ Trung
Học, cũng đă có vài chàng học tṛ khờ
khạo si t́nh, đạp xe theo tôi sau những buổi
tan trường. Lên năm đệ tam, cũng
có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước
cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số
trời, trái tim tôi chỉ rung động trước
một người. Anh là bạn chí thân với ông
anh cả của tôi, hai người học cùng lớp
từ thời c̣n ở trường Vơ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm
đám cưới, kết thúc một cuộc t́nh đầu
thật dễ thương, không có nhiều lăng
mạn, cũng chẳng có điều ǵ trắc
trở. Ông xă tôi là lính Biệt Động
Quân. Hậu cứ đóng ở
Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut
của anh c̣n bám đầy đất đỏ hành quân.
Đám cưới chúng tôi được tổ
chức tại một nhà hàng nằm gần bờ
biển, không xa ṭa tỉnh, nơi vừa mới
trải qua khói lửa Mậu Thân. Sau đám cưới, cha
mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng,
rồi phải trở về sống ở nhà chồng,
bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi
phải sống một ḿnh. Chỉ những khi nào tiểu
đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh
điện tín để tôi lên với anh. Măi đến ba năm sau, tôi
mới sinh cho anh đứa con đầu ḷng. Một
đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ v́ nặng
nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt
tên cho con là Cao Nguyên, Lê Cao Nguyên. Anh về phép thăm con khi cháu
vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng
giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, và đặc
biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có
một “lỗ tai nhỏ” như ba nó. Chỉ đúng một tuần
sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị
thương nặng trong lúc đơn vị hành quân
giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi
nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón
mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh trong quân
y viện. Sau khi xuất viện, đôi
chân c̣n đi khập khiễng, nên anh được
chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm
trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại
Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân
từ, thường xuyên lên thăm
chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một
lần VC pháo kích vào trại gia binh làm một số
đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu
Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một
vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không
vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê
một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau, khi Cao Nguyên vừa
tṛn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nh́. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ,
được chúng tôi đặt tên Thùy Dương
để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai
chúng tôi lớn lên và yêu nhau. Mấy năm sống ở
Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về
chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ
thấy toàn bụi đỏ, c̣n những ngày mưa bùn
bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành
phố lính. Những người vợ lính sống
ở đây dường như chỉ để
chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân,
hoặc để chăm sóc chồng những ngày
bị thương nằm trong quân y viện. Với họ th́ đúng là ” may c̣n có anh đời c̣n
dễ thương”. Trong số ấy đă có
biết bao người trở thành góa phụ ! Giữa tháng 3/75, sau đúng
một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, một buổi sáng, từ
bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối
hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu
dọn đồ đạc gấp, bỏ lại
mọi thứ, chỉ mang theo những ǵ cần
thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con,
theo anh vào hậu cứ. Khi vừa đến cổng
trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả
mọi người đều đă ngồi sẵn trên
xe. Chúng tôi rời khỏi doanh
trại. Thành phố Pleiku như đang
ngơ ngác trước những người từng bao
năm sống chết với ḿnh nay vội vàng bỏ
đi không một tiếng giă từ. Đang giữa mùa xuân mà
cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi
bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn
xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngă ba Mỹ
Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng
tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính,
đủ các binh chũng, đủ các loại xe,
kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và
bạn bè nói là một số đơn vị Biệt
Động Quân được chỉ định đi
sau, ngăn chận địch quân tập hậu để
bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy
hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành
quân triệt thoái. Hơn một ngày ṃ mẫm trên
Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xă Hậu
Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa
kịp ăn cơm th́ bị pháo kích và súng nổ
khắp nơi. Xe và người dẫm lên
nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đă bao vây. Các đơn vị BĐQ
chống trả kiên cường, nhưng địch quá
đông, và bên ta th́ vừa quân vừa dân chen chúc nhau
hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời
lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều
bất hạnh: Một chiếc phản
lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vă rời
Hậu Bổn, di chuyển đền gần
Phú Túc th́ lại bị địch tấn công từ
khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và
rất nhiều người chết hoặc bị thương.
Cả đoàn xe không nhúc nhích
được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại
tất cả xe cộ, băng rừng t́m đường
về Củng Sơn. Chồng tôi, vừa chiến đấu
vừa dẫn đường chúng tôi cùng một
số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên c̣n
chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi
lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn c̣n ầm
ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn
đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng
là lúc đến bờ một con sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ
cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng
một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi
một giấc, thức dậy th́ trời
vừa sáng. Chúng tôi lại tiếp
tục lên đường. Tôi không c̣n đủ sức
để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng
cái vơng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được
phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi b́a rừng tôi
ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ
lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong
đó có nhiều người vừa bị thương,
ḿnh đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những
vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt d́u nhau đi t́m
sự sống. H́nh như họ không c̣n mang
theo bất cứ thứ ǵ. Nh́n nét mặt ai nấy cũng
kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số
bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách
khỏi đám đông này, t́m một lộ tŕnh khác mà
đi, để tránh sự phát hiện của địch.
Vừa rời đoàn người
vài phút th́ đạn pháo thi nhau rót xuống. Tiếng
la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ
khắp nơi làm cho cả một khu rừng như
trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng
tôi cũng đă có một số người chết. Đến lúc này th́ mạnh
ai nấy t́m đường sống. Gia đ́nh tôi cùng
gia đ́nh vài người bạn nữa chạy vào khu
rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng.
Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ
chồng tôi chỉ c̣n dùng để mong cứu
được vợ con ḿnh. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị
tan ră. Đồng đội kẻ chết người
bị thương. Có thể một số đă
bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng
được số mệnh bi thảm của những
người lính biệt động một thời oanh
liệt trên khắp chiến trường, giờ này
lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi!
Chồng tôi suưt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy
truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân
Đoàn : “Đạp lên mà đi!” Trong cả đời binh
nghiệp, chắc những người lính không c̣n
nhận cái lệnh nào đau đớn hơn thế
nữa! Sau chừng một tiếng
đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất
ngờ gặp một toán lính hơn 20 người
thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi.
Thầy tṛ chưa kịp nắm tay mừng rỡ th́ súng
nổ. Địch quân phía trước
mặt. Trở lại cương
vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều
động anh em xông vào trân mạc. Một cuộc
đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu
diệt. Chồng tôi quay lại t́m và
hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi
đi tiếp. Trong núi rừng đêm xuống thật
nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người.
Tôi h́nh dung đến cái bóng
của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên
một ngọn đồi thấp. Tội nghiệp cho
những người lính trung thành. Đáng lẽ
họ lợi dụng bóng đêm để đi
tiếp, v́ đó là sở trường của họ,
nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài
anh em bị thương không thể đi nổi, nghe
lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua
đêm. Sau khi sắp xếp anh em pḥng
thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ
nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt,
nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ
được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào
một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào ḷng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi,
trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng
ai c̣n ḷng dạ nào để lăng mạn yêu thương,
nhưng có lẽ anh đang tội nghiệp cho một
người con gái đă trót chọn chồng là lính
chiến. Và không ngờ đó lại là những
nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi. Buổi sáng sớm khi vừa
xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với
địch. Cũng là lần cuối cùng tôi chứng
kiến những người lính biệt động can
trường. Các anh phân tán từng toán
nhỏ, xông vào ḷng địch mà
đánh, tiếng thét ” Biệt Động
Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán
lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương
ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được
chỉ định dắt tất cả đám đàn bà
con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đă vậy anh c̣n phải d́u
theo một người lính bị thương khác. Vợ chồng tôi thất
lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi c̣n lạc mất cả cháu
Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay
cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có
đủ che chắn h́nh hài bé nhỏ của con tôi. H́nh ảnh này trước
đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy
cuốn truyện Tàu mà tôi đă đọc. Tiếp tục di chuyển
chừng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới
một con đường ṃn, chúng tôi lại nghe súng
nổ. Anh trung sĩ dẫn đường
chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn
nổ, bảo tất cả chúng tôi nằm rạp
xuống. Chờ im tiếng súng, đám
chúng tôi rời con đường ṃn, chạy về hướng
rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn
hơn. Khi đến b́a rừng, tôi
bàng hoàng nh́n thấy mấy người lính Biệt
Động Quân nằm chết bên cạnh xác những
quân thù xâm lược từ phương bắc, máu me
lai láng. Sau này tôi được
biết những người lính Biệt Động Quân
anh hùng này bị địch bao vây, đă tự sát
để cùng chết chung với lũ giặc cướp
cộng phỉ xâm lược. Đi vào cánh rừng bên
phải chỉ vài trăm mét nữa th́ chúng tôi bị
một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước
hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa
vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp
một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị
bắt, nhiều người tay bị trói ngược
ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước
họng súng sẳn sàng nhả đạn của kẻ
thù. Tôi cố ư t́m xem, nhưng không
thấy chồng tôi trong số người bị
bắt. Ḷng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng
tạm im, chỉ c̣n tiếng quát tháo với cái
giọng rất khó nghe của đám người
thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa
về địa điểm tập trung, một ngôi trường
nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Ḥa). Trong cảnh khốn cùng này, tôi
chỉ c̣n lại một điều may mắn. Chị
giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo
bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi.
Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm,
nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đă
trải qua hai ngày đói khát. Nh́n đứa con gái
vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ
tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không
biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi
bật khóc. Cuối cùng th́ tôi cũng
lần ṃ về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng
vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm
tôi vào ḷng và khóc như mưa. Tôi không đủ can
đảm mang tin buồn đến nhà chồng,
nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương
vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên c̣n
đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm
tôi, bồng cháu Thùy Dương
về nhà săn sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ
cả mấy ngày liền khi nhận được tin
này. Nằm nhà hơn một
tuần, nhờ mẹ tận t́nh chăm lo, sức
khỏe tôi đă gần b́nh phục, tôi xin được
trở lại Phú Bổn t́m chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ
chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài
nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho
đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda
chở tôi ngược đường lên Tỉnh
Lộ 7. Mặc dù đă chứng
kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đă
chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự
kinh hăi những ǵ trước mắt, khi nh́n thấy
ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy,
những bộ xương người con vương văi
đó đây, bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên
đường. Cả một vùng xông mùi
tử khí. Chiếc khăn bịt
miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường
đă giúp tôi và cậu em vượt qua chặng
đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm
một vài người dân, được biết
một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang
c̣n giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó,
tŕnh giấy phép đi t́m chồng của Ủy Ban Quân
Quản, mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho
biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi
xin được gặp bất cứ một sĩ quan
nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may,
tôi được gặp anh đại đội phó lúc
chồng tôi c̣n ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp
một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu
dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na.
Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng
cố t́m cách đưa cháu Cao Nguyên đến một
nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người
Thượng, theo tôi lần theo con đường
dọc bờ sông mà tôi c̣n nhớ, trở lại khu
đồi thấp, rồi bung ra xa đi t́m. Liên tục trong một
tuần, chúng tôi chỉ t́m được mấy
bộ xương người, một số ngôi mộ
vô danh, nhưng không thấy dấu vết của
chồng tôi. Tôi trở về mang theo
niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi , mà cho
cả nhà chồng. Cha mẹ chồng tôi lập bàn
thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích
tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ
của hai cha con. Hàng năm, cứ đến
ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở
lại Phú Bổn, t́m đến chân đồi,
dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi,
mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào ḷng,
thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao
Nguyên. Tôi đă dùng dao khắc đậm tên anh và cháu
Cao Nguyên vào thân cây. Và lần nào, khi nước
mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ
hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này,
rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ
những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm
vương văi do bom đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm
thanh năo nùng, xé ruột. Tôi đă mang dư âm của
tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi
mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt
biển được một chiếc tàu của vương
quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ
chồng tôi góp vàng cùng một người bạn
ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt
biển. Tôi, cháu Thùy Dương và một đứa
em trai của tôi được đi cùng với gia
đ́nh chồng. Tôi cũng xin được
một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đă về quê trên vùng
Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng
chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài
sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu
chị trước khi rời khỏi quê nhà. Hai mươi năm sau, khi Thùy
Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn
đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam
tŕnh diện ông bà ngoại, và đến địa
điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên c̣n
sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng
nhớ đến cha và anh ḿnh. Chúng tôi đến
đây đúng vào giữa mùa Xuân, một ngày trước
ngày giỗ chồng và đứa con trai. Con đường Tỉnh
Lộ 7 ngày xưa bây giờ đă được tráng
nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một
chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ
chồng cháu Thùy Dương, c̣n có cậu em trai út
của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa.
Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A
Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không c̣n ǵ
dấu vết của chiến tranh. Người ta đă cố t́nh
trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng
dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc ḷe loẹt, vài ngôi
nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn
“cải biên” thành những biệt thự của các
ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng
nghèo nàn được mang tên “thị xă”. Nh́n dăy núi Hàm Rồng từ
xa, ẩn hiện trong những
đám mây mù, ḷng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đă bao lần
tôi đến thăm chồng, để được
ḥa ḿnh vào đơn vị với những người
lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi
đă vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng
nhiều anh em đồng đội được ông
tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo
khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đă
trở thành huyền thooại. Sau khi thuê pḥng trọ, tắm
rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi
đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. V́
nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong
hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá
xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều
của ông Nguyễn Du: Từ phen chiếc lá ĺa
rừng Thăm t́m luống những
liệu chừng nước mây Rơ ràng hoa rụng hương
bay Kiếp sau họa thấy
kiếp này hẳn thôi Tôi bán tín bán nghi, v́ nghe
nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng
bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business.
Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc
cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng
thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường
hơp của ḿnh, tôi cũng thấy ḷng
buồn vô hạn. Trở về pḥng trọ, bà
chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người
dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua
nhiều thứ thổ sản, gia cầm với giá
rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi
c̣n sống anh thích ăn gà luộc. Bà c̣n cho biết thêm dân chúng
ở vùng này đa số là người Thượng
thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur. Có
một số sống trong các bản rất xa, cách
thị xă này từ 10 tới hơn 20 cây số. Sau một đêm trằn
trọc với những cơn ác mộng, vừa
mới chợp mắt tôi đă nghe tiếng người
réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc
tộc, tôi không hiểu họ nói ǵ.
Chợ phiên nhóm rất
sớm. Chúng tôi vội vàng ăn sáng
rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước
nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ
lẫm v́ đây là lần đầu tiên tôi đến
một buổi chợ phiên của người sắc
tộc. Đă vậy vợ chồng
cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này
điều nọ. Khi đang cố giải thích
về nguồn gốc của người Thượng,
chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre
nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái
lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa
hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt
hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là một
anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm,
nói tiếng Việt chưa sơi.. Khi anh xăn tay áo lên và tḥ
tay vào lồng gà, tôi bỗng giật ḿnh khi phát
hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có h́nh dáng
đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên,
đứa con trai ba tuổi , bị thương trong
trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở
Biển Hồ. Vết thương trên cánh
tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại
một vết sẹo có h́nh ảnh đầu một
con cọp. Biểu tượng binh
chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo. Tôi biến sắc, nắm
chặt cánh tay anh người Thượng và nh́n vào
mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sóng
mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc màu nâu
sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét
đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng
ngùng, cúi mặt xuống, khựng
lại. Nhưng tôi kịp nhớ ra trên
vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi
xuống để nh́n kỹ vào tai anh người Thượng.
Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái
lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm
lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà
đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng
tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương
ngơ ngác nh́n tôi, không biết xảy ra điều ǵ.
Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có
thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ
lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi
chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai
chị: – Chị nh́n kỹ anh người
Thượng này xem có giống ai không ? Sau một lúc nh́n không
chớp mắt, mặt chị biến sắc,
rồi không trả lời tôi mà th́ thầm một ḿnh
: – Thằng Nguyên ? Chẳng
lẽ là thằng cu Nguyên ? Rồi chị nh́n thẳng vào
mặt anh ta hỏi : – Mày có phải là thằng
Nguyên, Lê Cao Nguyên không? Anh người Thượng
lắc đầu : – Tao là thằng Ksor Tlang, Tôi mua hết những lồng
gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả
lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột
miệng : – Mày bắt cái con gà
nhiều tiền quá ! Tôi mất hết b́nh tĩnh,
bảo vợ chồng chị giúp việc đứng
giữ anh ta, rồi chạy vào pḥng trọ t́m bà
chủ nhà. Tôi kể rất vắn
tắt những ǵ đă xảy ra. Có lẽ bà ta là người
tai mắt ở đây, nhưng là một người
tốt bụng, nhấc điện thoại
gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gă
công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh
một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa
kịp nói ǵ, bà chủ kéo tay hai gă công an ra chợ.
Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gă công an nói
một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu ǵ
nhưng thấy anh bán gà gân cổ căi lại. Cuối cùng hai người công
an kéo anh đi, mặc dù anh cố t́nh chống lại.
Chúng tôi đi theo phía sau trở về pḥng trọ. Qua trung gian của bà chủ nhà
trọ, tôi nhờ gă công an giúp tôi,
dịch lại các điều trao đổi giữa tôi
với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách t́m
ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà
trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la. – Em có cha mẹ không ? Tên ông bà là ǵ ? – Tôi có cha mẹ . Cha tôi tên
Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu. – Có anh em không ? – Không. – Anh có nhớ ngày sinh không ? – Không (Gă công an nh́n sang tôi, bảo
là sẽ t́m khai sinh sau) – Anh có nhớ lúc c̣n
nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu
không ? – Không! Th́ chắc tôi ở
với cha mẹ tôi mà. – Cái sẹo trên cánh tay trái
, anh biết v́ sao mà có cái sẹo này không? (Gă công an bảo anh xăn tay
áo lên và chỉ vào vết sẹo) – Không ! Chắc là bị cành
cây đâm trúng. Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ
ra điều ǵ, tôi lại hỏi : – Cha mẹ anh đang ở
đâu ? – Buôn Ban Ma Dek . (Gă công an nh́n tôi, bảo Ban
Ma Dek cách đây hơn 10 cây số) – Anh ở chung với cha
mẹ anh ? – Không, ở bên cạnh,
với vợ và hai đứa con. – Đă có vợ con rồi
à ! Tôi buột miệng. Tôi đề nghị hai gă công
an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban
Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ
nhà trọ, hai gă công an gật đầu.
Nhưng bảo là chúng tôi
phải thuê xe ôm, v́ về buôn Ban Ma Dek chỉ có
đường rừng, xe ô tô không chạy được.
Bà chủ nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái
xe ôm. Cha mẹ của anh bán gà
đă khá già, trước đây chỉ sống lẻ
loi trong núi nên không nói được tiếng Việt.
Chúng tôi lại trao đổi
qua sự thông dịch của gă công an người Thượng.
Vợ và hai con của Ksor Tlang
thấy có nhiều người cũng chạy sang nh́n
. Ông bà cứ nhất quyết
Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi
khóc lóc, năn nỉ và nhờ gă công an gạn
hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự
thực: – Năm ấy, lâu rồi,
sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ
chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to
trước nhà để tránh đạn. Bỗng
một buổi chiều có người lính mặc áo
rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng
cố lếch vào dưới căn nhà sàn của tôi
rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa
bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây
giờ. – Rồi xác người lính
ấy ở đâu ? Tôi hỏi . Ông chỉ tay ra rừng cây phía
trước: – Tôi đă chôn ông ta dưới
gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng
bới lên ăn thịt. Chúng tôi theo hai người công
an d́u ông già đi về phía khu rừng. Tôi khóc ngất khi nh́n
thấy nấm mồ thấp lè tè nằm dưới tàng
cây, được rào lại bằng những que
gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương
cũng quỳ xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác t́m
Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất
của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất
động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang
trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm
hai đứa nhỏ vào ḷng, nhưng cả hai đứa
trố mắt nh́n tôi dửng dưng, xa lạ. Tôi khóc lóc, năn nỉ
lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa
con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một
cậu học tṛ thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu
Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp
việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước
mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con
theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại,
rồi tôi sẽ t́m cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu
muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa
ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc cho ông bà
sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông
già một mực chối từ, bảo là họ không
thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng măi măi là
nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng
cũng như loài cá không thể sống mà không có nước. Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đă
ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi dự định
xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng
phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong
nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi
đă đổi ư. Bởi anh phải nằm
ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa
cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất
cả đă trở thành người Thượng và
chắc không biết ǵ về anh. Và có lẽ anh cũng
muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội,
một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn
chắc đang c̣n phảng phất ở quanh đây. Tôi mướn thợ xây
lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có h́nh chân
dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung
với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong
ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ
hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng
mang theo. Tôi cũng không thể bắt
Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi
rừng, nơi đă cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày
xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó
đă vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn
hơn là tôi chẳng làm được điều ǵ
cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của ḿnh,
ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người
dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi
một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng răi hơn,
sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một
số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ
khóc lóc măi nó mới chịu nhận, cùng số
tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi
đă trả công cho hai gă công an! Ngày cuối cùng, chúng tôi
ở lại với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà
sàn mới. Buổi chiều, tôi bảo
Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng
với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp
hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi
đầu nói điều ǵ lầm thầm trong
miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ
hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi
ngồi khóc một ḿnh. Tôi nghĩ t́nh mẫu tử
thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đă
phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không
bảo vệ được con ḿnh, để mất nó
trong núi rừng này từ ngày chỉ vừa lên bốn
tuổi. Tôi rời khỏi Cheo Reo,
chạy ngược về cầu sông Ba Theo Tỉnh
Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong ḷng nỗi đau đứt
ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng
cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nh́n
núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước
mắt, tôi mơ hồ như cây lá không c̣n nữa, mà
tất cả đều mang h́nh dáng của những
bộ xương người nối tiếp nhau, trùng
điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện
vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của
người hay tiếng khóc của cây? (Sài G̣n trong tôi/ Phạm Tín An
Ninh) (theo lời kể của một người vợ lính BĐQ) |