Sử Lược Việt Nam thời Cận đại 1920-2020 Chương
1 Lê Quế Lâm |
Phần Một BƯỚC
DẠO ĐẦU CỦA TẤN THẢM KỊCH
VIỆT NAM (1920-1945) Chương một Những thế
lực quốc tế đưa
đến tấn thảm kịch Cụ sử gia
Lệ Thần Trần Trọng Kim (1883-1954) là một
chứng nhân lịch sử thời cận đại.
Trong hồi kư Kiến Vân Lục, cụ ghi
lại trung thật những việc cụ đă làm và
chứng kiến trong 6 năm từ 1943 đến 1949.
Song những chuyện đó có lắm việc truân chuyên
và nhiều nổi đoạn trường, nên cụ
đặt nhan đề là một cơn gió
bụi để cho hợp cảnh. Đây là bước
ngoặc lịch sử quan trọng của đất nước
trong buổi giao thời giữa chế độ
thực dân đến hồi cáo chung, chế độ
cộng sản tiếp nối. Nước Pháp đă
bị Đức chiếm đóng. Nhật đổ
bộ vào Đông Dương, sau đó làm cuộc
đảo chánh lật đổ chế độ
thực dân của Pháp (9/3/1945). Nhật trao trả độc
lập cho Việt Nam. Hoàng đế Bảo Đại
cử cụ Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
Khi Thế chiến II vừa chấm dứt, cụ
thấy đông đảo đồng bào hăng hái
tham gia Mặt trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lănh
đạo, nên khuyên vua Bảo Đại thoái vị
để Việt Minh nhận lănh vai tṛ lịch sử. Trên b́nh diện
quốc tế, đây cũng là giai đoạn
chuyển tiếp khi Liên Xô và Hoa Kỳ trở thành
đồng minh đánh bại phe Trục (Đức, Ư,
Nhật) kết thúc Thế chiến II. Sau đó lại
xảy ra cuộc đối đầu giữa Thế
giới Tự do và Quốc tế Cộng sản. Đó
là cuộc Chiến tranh lạnh diễn ra giữa Hoa
Kỳ và Liên Xô. Nhưng chiến tranh “nóng” lại
xảy ra ở Việt Nam v́ nơi đây là đấu
trường chính của cuộc xung đột này. Chíến
tranh Việt Nam kéo dài suốt thời Chiến tranh
lạnh (1947-1991) (H́nh quyển Một
cơn gió bụi) Trong Mấy
lời ngỏ cùng độc giả, cụ Trần
tâm sự: “Từ năm Quư Mùi (1883) tôi sinh ra đời
cho đến ngày nay, đă trải qua biết bao
những nổi đau buồn khổ sở, làm cho tôi
chán nản hết cả mọi điều, chỉ mong
được yên tỉnh mà ngắm cảnh đời
cho qua ngày qua tháng, chứ không muốn hành động
ǵ cả. Thế mà tự đâu nó bắt buộc tôi
làm những việc tôi không muốn làm. H́nh như ngoài
cuộc nhân sinh vật chất của con người, có
cái thế lực u uẩn huyền bí, an bài hết
cả mọi việc theo đúng cái nghiệp của
từng người, giống một tấn tuồng
sắp đem ra diễn, đă có người xếp
đặt đâu đấy cả rồi, ai đóng
vai tṛ nào là phải đóng cho hết tṛ, chớ không
từ chối được. Nhà triết học có
thể nói đó là cái nhân quả tự nhiên của các
sự vật, chứ không có ǵ lạ. Nói đúng
lắm, song t́m ra cái nhân và biết được cái
quả, không phải là việc dễ”. Cụ viết
tiếp “Tôi tin ở trong vũ trụ có cái linh
quang bao hàm hết thảy mọi vạn vật. Mà
vạn vật sở dĩ có là v́ có cái linh quang
ấy. Cái linh quang ấy, ta gọi là Phật, là Đạo,
là Trời, là Chúa; chỉ có cái tên khác nhau mà
thôi, nhưng cái thực là một. Ở trong người
ta, th́ cái linh quang ấy gọi là tâm, là chủ sự
hành động của ta. Ai ai cũng có tâm ấy song v́
t́nh dục và sự thiên tư mà thành ra sai biệt khác
nhau. Nếu cái tâm ta chân thành ngay chính, th́ tự
khắc là Phật là Trời ở đó. Vậy nên
bất cứ việc ǵ tôi cũng lấy cái tâm làm
chủ. Nay tôi đưa những chuyện của tôi
đă làm và đă biết theo đúng cái tâm của tôi
mà nói ra, không kiêng dè, che đậy, không thêu dệt
thêm bớt, cốt để người ta biết
sự thực. Dù những sự thật ấy có động
chạm đến ai, th́ cũng xin thể tất cái
tấm ḷng thành thật của tôi mà đừng
chấp trách. Ấy là tôi tin ở cái tâm công minh
của mọi người vậy”. (1) Theo cụ Trần th́
ngoài cái nghiệp, con người c̣n có tâm hướng
dẫn hành động. họa phúc từ đó mà ra.
Những biến động trong giai đoạn từ
1943 đến 1949, theo cụ Trần đó là một cơn
gió bụi. Cơn gió bụi những tưởng
sẽ qua đi vào năm 1949 khi cựu hoàng Bảo
Đại đ̣i được Pháp trao trả độc
lập, thừa nhận Việt Nam thống nhất.
Đó là nguyện vọng toàn dân Việt và cũng là
mục tiêu kháng chiến của ông Hồ Chí Minh.
Cuộc kháng chiến toàn dân do ông Hồ đă
khiến Pháp phải nhượng bộ, chấp
nhận Việt Nam được độc lập và
thống nhất. Nào ngờ biến cố này lại
mở đầu một trận đại hồng
thủy, một trận băo cát sa mạc hăi hùng, mang
lại vô vàn đau thương cho dân tộc, cho nên tác
giả gọi đó là “Một Tấn Thảm
Kịch”. Tác giả tin rằng
tấn thảm kịch này xuất phát từ “cái
thế lực u uẩn huyền bí” mà
cụ Trần đă đề cập. Cụ c̣n
nhắc đến “cái nghiệp, nhân quả và
tấn tuồng sắp đem ra diễn, đă có người
xếp đặt đâu đấy cả rồi, ai
đóng vai tṛ nào là phải đóng cho hết tṛ,
chớ không từ chối được”. Đó là
thuyết định mệnh của
Khổng Giáo: số mệnh con người đă
được định trước, không thể cưỡng
lại được. C̣n cái nghiệp là
triết lư nhân quả của Phật Giáo.
Hai quan niệm trên được đồng bào ta tin tưởng,
không ai cho đó là u uẩn huyền bí cả. Cái
thế lực u uẩn huyền bí mà cụ Trần
muốn nói, có lẽ là cái tôn giáo mới du nhập vào
nước ta. Đó là Cộng sản đảng.
Điểm này được cụ Trần đề
cập đến trong Chương 7: Tôn chỉ và
sự hành động của Cộng sản đảng,
xin được tóm lược theo đúng nguyên văn: “Cộng sản
đảng là một thứ tôn giáo mới, giống như
các tôn giáo cũ cốt lấy sự mê tín. Các tôn giáo
cũ nói có cơi trời, có thiên đường là nơi
cực lạc. Cộng sản giáo ngày nay th́ hoàn toàn
duy vật, không có sự tin tưởng nào khác
nữa, cho thiên đường không phải ở cơi
trời mà chính ở cơi trần gian này. Ai tin theo đạo
ấy, phải tin lư thuyết của Các Mác và Lê Nin là
tuyệt đối chân chính, đem áp dụng là
được sung sướng đủ mọi
đường, tức thực hiện được
cảnh thiên đường ở cơi đời. “Về tín ngưỡng,
đạo Cộng sản không thờ phụng thần
thánh nào khác nữa, phải sùng bái Các Mác, Lê Nin,
Sử Ta Lin. Đă tin mê cái đạo ấy và đă coi
lư thuyết ấy là chân lư tuyệt đối, th́ ngoài
cái lư thuyết ấy ra, là tà giáo, là tả đạo.
Ai không tin theo và phản đối những người
đứng đầu đảng, tức là những
bậc giáo chủ, th́ là người phản đạo,
tất phải trừng trị rất nghiêm. Tín đồ
cộng sản phải là những người cuồng
tín và chỉ biết lo làm cho ḿnh được
mọi điều thắng lợi, chẳng sá chi
những điều phúc họa thiện ác. “Đặc
sắc của cộng sản là không nhận có luân thường
đạo lư, không biết có nhân nghĩa đạo
đức. Người cộng sản cho đó là
hủ tục của xă hội phong kiến thời xưa,
đặt ra để lừa dối dân chúng. V́ có tư
tưởng như thế, cho nên cha con, anh em, bè bạn
không có t́nh nghĩa ǵ cả, chỉ biết tôn
trọng chủ nghĩa của cộng sản và
phục ṭng những người cầm quyền
của đảng. Gia đ́nh, xă hội, phong tục,
chế độ cũ đều bỏ đến
tận cội rễ, để thành lập xă hội
mới. Cái xă hội mới ấy không tranh đấu
cho quốc gia hay cho dân tộc. Dù có nói tranh đấu
cho quốc gia hay cho dân tộc nữa, cũng chỉ là
cái phương pháp dùng tạm thời trong một cơ
hội nào để cho được việc mà thôi,
chứ mục đích cốt yếu là tranh đấu
cho giai cấp vô sản. Khi sự tranh đấu ấy
được thắng lợi, th́ cứ tranh đấu
măi để bảo vệ quyền lợi của giai
cấp ấy và xóa bỏ hết những cương
giới nước nọ với nước kia để
thực hiện một thế giới đại đồng,
đặt dưới quyền chỉ huy của giáo
chủ cộng sản ở bên Nga. Đảng
cộng sản bên Nga nói là bài trừ đế
quốc chủ nghĩa và tiêu diệt những chế
độ độc tài áp chế đời xưa, nhưng
lại áp dụng chế độ độc tài áp
chế hà khốc và tàn ác hơn thời xưa, và gây
ra một thứ đế quốc chủ nghĩa theo
một danh hiệu khác, để tự ḿnh thống
trị hết thiên hạ. Thành ra các nước đă
theo cộng sản đều phải là những nước
phụ thuộc nước Nga, cũng như bên Tàu ngày
xưa các nước chư hầu phải phục tùng
mệnh lệnh thiên tử. Chế độ cộng
sản ở nước Nga ngày nay có khác ǵ chế
độ nhà Tần thời chiến quốc bên
Tầu. Có khác là ở những mánh khóe
hiện thời mà thôi, c̣n th́ cũng tàn bạo gian trá
như thế, và cũng dùng những quyền mưu
quỉ quyệt để thống trị hết cả
các nước. Đảng cộng sản chuyên dùng
những thủ đoạn quỉ quyệt, nên tuy có
thắng lợi mà những người trí thức ít
người theo. Cũng v́ vậy mà họ bài trừ
trí thức và chỉ ưa dùng đàn bà, trẻ con và
những người lao động là hạng người
dễ khuyến dụ, dễ lừa dối”. (2) Đảng Cộng
sản vào thời cụ Trần c̣n quá mới mẻ,
chưa tác động đến vận mệnh dân
tộc, nên cụ chưa định h́nh được,
mường tượng đó là một thế lực
u uẩn huyền bí. Đến thế hệ sau,
mới thấy được cái thế lực trên
đă chế ngự thế giới này trong thế
kỷ vừa qua. Thế lực này xuất phát từ
Nga gặp sự đối kháng của một thế
lực khác là Hoa Kỳ. Hai thế lực trên h́nh thành
hai thế giới đối nghịch nhau. Đó là
Quốc tế Cộng sản và Thế giới Tự
do với hai hệ tư tưởng hoàn toàn đối
lập. Một bên xác định nguyên tắc bất
di bất dịch của quyền tư hữu thiêng liêng
và phát huy những quyền tự do căn bản
của con người. C̣n một bên chủ trương
đoạn tuyệt triệt để chế độ
tư hữu cổ truyền, xây dựng chế độ
cộng sản toàn thế giới Hai thế lực Hoa
Kỳ và Liên Xô, tạo ra những nhân vật như
Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm, Lê Duẩn, Nguyễn
Văn Thiệu…Mỗi người do cái nghiệp
của ḿnh, ông Hồ dù là người VN nhưng
tổ quốc của ông là Liên Xô xă hội chủ nghĩa
với ước nguyện khi chết được
gặp Karl Marc và Lenin. C̣n học tṛ tin cậy nhất
là Lê Duẩn thể hiện cái nghiệp qua câu nói
“Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc
và các nước xă hội chủ nghĩa anh em”. Ông
Diệm một ông quan phong kiến đạo Thiên chúa,
được vua trao quyền lănh đạo, ông ngoan
đạo và tử v́ đạo. C̣n ông Thiệu v́
nghiệp vơ biền nên không chấp nhận đấu
tranh chính trị khi t́nh thế đ̣i hỏi. Tất
cả đều đóng trọn vai tṛ trong “tấn
tuồng” Việt Nam. Họ là những người yêu
nước theo tư duy của từng người, song
tất cả v́ mê muội, không c̣n sáng suốt để
nhận ra họ có nhiều cơ hội để thay
đổi cuộc diện khi gặp bế tắc.
Đó là v́ cái ngiệp, họ phải đóng trọn
vai tṛ. Đất nước dưới sự lănh
đạo của những người Cộng sản
cuồng tín, đă gánh chịu nhân quả nặng
nề, “hết nạn nọ đến nạn kia,
thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần” như
số phận đoạn trường của Vương
Thúy Kiều. Tự nguyện làm tay sai phục vụ
tham vọng của Nga rồi chuyển sang Tàu th́
chẳng khác nào làm điếm làm đầy tớ hai
lần. Thế lực Hoa Kỳ:
Gần 100 năm sau khi Christopher Columbus khám phá ra Tân
Thế giới, vào tháng 5/1707 khoảng 100 kiều dân
Anh vượt Đại Tây Dương cập bờ
phía Đông của tân đại lục này, khởi
đầu làn sống di cư vĩ đại đổ
vào Bắc Mỹ. Sau 160 năm, số di dân Âu Châu đông
đảo đă khai phá và lập ra 13 tiểu quốc
trực thuộc triều đ́nh Anh Cát Lợi Trong sự sung túc của một vùng đất
mới dồi dào tài nguyên, những người Mỹ
gốc Âu châu mạo hiểm và dũng cảm đă
nẩy sinh những tư tưởng dân chủ với
ư niệm mới “Mọi người sinh ra đều
có quyền hưởng một phần đồng đều
trong những cái may mắn của cuộc đời”.
Và họ luôn có ư nghĩ “đó là đặc
ân mà Tạo hoá đặc biệt dành cho họ”.
Thêm vào đó, trong cảnh vực mới tự do phóng
khoáng, sống ngoài sự ḱm tỏa của chế
độ quân chủ ở chính quốc, những tư
tưởng cấp tiến càng được phổ
biến, khiến họ quan niệm rằng “Quyền
lực chính trị là của dân và dân đă ủy thác
quyền lực đó cho chính phủ, Chính phủ
chỉ là đại diện của dân và v́ thế có
bổn phận v́ quyền lợi của dân mà thực
thi quyền hành do dân giao phó. Nếu chính phủ vi
phạm những quyền tự nhiên của dân th́ dân
có quyền và bổn phận lật đổ chính
phủ”. Để chống lại bạo lực của
Anh hoàng, năm 1775 Đại hội Đại lục
với tư cách đại diện cho toàn thể dân
chúng Mỹ quyết định thành lập Quân đội
Lục địa Mỹ, đặt dưới
quyền chỉ huy của George Washington. Năm sau Đại
hội chấp nhận quyết nghị “Hiệp
Chủng Quốc thực sự là và có
quyền là những quốc gia tự do và độc
lập”.Thomas Jefferson được cử đứng
đầu Ủy ban 5 người soạn thảo Tuyên
ngôn Độc lập. Bản tuyên ngôn lịch sử này được
Đại hội Lục địa long trọng công
bố ngày 4/7/1776. Đại hội c̣n chỉ thị các
tiểu bang soạn thảo các bản Hiến pháp thành
văn cho tiểu bang ḿnh. Tất cả đều
bắt đầu bằng một Tuyên ngôn Dân quyền,
nhắc lại những nguyên tắc căn bản
của Tuyên ngôn Độc lập “Quyền hành
của chính phủ phải được giới
hạn chặt chẽ bởi những quyền bất
diệt của dân”. Trong phần mở đầu Tuyên ngôn
Độc lập, những đại biểu cho toàn
thể dân chúng Hoa Kỳ đă khẳng định: “Chúng
tôi coi những chân lư sau đây là hiển nhiên:
Mọi người sinh ra đều được b́nh
đẳng. Tạo hóa đă ban cho họ những
quyền bất khả xâm phạm, trong đó có
quyền sống, quyền được hưởng
tự do và quyền được mưu cầu
hạnh phúc. Chính v́ để bảo vệ những
quyền đó mà chính phủ được lập ra
giữa con người với nhau. Chính phủ nắm
quyền hợp lư do sự ưng thuận của dân. V́
thế bất cứ h́nh thức cai trị nào có xu hướng
phá hủy mục tiêu trên, th́ dân có quyền sửa
đổi hoặc hủy bỏ h́nh thức cai trị
đó và thành lập một chính phủ mới, đặt
nó trên những tổ chức và quyền hành theo
những h́nh thức mà dân xét thấy có thể
bảo đảm được an ninh và hạnh phúc
cho ḿnh”. Những người lănh đạo Cách
mạng 1776 cho rằng: “Chế độ Hoa
Kỳ là kết quả của một kinh nghiệm
độc nhất bao gồm những ǵ tốt đẹp
nhất chưa từng có trên quả đất này.
Chế độ này phải trở thành một
kiểu mẫu cho tất cả các nước và dân
tộc”. Thế lực Liên Xô: Nửa thế kỷ sau, Karl Marx
(1818-1883) -một triết gia Đức nổi
tiếng dựa vào những cơ sở lư luận
của những nhà duy vật thế kỷ 18, xây
dựng học thuyết Duy vật biện
chứng và Duy vật lịch sử để
kết luận rằng: Sự sống luôn
biến động và phân hóa làm nầy sinh những mâu
thuẫn cần phải giải quyết. Giải
quyết các mâu thuẫn này lại tạo ra sự
biến động và phân hóa tiếp theo. Như
vậy mâu thuẫn là nguồn gốc của sự
tồn tại và phát triển và quy luậ phát
triển của xă hội loài người từ nguyên
thủy đến ngày nay luôn có mâu thuẫn”. Marx cho rằng trong giai đoạn nền công
nghiệp tư bản đang phát triển, tư
liệu sản xuất ngày càng phức tạp, lực
lượng công nhân gia tăng nhanh chóng làm phát sinh
những mâu thuẫn xung đột giữa chủ và
thợ, giữa lực lượng sản xuất
mới và quan hệ sản xuất cũ. Đối
với chế độ tư bản -một chế
độ tư hữu phát triển đến mức
cao nhất sẽ trở thành trở ngại cho sự
tiến bộ hơn nữa của xă hội, giai
cấp vô sản sẽ làm cuộc cách mạng loại
bỏ chướng ngại vật, thủ tiêu chế
độ tư hữu về phương tiện
sản xuất và thành lập chế độ công
hữu cộng sản chủ nghĩa. Trong cuốn Tư bản luận (Das
Capital) xuất bản năm 1867, Marx đả kích
mạnh mẽ hệ thống kinh tế của các nước
có nền kỹ nghệ trên đà phát triển, v́
hệ thống này cho phép quyền tư hữu các phương
tiện sản xuất, cho phép một thiểu số
sử sụng nó để kiếm lời, vừa
bốc lột vừa kiểm soát công nhân về
mặt kinh tế. Điều quan trọng mà Marx
nhấn mạnh là “Mọi cơ cấu chính trị
của xă hội đều là sản phẩm của
hệ thống kinh tế xă hội đó. Do đó
thống trị về mặt kinh tế sẽ thống
trị cả về mặt chính trị”. Marx
khẳng định trong Tuyên ngôn Cộng sản năm
1848 rằng “Lịch sử loài người từ
khi có giai cấp đến nay chỉ là lịch sử
đấu tranh giai cấp. Chế độ tư
bản đă lỗi thời nhất định sẽ
diệt vong và nhường chỗ cho chủ nghĩa xă
hội văn minh”. (3) Giai cấp công nhân được Marx tuyển
chọn để lănh đạo cuộc cách mạng xă
hội chủ nghĩa. Ông vạch ra sứ mạng
lịch sử của họ là “đào mồ chôn
chủ nghĩa tư bản, tiến hành đấu
tranh giai cấp, dùng bạo lực thủ tiêu nhà nước
tư sản và thiết lập nền chuyên chính
của giai cấp vô sản”. Để thực
hiện sứ mạng này, Marx chủ trương
tập trung cho giai cấp công nhân mọi thứ
quyền lực với ba chức năng: chỉ đạo
lao động, quản lư công việc chung và thống
trị ư thức hệ của toàn thể nhân dân. Marx
đă xét lại một cách toàn diện về
những phạm trù cổ điển của sự phân
quyền, đó là nền dân chủ cho đến lúc này
được xem là hoàn chỉnh nhất. Marx trở thành
cha đẻ của chủ nghĩa Cộng sản. Marx quan niệm “Cách mạng vô sản
phải nổ ra cùng một lúc ở các nước tư
bản. Nếu chỉ diễn ra ờ một nước
th́ nhất định thất bại”. Từ đó
ông đưa ra khẩu hiệu “Vô sản các nước
đoàn kết lại” và thành lập Quốc
tế I vào năm 1866 tại Paris, nơi
được mệnh danh là trung tâm cách mạng Âu
châu Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
đă nổ ra ở Pháp với việc ra đời Công
xă Paris năm 1871. Lần đầu tiên giai cấp công
nhân mưu toan dùng bạo lực để thiết
lập nền chuyên chính vô sản, nhưng bị chính
quyền Đệ tam Cộng ḥa Pháp dẹp tan. Quốc tế II và chủ nghĩa xét lại Sau thất bại của Công xă Paris, Karl Marx
chạy sang Đức, một nước tư bản
phát triển nhất lúc bấy giờ. Nơi đây
đảng Dân chủ Xă hội Đức được
Marx xem là một đảng kiểu mẫu của giai
cấp công nhân. Marx và Federick Angels (1820-1889) đă ra
sức củng cố đảng DCXH Đức thành
một đảng Marxit điển h́nh. Sau khi Marx qua
đời (1883) Angels lập ra Quốc tế II vào
năm 1889 cũng nhằm tạo sự hợp tác
chiến đấu giữa các đảng Đảng Dân
chủ Xă hội thuộc nhiều nước khác nhau.
Nhưng khi Angels chết (1895) những lănh tụ kỳ
cựu của Đảng Dân chủ Xă hội Đức
đă chứng minh sự già cỗi lỗi thời
của học thuyết Marx. Họ cho rằng lư
thuyết Marx không c̣n phù hợp với t́nh h́nh xă
hội mỗi ngày mỗi có sự thay đổi
lớn và chủ trương xét lại toàn bộ
những nguyên tắc cũ của nó. Nhóm xét lại cho rằng “Giai cấp công nhân
không có khả năng tự ḿnh xây dựng một ư
thức hệ độc lập như Marx quan niệm”.
Karl Kaustky (1854-1938) dẫn chứng trường hợp nước
Anh, nơi mà chế độ tư bản rất phát
triển nhưng giai cấp công nhân lại hoàn toàn xa
lạ với ư thức hệ cộng sản. Ông
kết luận: “Chủ nghĩa xă hội chỉ có
thể phát triển trên căn bản của một
kiến thức khoa học sâu rộng, điều mà người
công nhân không có, chính những trí thức tư sản
mới có khả năng truyền đạt cho giai
cấp công nhân hiểu được vai tṛ và sứ
mạng của họ”. Một
lănh tụ xét lại khác là Edward Bernstein (1850-1932) th́
cho rằng: "Giai cấp vô sản có khuynh hướng
cải lương hơn là làm cách mạng v́ thế các
đảng Dân chủ Xă hội nên từ bỏ
loại ngôn từ tối tăm có tính chất cách
mạng mà nên công khai tuyên bố là một đảng
chủ trương các cuộc cải lương".
Bernstein lo ngại giai cấp công nhân bị thúc đẩy
bởi "sứ mạng lịch sử và vai tṛ cách
mạng" do Marx vạch ra có thể đi quá xa, gây
bất lợi cho cuộc đấu tranh ôn ḥa của công
nhân. Ông chủ trương thu nhận các phần
tử không vô sản vào đảng cũng như dành
cho giới trí thức quyền lănh đạo đảng
v́ tŕnh độ học vấn thấp của giai
cấp công nhân. Nhóm xét lại vạch ra đường
lối đấu tranh ôn ḥa hợp pháp, dùng diễn
đàn ở nghị trường để đ̣i
hỏi chính phủ thực hiện các cải cách dân
chủ. Quan
niệm của Kautsky là “kết hợp cuộc cách
mạng xă hội chủ nghĩa với nền chính
trị dân chủ của các nước văn minh
tiến bộ, coi con đường tiến tới
quyền lực phải bắt buộc thông qua các
cuộc bầu cử". Ông lên án chế độ
độc tài do Lenin thành lập ở Nga sau Cách
mạng tháng 10 là "sản phẩm của một
quốc gia chậm tiến không có truyền thống dân
chủ". Sau khi lật đổ Nga hoàng, trong
cuộc bầu cử tự do đầu tiên, Đảng
Bolshevik của Lenin chỉ chiếm thiểu số ở
Quốc hội, ông ta liền giải tán Quốc
hội và thành lập chế độ chuyên chính vô
sản.(C̣n tiếp phần 2) Lê
Quế Lâm |