Từ
đấu tranh giành độc lập
đến chia rẽ dân tộc
Dân
tộc Việt Nam từ ngàn xưa đă mang truyền
thống bất khuất. Để bảo vệ
nền độc lập tự chủ, họ đă
nhiều lần bẻ găy mưu đồ thôn tính
hoặc vùng lên lật đổ ách thống trị
của kẻ thù xâm lược từ phương
Bắc. Tính đến cuối thế kỷ 18, chúng
đă thực hiện trên 15 cuộc xâm chiếm trong
gần hai ngàn năm liên tục. Đến giữa
thế kỷ 19 khi thực dân Pháp vừa đặt chân
lên ba tỉnh miền Đông, phong trào kháng Pháp đă
vùng dậy khắp miền Nam: Trương Công Định,
Thủ khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Phan Tôn, Phan Liêm...
Quyết tâm chống Pháp của quân dân miền Nam
thể hiện qua lời trăn trối của Kinh lược
sứ Phan thanh Giản với thuộc cấp trước
khi cụ uống thuốc độc tự sát: "Những
lá cờ tam sắc không thể phất phới bay trên
thành lũy mà nơi ấy Phan thanh Giản c̣n sống". (1)
Làn
sóng chống Pháp lan rộng dần từ Nam ra Bắc
khi Pháp âm mưu thôn tính toàn cơi Việt Nam. Nhưng
tất cả các cuộc khởi nghĩa chống Tây xâm
đều bị thất bại trước đội
quân xâm lược nhà nghề được trang
bị vũ khí hiện đại của một cường
quốc có tiềm lực kinh tế mạnh. Trước
thất bại của các phong trào Cần Vương và
Văn Thân, giới sĩ phu ư thức rằng muốn
chiến thắng kẻ thù cần phải hướng
ra nước ngoài, t́m một đường lối
đấu tranh khác để giải phóng dân tộc.
1.
Phong trào hướng
ngoại canh tân cứu nước:
Phong trào tranh
thủ độc lập cho nước nhà chuyển
sang một bước mới trong giai đoạn vùng lên
của châu Á hồi đầu thế kỷ 20.
Chiến thắng vang dội của Nhật khi họ
đánh bại hạm đội Nga ở Lữ
Thuận (2/1904) đă thức tỉnh các từng
lớp yêu nước. Mọi người đều hướng
về Phù tang Tam đảo noi gương canh tân
của Minh trị Thiên hoàng để phục hưng
xứ sở. Tiếp đến là cuộc Cách mạng
Tân Hợi (1911) ở Trung Hoa do bác sĩ Tôn Dật Tiên
(1866-1925) lănh đạo đă thổi một luồng
gió mới vào phong trào đấu tranh của dân
tộc. Giới sĩ phu bắt đầu làm quen
với những ư tưởng mới về dân chủ
dân quyền của Cách mạng Âu châu xuyên qua những
công tŕnh biên khảo của hai nhà trí thức cấp
tiến Trung quốc Khang Hữu Vi (1858-1927) và Lương
Khải Siêu (1873-1929) cùng các bản dịch của người
Trung Hoa như quyển Xă hội Khế ước
luận (Le Contrat Social của Jean Jacques Rousseau), Vạn lư
tinh pháp (L'Esprit de Lois của Montesquieu), Tiến hóa
thuyết (L'Évolutionisme của H. Spencer).
Phong trào Duy tân
khởi đầu với phong trào Đông du do các
cụ Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1871-1926) , Tăng
Bạt Hổ (1858-1906) , Đặng Tử Kính
(1875-1928)... phát động. Các cụ thành lập
Việt Nam Duy tân hội, tôn cháu đích tôn vua Gia Long là
Kỳ ngoại hầu Cường Để (1882-1951) làm
hội chủ. Ba mục tiêu chính của hội là
đánh đuổi Pháp, khôi phục chủ quyền
Việt Nam và kiến thiết quốc gia theo thể
chế quân chủ lập hiến theo khuôn mẫu
của Nhật. (2) Các cụ hướng
về Nhật, cầu viện họ giúp đỡ
về quân giới, học hỏi ở họ về chính
trị, ngoại giao, giáo dục và thực nghiệp. Các
cụ nghĩ rằng Nhật cũng là một dân
tộc da vàng, họ vừa mới đánh thắng Nga
xong, không chừng họ có ư muốn làm bá chủ
cả châu Á. Do đó Nhật có thể giúp cách
mạng Việt Nam để tước bớt ảnh
hưởng của Âu châu, đó là điều có
lợi cho họ. (3)
Năm 1905, Phan
Bội Châu được Duy tân hội giao phó sứ
mạng sang Nhật để lo việc khí giới.
Đến Nhật, Phan Bội Châu gặp Lương
Khải Siêu và được vị học giả Trung
Quốc nổi tiếng này hướng dẫn cụ
đến Đông Kinh gặp hai nhân vật có thế
lực ở Nhật lúc bấy giờ là Khuyển Dưỡng
Nghị, Tổng lư và Bá tước Đại Ôi đảng
trưởng Đảng Tiến bộ. Các chính khách
Nhật hứa sẽ giúp cách mạng Việt Nam, nhưng
lại viện lư do việc này có liên hệ đến
quốc tế, phải được chính phủ
ngầm chịu giúp th́ mới thực hiện
được...Nhưng rủi thay "việc đánh
Nga vừa mới xong, chính phủ chưa rảnh mà ngó
ngàng đến việc nào khác được". (4)
Tuy việc cầu
viện bất thành, song trong thời gian ở Nhật,
thấy sự tiến bộ của nước này,
cụ Phan Bội Châu mới
thấy rằng "chỉ lo toan về vấn đề
quân giới là điều nông nỗi, không phải là
cái kế tuyệt hay để mưu tính công cuộc
độc lập nước nhà". Vấn đề
chính là "dân trí nước nhà c̣n quá thấp mà
nhân tài cũng thiếu thốn không có". Phan Chu
Trinh cũng đồng ư với cụ: "Xem dân trí
Nhật Bản rồi đem dân trí ta ra so sánh, thật
không khác ǵ muốn đem con gà con đọ sức
với con chim cắt già. Giờ bác ở đây nên
chuyên tâm ra sức vào việc văn, thức tỉnh
đồng bào cho khỏi tai điếc mắt đui,
c̣n việc mở mang d́u dắt ở trong nước
th́ tôi xin lănh. Lưỡi tôi đang c̣n, người
Pháp chẳng làm ǵ tôi được đâu mà lo".
Phan Bội Châu liền viết "Hải ngoại
huyết thư" nhờ Phan Chu Trinh đem về nước
thức tỉnh đồng bào.
Việc đào
tạo nhân tài cũng là ư kiến của Lương
Khải Siêu đă góp ư với Phan Bội Châu: "Cái
kế hoạch độc lập của quư quốc có
ba đề mục lớn. Một là thực lực riêng
ở trong nước các ông. Hai là nhờ hai tỉnh
Quảng nước tôi cứu viện. Ba là nhờ
sức cứu viện của Nhật. Hai tỉnh
Quảng giúp chỉ là giúp khí giới. Nhật có giúp
cũng chỉ là giúp về mặt ngoại giao. C̣n
nhất thiết đều trông cậy ở thực
lực của quư quốc mà thôi". Theo Lương
th́ "thực lực là hệ trọng hơn
hết và không ǵ cho bằng nhân tài". Do đó
"trước hết quư quốc hăy gắng công ra
sức vun trồng nhân tài. Hễ nhân tài có đủ,
th́ chỉ đợi thời cơ đưa đến
là ta làm được việc lớn dễ dàng". (5)
Phan Bội Châu
thấy ư kiến của Lương Khải Siêu chí lư,
cụ liền vận động và được
Khuyển Dưỡng Nghị chấp nhận cho học
sinh Việt Nam sang Nhật du học. Nguyễn Thức
Canh, Lương Lập Nham, Nguyễn Diên và Lương
Nghị Khanh là 4 học sinh Việt Nam đầu tiên
được vào học ở Chấn Vơ Học
hiệu và Đồng văn Thư viện ở Đông
Kinh. Cụ Phan c̣n viết bài "Khuyên thanh niên du
học", in ra mấy ngàn bản giao cho Tăng
Bạt Hổ đem về nước cổ động
thanh niên. Song song
với việc vận động và kêu gọi gởi
thanh niên đi học nước ngoài, các nhà Nho
tiến bộ Lương Văn Can, Đào Nguyên
Phổ, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Ngô Đức
Kế, Dương Bá Trạc... c̣n mở trường
Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội. Đây là
một trường học hợp pháp với tôn
chỉ làm cách mạng văn hóa tương tự như
Khánh Ưng Nghĩa Thục của Nhật, nhằm
mở rộng tân học cho các tầng lớp thanh niên. (6)
Hưởng ứng
lời kêu gọi của cụ Phan, hàng trăm học
sinh đă tấp nập lên đường sang
Nhật. Thực dân Pháp thấy sự lớn mạnh
của phong trào sẽ tác hại đến quyền
lợi của chúng, nên t́m cách dập tắt. Dựa vào
bản thương ước kư kết với Nhật
năm 1907, Pháp nhường cho Nhật một số
quyền lợi về thương măi ở Đông Dương,
do đó chính phủ Nhật ra lịnh trục xuất
Cường Để, Phan Bội Châu và số học
sinh Việt Nam đang theo học ở Nhật. Đông
Kinh Nghĩa Thục cũng bị Pháp cấm hoạt
động.
Thất vọng
với người Nhật, các sĩ phu yêu nước
liền hướng về Trung Hoa sau Cách mạng Tân
Hợi. Năm 1912, Phan Bội Châu thành lập Việt
Nam Quang Phục Hội với chương tŕnh hành
động là đánh đuổi thực dân Pháp, giành
lại chủ quyền và thành lập nước
Cộng ḥa Dân quốc Việt Nam. Công việc đầu
tiên của Việt Nam Quang Phục Hội là tổ
chức Quang Phục Quân, bước sang giai đoạn
xử dụng vũ lực lật đổ chính
quyền thực dân. Song các cuộc bạo động
đều bất thành. Quang Phục Quân tan ră sau khi các
lănh tụ nồng cốt là Hoàng Trọng Mậu
(1874-1916) bị Pháp bắt và xử bắn, Lương
Ngọc Quyến (1885-1917) th́ tự sát sau vụ binh
biến Thái Nguyên năm 1917. Đến
giữa năm 1925, Phan Bội Châu bị Pháp bắt
ở Thượng Hải, chúng giải cụ về nước
và tuyên án tử h́nh. Nhờ sự tranh đấu
quyết liệt của Phan Chu Trinh và các tầng
lớp sinh viên, học sinh, Pháp phải nhượng
bộ an trí cụ ở Huế.
2.
Sự phân hóa
trong giới lănh đạo về vấn đềđấu
tranh giải phóng dân tộc
Sống trong một
xă hội Nho giáo lâu đời, người dân
Việt Nam thừa nhận vai tṛ lănh đạo của
giới sĩ phu v́ họ là những người không
những có kiến thức sâu rộng mà c̣n có một
căn bản đạo đức làm đầu:
học lễ nghĩa trước, học văn hóa sau.
Trước khi đứng ra gánh vác việc nước,
họ phải dùi mài kinh sử, trau dồi phẩm
hạnh để đợi thời, lấy việc tu
thân làm nồng cốt dựa trên 5 điểm căn
bản của người chính nhân quân tử là: nhân,
nghĩa, lễ, trí, và tín. Pháp vừa đặt ách
thuộc địa lên sáu tỉnh Nam Kỳ, cụ Phan
Thanh Giản uống thuốc độc chết để
giữ vẹn khí tiết của người có trách
nhiệm. Khi Pháp hạ thành Hà Nội áp đặt
chế độ bảo hộ lên đất Bắc,
cụ Hoàng Diệu, cụ Nguyễn Tri Phương
tuẫn tiết theo thành. Tiếp theo là các phong trào kháng
Pháp như Văn Thân, Cần Vương cũng như
phong trào Duy Tân đều do giới sĩ phu phát động.
Với phong trào hướng
ngoại canh tân cứu nước hồi đầu
thế kỷ 20, khi trọng trách của người sĩ
phu được chuyển sang giới trí thức Tây
học, th́ tinh thần dân tộc của người
Việt Nam đứng ra lănh đạo cách mạng
giải phóng dân tộc không c̣n hợp nhất, dù
tất cả đều tranh đấu cho độc
lập quốc gia. Bên cạnh nhóm trí thức hấp
thụ nền văn hóa Pháp ngưỡng mộ
truyền thống dân chủ của Pháp, họ muốn
xây dựng một thể chế dân chủ tự do
theo mô h́nh Tây phương sau khi nước nhà độc
lập... Th́ cũng có một nhóm trí thức Tây
học khác say mê chủ nghĩa Mác Lê với chủ trương:
trước hết làm cách mạng quốc gia đánh
đuổi thực dân Pháp giành độc lập cho
tổ quốc, sau đó làm cách mạng thế giới
đánh đổ chủ nghĩa đế quốc xây
dựng chế độ cộng sản. (7)
Riêng
thành phần trí thức không xu hướng cộng
sản cũng chia thành hai nhóm: nhóm ôn ḥa chủ trương
cộng tác chân thành với Pháp để tranh thủ
từng bước những điều kiện dân
chủ tự do và độc lập cho tổ quốc.
Nhóm bạo động th́ chủ trương lật
đổ ách thống trị của thực dân Pháp
bằng vũ lực. Đó là mối mâu thuẫn
xuất phát từ hai chủ trương khác nhau
của hai lănh tụ Cách mạng Việt Nam: Phan Bội
Châu với khuynh hướng bạo động và Phan
Chu Trinh với khuynh hướng cải lương.
Đến
năm 1945, t́nh h́nh thế giới bước vào
một ngơ rẽ quan trọng. Trước khi đầu
hàng Đồng minh, Nhật làm cuộc đảo chánh
lập đổ chủ quyền thực dân Pháp ở
Đông Dương và trao trả độc lập cho
Việt Nam. Trần Trọng Kim nhận trọng trách lănh
đạo quốc gia trong giai đoạn khó khăn này.
Kẻ giúp Việt Nam lật ách thống trị của
Pháp th́ sắp bại trận, c̣n kẻ thù của dân
tộc là bọn thực dân Pháp th́ có tư cách pháp lư
để trở lại vùng đất ảnh hưởng
của họ. Trong t́nh thế đó, Trần Trọng
Kim chủ trương "phải uyển chuyển,
đi con đường ṿng" để tranh đấu
cho nền độc lập quốc gia bằng cách
điều đ́nh với Pháp đúng theo pháp lư
được Liên hiệp Quốc và Đồng minh
chấp thuận. Trong khi đó những người
cộng sản cho rằng "chỉ có một con
đường thẳng đi đến độc
lập hoàn toàn chứ không có hai". Họ chủ
trương "cướp lấy chính quyền
để tỏ cho các nước Đồng minh
thấy rằng họ mạnh, chớ không chịu
để cho ai nhường".
Thủ
tướng Trần Trọng Kim cho rằng chủ trương
đó của cộng sản "sẽ rất
hại cho dân mà chưa chắc thành công được",
do đó cụ mời những người cộng
sản hợp tác với chính phủ để cùng
tranh đấu cho nền độc lập quốc
gia...Nhưng một cán bộ Việt Minh (cộng
sản) trả lời: "Nếu có hại cũng
không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người
trong nước mười phần chết mất chín,
chúng tôi sẽ lập một xă hội mới với
một thành phần c̣n lại, c̣n hơn với chín
phần kia". Cuối cùng, Trần Trọng Kim
chấp nhận rút lui, giao cho Việt Minh "nhận
lấy trách nhiệm đối với quốc dân và
lịch sử". (8)
3.
Mâu thuẫn
trong nội bộ dân tộc
Việt Nam là
một nước thuần tuư nông nghiệp nhưng
Hồ Chí Minh và nhóm đệ tử xuất thân
từ các gia đ́nh quan lại hoặc địa
chủ cố dựng lên một "Đảng
kiểu mới" của giai cấp công nhân để
có thể vay mượn những lư luận sắc bén
của Lenin làm triết thuyết tuyên truyền. Họ
tin tưởng rằng "Sự nghiệp giải phóng
dân tộc, độc lập, tiến bộ và phồn
vinh của dân tộc. Sự nghiệp giải phóng lao
động và hạnh phúc của nhân dân. Sự
nghiệp dành dân chủ, bảo vệ tự do và
giải phóng con người v.v... Tóm lại những
vấn đề hệ trọng nhất trong vận
mệnh của nhân dân, của dân tộc và của con
người đều được lịch sử
trao cho giai cấp công nhân. Giai cấp có một chính
đảng được trang bị bằng học
thuyết duy nhất cách mạng và khoa học". (9)
Nguyễn Ái
Quốc (tức Hồ Chí Minh sau này) đă đề
cao: "Chủ nghĩa Mác Lê không những là cái
cẩm nang thần kỳ, không những lài kim chỉ
nam, mà c̣n là mặt trời soi sáng con đường
thẳng tới thắng lợi cuối cùng, đi
tới chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa
cộng sản". (10) Thật ra lúc
đầu Hồ Chí Minh chỉ coi chủ nghĩa
cộng sản như là một lợi khí dùng để
tranh đấu cho nền độc lập dân
tộc... nhưng dần dần v́ quá tin tưởng
ở tính chất "thần kỳ" của học
thuyết Mác Lê ông gắn liền độc lập
với chủ nghĩa xă hội. Rất tiếc "Cái
xă hội mới ấy -như lời nhận xét
của Trần Trọng Kim- không tranh đấu cho
quốc gia, cho dân tộc. Dù có nói tranh đấu cho
quốc gia hay dân tộc đi nữa, cũng chỉ là
cái phương pháp dùng tạm thời trong một cơ
hội nào đó để cho được việc mà
thôi, chớ mục đích cốt yếu là tranh đấu
cho giai cấp vô sản. Khi cuộc đấu tranh
của giai cấp được thắng lợi, th́
cứ tranh đấu măi để bảo vệ
quyền lợi của giai cấp ấy và xóa bỏ
hết những cương giới nước nọ
với nước kia để thực hiện một
thế giới đại đồng, đặt dưới
quyền chỉ huy của giáo chủ cộng sản
ở bên Nga”.(11)
Từ khi truyền
bá chủ nghĩa Mác Lê vào Việt Nam, những người
cộng sản cố tạo ra sự mâu thuẫn trong
nhân dân và các lực lượng yêu nước về
đường lối thực hiện cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc. Họ phân biệt
giữa một bên là giai cấp công nhân đứng trên
lập trường quốc tế vô sản gắn
liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc với phong trào cộng sản thế giới.
Phong trào này chủ trương lật đổ
chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới. C̣n
một bên là giai cấp tư sản và tiểu tư
sản đứng trên lập trường thuần túy
quốc gia với tinh thần dân tộc hẹp ḥi
chỉ đấu tranh cho quyền lợi giai cấp
của họ.
Thật ra đó là
sự đối kháng giữa hai nhóm trí thức: nhóm
trí thức có tinh thần quốc gia dân tộc và nhóm
trí thức Mác xít. Cả hai đều là con cháu
giới sĩ phu yêu nước đă tiêm nhiễm ít
nhiều Tây học -đó là thành phần ưu tú
nhất của xă hội Việt Nam lúc bấy giờ
nhưng bất đồng về quan điểm chính
trị.
- Một bên dựa
vào học thuyết Mác Lê, mượn danh giai cấp công
nhân v́ Karl Marx đă vạch cho họ thấy rằng
"giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến
nhất ở thời đại ngày nay, họ đại
biểu cho phương tiện sản xuất mới
của nền công nghiệp hiện đại. Họ là
giai cấp có khả năng lănh đạo tất
cả các giai cấp và tất cả các dân tộc
bị áp bức trong cuộc đấu tranh để
tự giải phóng". Từ đó, họ
khẳng định: "Trong thời đại ngày
nay, người tiêu biểu cho dân tộc không ai khác hơn
là giai cấp công nhân”. (12) Nhân danh dân
tộc, cộng sản giành độc quyền lănh
đạo cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước nên sau khi giành được chính quyền
họ thiết lập nền chuyên chính vô sản,
thực hiện đấu tranh giai cấp để
đem lại sự toàn thắng cho giai cấp vô
sản ở trong nước cũng như trên toàn
thế giới.
- C̣n một bên là
những người yêu nước chỉ có một
mục đích duy nhất "là làm thế nào
bắt buộc người Pháp trả quyền độc
lập". Đó là hoài bảo của lănh tụ Cách
mạng Việt Nam Phan Bội Châu: "Cái chí của
tôi th́ chỉ muốn đổ máu ra giành tự do,
đánh đổi cái kiếp tôi tớ giành lấy
quyền tự chủ mà thôi". Cụ tự
nhận đă thất bại, không hoàn thành việc
lớn v́ không có thủ đoạn và tài thao túng cũng
như không khéo xoay chuyển với thời thế. (13) Đó
cũng là điểm yếu chung của người
quốc gia so với người cộng sản. (C̣n
tiếp)
Lê Quế Lâm
|