Sắt
Son
|
Không
ngờ tôi lại là người bưng tấm ảnh
chị Ngà theo sau quan tài của chị. Và cũng chính
tôi là người đào huyệt chôn chị. Đám
ma của chị có lẽ là một đám ma buồn
nhất mà tôi chứng kiến. Có cái chết nào
lại không buồn. Những ngày ở trong trại
“cải tạo”, tôi đă từng khiêng xác vài người
bạn tù đi chôn ở ven triền núi hoang vắng
đến lạnh lẽo, trong cảnh nhá nhem của
buổi chiều đông trên khu núi rừng Việt
Bắc. Nhưng đó là chuyện trong tù, c̣n hôm nay
ngay trên làng quê ḿnh, chị Ngà đến nơi an
nghỉ cuối cùng mà không có một người
ruột thịt tiễn đưa, ngay cả cái áo quan
cũng do bà con láng giềng góp tiền mua cho chị. Chị
nằm bên cạnh cha mẹ cùng người em trai, trên
một ngọn đồi đầy những cỏ may
và cây hoa bộng giếng, nh́n xuống cái làng quê mà
gần cả một đời chị sống quanh
quẩn ở đây, cô đơn, lặng lẽ. Ngày
xưa cha tôi làm thầy giáo, dạy trường Pháp
Việt. Tôi mồ côi mẹ từ lúc mới lên ba, cho
nên những ngày đi dạy học ông thường
dắt tôi theo. Đến lớp, ông giao tôi cho mấy
anh, chị học tṛ lớn của ông để tôi
vừa chơi vừa học. Nhờ vậy mà lúc c̣n bé
tí xíu tôi đă biết “con ngựa cheval nhảy qua ḥn
núi montagne ăn cỏ herbe uống nước de
l’eau”. Trong
số các anh chị dạy tôi học, tôi thích nhất
là chị Ngà. Chị là con gái lớn của ông bà
Tần, chuyên nuôi tằm, bán tơ, một gia đ́nh
thuộc hàng khá giả trong làng, có ngôi nhà ngói
lớn, ở cách nhà ông bà nội tôi chỉ mấy cái
vườn cây. Chị Ngà có làn da trắng, mái tóc
thật dài. Lúc nào gặp tôi chị cũng cười
và nói năng nhỏ nhẹ. Nghe cha tôi nói lại,
chị hiền lành ngoan ngoăn và học rất giỏi,
nên là một trong số học tṛ cưng của cha tôi.
Thấy tôi mồ côi mẹ, lại là con của
thầy ḿnh, nên chị rất thương tôi. Ngay
cả những ngày nghỉ, chị cũng thường
ghé lại nhà ông bà nội, dắt tôi đi chơi,
mua cho tôi mấy con ḅ, con gà bằng đất. Có
điều tôi ít khi đến nhà chị, v́ rất
sợ những con tằm. Tôi bảo đó là những
con sâu, mặc dù chị tốn bao nhiêu công sức
để nói về lợi ích của con tằm đă
làm nên tơ lụa, và những con bướm đẹp
đẽ đang bay ngoài vườn kia là hoá thân
từ chính những con tằm. Nhưng lúc ấy tôi nghĩ
là chị đă kể từ một chuyện thần
thoại nào đó nên không tin những điều
chị nói. Cả
một thời ấu thơ, lớn lên ở nhà ông bà
nội, ngoài cô Út ra, chị Ngà là người mà tôi
gần gũi nhiều nhất. Chị có một người
em trai tên Ngọc, lúc nhỏ tôi rất phục tài
đá banh của anh. Gần như không trận bóng nào
có anh mà thiếu tôi trong hàng khán giả nhi đồng.
Nhờ anh mà đội bóng của làng tôi giữ
chức vô địch mấy năm liền trong
huyện. Tôi mê anh đá banh, nhưng nhiều cô gái
trong làng th́ mê anh đẹp trai, cao lớn. Sau này anh
đăng vào lính Thủy Quân Lục Chiến. Nghe nói
anh đánh giặc hăng lắm, nên mới ba năm
đă lên tới chức trung sĩ. Lâu lâu về phép
dắt theo cô bồ có mái tóc quăn, trông anh oai phong
lắm. Trong
đám học tṛ của cha tôi cũng có vài anh khác
ngắm nghé chị Ngà, nhưng vâng lời cha mẹ,
chị lấy anh Phúc, bởi anh là con một của bà
mẹ góa, được nhà nước cho miễn
dịch, khỏi phải đi lính xa nhà, để
chị c̣n được gần gũi săn sóc ông bà
khi đến tuổi già. Đám cưới nhà quê, nhưng
khách khá đông, mà hầu hết là bạn học
của hai người và cũng là học tṛ của
cha tôi. Trong lễ cưới, sau khi cô dâu chú rể
lạy tạ cha mẹ hai bên, rồi xin được
lạy cha tôi một lạy để đền ơn
sư. Cha tôi cầm tay anh chị dặn ḍ nhiều
thứ, tôi không nhớ hết, chỉ c̣n mang máng hai
tiếng thủy chung. Từ
ngày chị Ngà lấy chồng tôi ít có dịp gặp
lại chị. Mặc dù nhà chồng chị cũng không
xa mấy, nơi ven làng, bên con sông Gốc, mà phía bên
kia sông là khu vườn của anh Phúc và cánh rừng
tiếp giáp với dăy Trường Sơn. Tôi
rời quê vào Sài g̣n học, rồi sau đó đi lính.
Lâu lâu nghỉ phép về quê, tôi t́m đến thăm
chị. Sau ngày cha mẹ mất, chị nghỉ dạy
học, bán ngôi nhà ngói lớn của ông bà, đem
tiền bạc về xây lại ngôi nhà mẹ chồng
thành ngôi nhà lớn ba gian, mua luôn cả khu vườn
bên cạnh có trồng đủ loại cây ăn trái.
Chị dành lại một số tiền mở một
nhà máy xay xát nhỏ, nuôi bà mẹ chồng bị đau
bệnh mấy năm nay, chỉ nằm một chỗ. Chiến tranh càng lúc càng leo
thang. Sau ngày mấy ông tướng nghe theo Mỹ hạ
bệ và giết hai anh em ông Ngô Đ́nh Diệm, không
biết đất nước có thực sự khá hơn
không, nhưng ở quê tôi th́ không c̣n b́nh yên như trước
nữa. Một vài người làm việc trong chính
quyền bị ám sát. Cứ vài ba tuần lại có
một cuộc đụng độ giữa các toán dân
vệ với quân du kích. Ba tôi phải bỏ quê,
về sống ở thành phố, giao ngôi nhà từ
đường của ông bà nội cho cô Út tôi chăm
nom thờ phượng. Tháng Tư Bảy Mươi Lăm,
khi chị Ngà chưa măn tang mẹ chồng, th́ cả
miền Nam để tang cho đất nước. Cái
“đại thắng mùa Xuân” của những người
Cộng sản đă gây biết bao nhiêu thê lương
tang tóc. Ba tôi bị bắt trong lúc tôi c̣n theo đơn
vị từ cao nguyên“di tản chiến thuật” vào
các địa danh xa lạ ở tận Long An tham dự
những trận đánh cuối cùng cô đơn và
buồn tẻ. Cô tôi chưa kể hết câu
chuyện th́ chị Ngà đến. Chị nắm
chặt hai bàn tay tôi, không nói điều ǵ. Tôi
thấy chị đang khóc. Tôi nghĩ là chị thương
và lo lắng cho cha con tôi trong cái cảnh sa cơ này. Tôi
lấy lại b́nh tĩnh, chưa kịp nói lời
trấn an, th́ chị nh́n tôi nghẹn ngào: Và chính tôi cũng không
ngờ. Anh học tṛ kư lệnh bắt cha tôi chính là
anh Phúc, chồng của chị. Tôi rút nhanh tay ra
khỏi bàn tay của chị. Hơn tám năm trong nhiều
trại tù từ Nam ra Bắc, bị hành hạ đói
khổ khốn cùng. Tôi sống c̣n có lẽ là nhờ
những giấc mơ về quá khứ. Trong đó tôi
bắt gặp lại hầu hết bóng dáng những người
thân yêu của cái thời hạnh phúc. Và khuôn mặt
xinh đẹp hiền hậu dễ thương của
chị Ngà vẫn thường hiện lên rơ nét,
mặc dù khi đầu óc tỉnh táo, tôi đă cố
gắng xua đuổi h́nh ảnh ấy ra khỏi kư
ức mệt mỏi của ḿnh. Tôi thương
chị mà hận chị. Tôi nghĩ là chị đă
đồng lơa với nhà chồng để lừa
gạt chúng tôi hơn mười mấy năm qua. Ra khỏi tù, tôi không
được phép về sống chung với vợ con
ở thành phố Ninh Ḥa, quê vợ. Lư do hết
sức đơn giản là: chính quyền ở đó
không nhận tôi tạm trú. Công an tỉnh bắt
buộc tôi phải về “tŕnh diện chính
quyền” nơi sinh quán. Tôi lại một ḿnh khăn
gói về quê cũ, mà ở đó chỉ c̣n một bà
cô già góa bụa sống âm thầm trong ngôi nhà từ
đường có mái ngói âm dương của ông bà
nội tôi để lại. Cha anh Phúc – theo lời
tiết lộ sau này từ những đồng chí thân
tín của anh Phúc – thực ra không hề theo một
ả hát rong nào cả, mà bỏ làng vào bưng từ
khi anh Phúc mới lên mười. Ông đă chết
từ lâu, nhưng hàng năm vợ con vẫn nhận
được thư ông do một vài người
lạ mặt mang tới. Trong mấy lá thơ, hầu
hết là “động viên” tinh thần anh Phúc
nối gót cha đi làm “kách mệnh”. Trước khi
lên núi, anh Phúc làm quen, rồi tỏ ra yêu chị Ngà,
nhưng thực ra đó là kế hoạch đă
được các“đồng chí thủ trưởng”
giao cho anh Phúc phải thi hành, để giải
quyết việc nuôi nấng mẹ của Phúc, mà
bọn họ biết là bà đă trở thành góa
bụa từ lâu rồi. Tôi theo cô Út, đi dọc theo
phía sau mấy khu vườn, t́m đến chị Ngà.
Trong căn cḥi lụp xụp tối tăm, chị Ngà
đang ngồi thẫn thờ trên cái giường tre
như một pho tượng cũ. Trên đầu giường
có ba tấm ảnh của cha mẹ chị và anh
Ngọc, em chị, nhem nhuốc, úa màu. Không ngờ cái
ngày đổi đời, người chồng biệt
tăm bao nhiêu năm bây giờ bỗng dưng về,
trở thành ông lớn th́ cuộc đời của
chị lại tàn tạ bi thảm như hôm nay. Tôi
ngồi xuống bên cạnh chị, ôm đôi vai
gầy c̣m của chị mà trong ḷng tựa hồ như
bao nhiêu vết chém. Vậy rồi chị ĺa
bỏ thế gian này cũng thật bất ngờ.
Buổi sáng thức dậy sớm, tắm rửa xong
chị thay quần áo mới, kẹp lại mái tóc, trông
chị trẻ ra. Cả ngày hôm ấy chị cười
đùa hồn nhiên vui vẻ, ngồi ôn lại bao nhiêu
kỷ niệm của những ngày tôi c̣n bé, và chị
c̣n là cô học tṛ cưng của ba tôi. Khi vui, trí óc
chị trở nên minh mẫn lạ thường.
Chị c̣n nhớ bao nhiêu điều mà chính tôi đă
quên từ lâu lắm. Trước khi đi ngủ,
chị c̣n ôm đầu tôi vào ḷng, nhại một câu
hát đă lâu “may mà có em đời c̣n dễ thương…”.
Và sau đêm hôm ấy, chị không bao giờ thức
dậy nữa. Trước ngày vượt
biển, phải cắt ruột bỏ quê mà đi, tôi
đến nghĩa trang gia tộc thắp hương cho
ông bà và mẹ tôi, rồi đến thăm mộ
chị cuối cùng. Trong lúc cầm ba nén hương
đứng trước mộ chị, tôi nghĩ đến
thuyết luân hồi của nhà Phật, và h́nh dung bây
giờ chị Ngà đang sống ở một thế
giới khác, xinh đẹp và rất hạnh phúc
với một người chồng xứng đáng,
bởi chị là một người đàn bà thánh
thiện, sắt son. Phạm
Tín An Ninh |