Từ đấu
tranh giành độc lập đến chia rẽ dân tộc (đoạn
cuối)
Mâu thuẫn về vấn đề dân tộc và giai
cấp:
Để biện minh cho đường lối đấu
tranh giai cấp, những người cộng sản
lập luận rằng "xă hội Việt Nam có
nhiều giai cấp khác nhau, tất cả đều
thừa nhận hạnh phúc của nhân dân chỉ có
thể có được trong sự độc lập
của đất nước. Các giai cấp đều
v́ quyền lợi riêng của giai cấp ḿnh và
quyền lợi chung của đất nước mà
đấu tranh... Nhưng chỉ có giai cấp công nhân
do vị trí lịch sử, họ mới có quan điểm
đồng nhất lợi ích của giai cấp với
lợi ích của dân tộc là một". Họ cho
rằng: "chỉ có giai cấp công nhân mới có
thể lật đổ chủ nghĩa tư bản
quốc tế để hoàn thành sứ mạng
lịch sử có tính chất toàn thế giới...Nhưng
trước hết giai cấp công nhân tại mỗi nước
phải lật đổ chủ nghĩa tư bản
đang thống trị dân tộc ḿnh trong đó có
bản thân ḿnh ngay trên đất nước ḿnh".
(14)
Những lănh tụ cộng sản
Việt Nam luôn rêu rao: "v́ sứ mạng lịch
sử, giai cấp công nhân Việt Nam đă tự
nguyện đứng ra làm đội tiên phong chống
thực dân Pháp giành độc lập cho dân
tộc" và họ khẳng định "Cách
mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải do
giai cấp công nhân lănh đạo". Họ đă
thực hiện đúng con đường do Marx và
Engels vạch ra mà những người cộng sản
phải theo là: "Giai cấp vô sản mỗi nước
trước hết phải giành lấy chính quyền,
phải tự xây dựng thành giai cấp dân tộc,
phải tự ḿnh trở thành dân tộc". (l5)
Tự nhận ḿnh là dân tộc và lănh đạo cách
mạng nên bất cứ cá nhân hoặc đoàn thể
nào chống lại họ đều bị gán là tà
ngụy, phản động, là kẻ thù của nhân
dân, là phản bội tổ quốc v.v...
Trái lại những người không xu hướng
cộng sản th́ cho rằng lực lượng chính
của cách mạng là lực lượng của cả
dân tộc, bao gồm mọi tầng lớp nhân dân
không phân biệt giai cấp. Họ không chấp
nhận lập luận của cộng sản cho
rằng xă hội Việt Nam phân chia thành nhiều giai
cấp. "Sĩ, Nông, Công, Thương" không
phải là bốn giai cấp trong xă hội mà chỉ
là cách phân biệt ngành nghề của nhân dân. Sở
dĩ tầng lớp "Sĩ" đứng đầu
trong xă hội, v́ người dân Việt Nam vốn
trọng nhân tài. Thành phần này cũng từ trong dân
mà ra, nhờ học thuật hơn người, họ
đỗ đạt và tham gia vào guồng máy lănh đạo
để đem tài năng ra giúp dân giúp nước.
Những người được gọi là lănh
tụ cách mạng phải là những người ưu
tú nhất trong xă hội, lấy đức và tài làm căn
bản. Quan niệm "Quốc gia hưng vong thất
phu hữu trách" được xem là truyền
thống đoàn kết đă giúp nhân dân nhiều
lần chiến thắng xâm lược, nên người
quốc gia lên án việc phân chia giai cấp. Họ cho
rằng phân chia giai cấp sẽ làm suy yếu lực lượng
quốc gia, chia rẽ dân tộc làm tổn hại đến
công cuộc chiến đấu giành độc lập.
Đó là một trọng tội đối với
tổ quốc và đồng bào.
Mâu thuẫn về đường
lối giành độc lập:
Hồ Chí Minh tin tưởng một cách tuyệt đối
rằng "muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc, không có con đường nào khác con
đường Cách mạng vô sản, phải đứng
trong quĩ đạo cộng sản và đón nhận
sự ủng hộ và giúp đỡ của Quốc
tế Cộng sản". (16) Ông ca tụng chủ
nghĩa Mác Lê đến với Cách mạng Việt Nam
như "người đi đường đang khát
mà có nước uống, đang đói mà có cơm
ăn” (17) Đành rằng độc lập tự do là
trên hết, song người quốc gia không chấp
nhận chủ trương của Hồ Chí Minh
đưa dân tộc vào con đường cách mạng
vôsản và đặt đất nước vào quĩ
đạo Quốc tế Cộng sản. Đối
với vận mạng của cả dân tộc,
những người tự nhận lănh trách nhiệm trước
lịch sử không thể đón nhận sự giúp
đỡ của ngoại bang một cách dễ dàng.
"Đói cần ăn, khát cần uống", song cũng
cần thận trọng, đắn đo suy nghĩ,
chỉ ăn những thứ đáng ăn, chỉ
uống những thứ đáng uống. Phải
biết lượng xét những thứ đó có phù
hợp với cơ thể hay không? Nhất là sự
đón nhận đó có phương hại đến
quyền lợi dân tộc hay không? V́ một khi "đi
vào con đường cách mạng vô sản, xây
dựng xă hội mới" như lời Trần
Trọng Kim nhận xét th́ những người cộng
sản sẽ "không c̣n đấu tranh cho quốc gia
dân tộc nữa, mà chỉ tranh đấu cho giai
cấp vô sản, tranh đấu măi cho đến khi nào
thực hiện được một thế giới
đại đồng đặt dưới quyền
chỉ huy của Cộng sản Nga".
Trần Trọng Kim c̣n đề cập đến"cái
khôn khéo" của Cộng sản Nga khi họ cổ vũ
việc "bài trừ đế quốc chủ nghĩa
và tiêu diệt những chế độ độc tài
áp chế...Nhưng lại áp dụng chế độ
độc tài áp chế hà khốc tàn ác hơn xưa
nhiều và gây ra một thứ đế quốc
chủ nghĩa theo một danh hiệu khác, để
tự ḿnh thống trị hết thiên hạ. (18)
Dù Hồ Chí Minh cố biện minh cho sự ưu
việt của chế độ xă hội chủ nghĩa,
tự nhận là đại diện cho dân tộc và
xả thân cho sự tồn vong của tổ quốc...
Nhưng hành động liên kết với ngoại bang,
đem vận mạng dân tộc cột chặt vào
vận mạng một quốc gia khác và thề trung thành
tuyệt đối với sự kết hợp đó,
không thể nói đó là một hành động khôn
ngoan. Hành động "cắm sào chặt" như
vậy rất nguy hiểm khi ḿnh chưa tiên liệu
hết được những ǵ sẽ xảy
ra...Vả lại, đối tượng mà ông vừa
chọn lựa c̣n quá mới mẻ, chưa được
kiểm chứng về sự toàn thiện và đáng
tin cậy của nó. Đó là chưa kể tới
sự tương phản của sự kết hợp
khá sượng sùng đó, nếu không nói là một
sự lợi dụng trắng trợn: một nước
thuộc địa mưu t́m sự kết hợp
với một quốc gia vốn là một đế
quốc xâm lược với những lănh tụ đầy
tham vọng muốn giải phóng toàn thế giới.
Từ sự bất đồng quan điểm về
vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc
làm nảy sinh sự mâu thuẫn giữa lập trường
quốc gia và cộng sản về nhiều vấn
đề lớn khác như dân chủ, tự do, kháng
chiến, đoàn kết v.v...
Quan điểm về dân chủ: Trường Chinh, lư
thuyết gia Đảng Cộng sản Việt Nam cho
rằng: "Đấu tranh cho dân tộc không thể
chỉ đứng trên lập trường quốc gia v́
quốc gia của ta là một quốc gia dân chủ, hơn
nữa là một quốc gia dân chủ mới của
số đông toàn dân đang chiến đấu để
tiêu diệt bọn cướp nước và bọn
Việt gian bán nước, nên không thể chỉ đấu
tranh cho quốc gia dân tộc mà phản lại dân
chủ được". (19) Lê Duẩn th́ cho
rằng: "dân chủ của giai cấp vô sản khác
hẳn dân chủ của giai cấp tư sản", v́
theo ông: "sự đấu tranh v́ độc lập
của dân tộc và quyền lợi của giai cấp
là khẩu hiệu dân chủ -giải phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng con người- dân
chủ vừa dính liền với dân tộc vừa dính
liền với chủ nghĩa xă hội".
Quyền chính trị dân chủ của cộng sản
được tổ chức đúng theo nguyên tắc
của Lenin: tập trung dân chủ, nghĩa là “từ
trung ương đến cấp xă đều có
hội đồng nhân dân do dân bầu theo một danh sách
chọn sẵn. Dân chúng bầu cử các hội đồng
nhân dân và hội đồng nhân dân tuyển chọn các
thành viên ủy ban nhân dân là thể hiện tinh thân dân
chủ. Sự tuân phục mệnh lệnh của
ủy ban nhân dân cấp dưới đối với
ủy ban nhân dân cấp trên là biểu tượng lư
thuyết tập trung. Sự dung ḥa hai nguyên tắc này
là lư thuyết tập trung dân chủ". Nền dân
chủ trên đây được Lenin đề cao là
"triệu lần dân chủ hơn bất cứ
chế độ dân chủ nào". Đó là
"nền dân chủ nhất, khác về chất so
với nền dân chủ không đầy đủ".
Đó là "nền dân chủ nguyên thủy đặt
trên một nền tảng khác cao hơn nhiều".
(20)
Hồ Chí Minh đă từng giải thích ư nghĩa
“Tập trung dân chủ” một cách cụ thể khi
ông đến thăm một trường đại
học do Nguyễn Văn Trấn quản lư. Ông nói
với các học viên: “Như các cô các chú có đồ
đạc tài sản ǵ đó th́ các chú các cô là
chủ, đó là dân chủ. Các chú các cô không biết
giữ, tôi giữ giùm cho. Tôi tập trung ḅ vào rương.
Tôi khóa lại và bỏ ch́a khóa vào túi tôi đây”.
Nguyễn Văn Trấn tường thuật tiếp:
“Bác ra về. Tôi lốc cốc theo đưa. Bác
hỏi: “Tôi nói như vậy có được không?
-Dạ thưa, Bác đă nói th́ thôi!” (21)
Những người quốc gia không chấp nhận
quyền chính trị dân chủ của cộng sản,
họ coi đó là một h́nh thức của chế
độ độc tài v́ không có sự phân quyền
theo nghĩa cổ điển trong các thể chế dân
chủ tự do. Đề cập đến chế
độ của các nước cộng sản, cụ
Trần Trọng Kim nhận xét tất cả đều
giống nhau và "in như cái chế độ chuyên
chế thủa xưa. Người nào nói xấu hay công
kích những người cầm quyền của đảng
là phải tội bị đày, bị giết. Ai không
sốt sắng theo th́ bị t́nh nghi, phải chịu
mọi điều phiền khổ. Nhân dân trong nước
vẫn bị đàn áp lầm than khổ sở, riêng có
một số ít người có địa vị to
lớn là được sung sướng. Như thế
th́ giải phóng ở đâu? Giải phóng ǵ mà cả
chính thể một nước phải nương
cậy ở những đội trinh thám để
đi ŕnh ṃ và tố cáo hết thảy mọi người".
(22)
Quan điểm về tự do: Trường Chinh cho
rằng: "Tự do là quí nhưng trên đời không
có tự do tách rời tất yếu bao giờ, bởi
v́ người có tự do là người hiểu rơ qui
luật tất yếu khách quan của tự nhiên
của xă hội và hoạt động trong phạm vi
hiểu biết những qui luật đó". Để
trả lời những người lập luận
rằng: đứng về một phe đấu tranh, nô
lệ một lư tưởng chính trị c̣n đâu là
tự do? Trường Chinh trả lời "Có
chứ! Phe dân tộc dân chủ v́ tự do tiến
bộ mà đấu tranh, thuận theo qui luật của
lịch sử của vũ trụ mà đấu
tranh". Ông khẳng định "không thể t́m
tự do ngoài cuộc đấu tranh của dân tộc
và của thế giới dân chủ chống chủ nghĩa
tư bản đế quốc". (23) Nguyễn Văn
Trấn từng làm vụ trưởng Khoa giáo Trung
ương kể lại trong hồi kư của ông, khi
một nhà báo hỏi “Như vậy là cách mạng
đă cấm tự do ngôn luận? Ông Trường
Chinh sửng sốt: Anh nói sao? Các anh được tha
hồ tự do chửi đế quốc đó thôi’.
(24)
Đứng trên lập trường quốc gia,
những người yêu nước sau khi làm tṛn nghĩa
vụ dân tộc, giành độc lập cho đất
nước xong, họ sẽ ban bố các quyền
tự do rộng răi cho toàn dân. Quyền dân chủ
được thực hiện bằng nguyên tắc nhà
nước phân quyền, toàn dân tự do bầu
cử, ứng cử và tham gia vào guồng máy quốc
gia mà không phân biệt nguồn gốc, giai cấp,
miễn hội đủ những điều kiện b́nh
đẳng cho mọi người. Chính phủ do dân
bầu lên sẽ phục vụ quyền lợi quốc
gia theo ư muốn của người dân, khi cần
thiết dân chúng có quyền thay đổi chính
phủ. Trái lại, đối với những người
cộng sản, tiếp theo cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc là cuộc đấu tranh giai
cấp và xây dựng chủ nghĩa xă hội. Ngoài nghĩa
vụ dân tộc, người cộng sản c̣n
phải góp phần lật đổ chủ nghĩa tư
bản quốc tế để hoàn thành sứ mạng
lịch sử của giai cấp vô sản. Nhiệm
vụ sau được coi là nặng nề hơn, quan
trọng hơn, do đó họ không thể ban bố
những quyền tự do dân chủ rộng răi mà
phải tiếp tục đấu tranh và t́m tự do
trong cuộc đấu tranh kế tiếp cho đến
khi nào chủ nghĩa cộng sản toàn thắng trên
khắp thế giới.
Quan điểm về kháng chiến
Kháng chiến là chống Pháp giành độc lập.
Mục tiêu kháng chiến của người quốc gia
rất rơ rệt, có mức độ rơ ràng: một
khi Pháp nhượng bộ rút lui, Việt Nam độc
lập hoàn toàn tự nhiên việc kháng chiến không c̣n
nữa. C̣n Hồ Chí Minh th́ quan niệm "kháng
chiến Việt Nam là một bộ phận của
Mặt trận nhân dân thế giới do Liên Xô lănh
đạo. Kháng chiến Việt Nam là một h́nh
thức cao rộng của giai cấp đấu tranh, nghĩa
là cuộc đấu tranh lớn lao trên toàn thế
giới, giữa thế giới tư bản và thế
giới cộng sản".
Quan điểm về đoàn kết
Người quốc gia nói đến đoàn kết v́
họ ư thức rằng cuộc vận động
đấu tranh giành độc lập cho nước nhà
sở dĩ thất bại là do thiếu đoàn
kết. Các đảng phái chính trị, các đoàn
thể tôn giáo quốc gia hô hào đoàn kết nhưng
tất cả đều e dè không ai dám đứng ra
tổ chức và lănh đạo việc đoàn
kết, trong khi đó cộng sản có chủ trương
và thủ đoạn hẳn ḥi. Họ phân biệt
"đoàn kết chiến lược" giữa giai
cấp nông dân và giai cấp công nhân do giai cấp công
nhân lănh đạo khác với "đoàn kết sách
lược" chỉ phù hợp cho từng giai đoạn
mà thôi. Mỗi thời kỳ, cộng sản đưa
ra một mặt trận đoàn kết khác nhau. Họ
có thể liên minh giai đoạn hoặc có điều
kiện với kẻ thù phụ để cô lập và
trung lập hóa kẻ thù chính trước mắt
rồi loại dần từng kẻ thù để
đưa đến sự toàn thắng của giai
cấp vô sản.
- Năm 1941, Hồ Chí Minh lập Mặt trận
Việt Minh nhằm tập hợp các lực lượng
yêu nước chiến đấu lật đổ ách
thống trị Pháp Nhật. Lúc bấy giờ cộng
sản chủ trương "ve vuốt" ḷng yêu nước
của giới địa chủ trí thức và con em
họ. Cộng sản mời họ tham gia và cử
giữ các chức vụ quan trọng trong chính quyền
và mặt trận Việt Minh nhằm lợi dụng uy
tín của giới này để tập hợp nhân dân
vừa để họ ủng hộ tài chánh và
vật chất cho các cơ sở của đảng và
mặt trận ở nông thôn.
- Năm 1946 để ủng hộ cuộc đàm phán
của Hồ Chí Minh với chính phủ Pháp, cộng
sản thành lập Mặt trận Liên Việt nhằm
đoàn kết các đảng phái chính trị lúc
bấy giờ đang tham gia chính phủ liên hiệp
Quốc Cộng và các lực lượng yêu nước
khác chưa tham gia Mặt trận Việt Minh.
- Đến năm l949/50 khi hai phe quốc gia và cộng
sản ở vào thế đối nghịch, Hồ Chí
Minh đứng hẳn về phía cộng sản
Quốc tế, đón nhận sự giúp đỡ
của Trung Cộng và Liên Xô để tiến hành
cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc bấy giờ,
Việt Minh cho rằng "vấn đề tranh thủ
địa chủ trí thức và con em của giới này
tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất
chỉ là vấn đề cục bộ thuộc
về sách lược, vấn đề chính yếu lúc
này là thu hút lực lượng nông dân, đẩy
mạnh sản xuất phục vụ nhu cầu kháng
chiến". (25)
Để thực hiện mưu đồ này, chiến
dịch cải cách ruộng đất được
Việt Minh phát động rầm rộ nhằm
"thanh trừ" những thành phần trí thức
địa chủ và con em họ ra khỏi mặt
trận và chính quyền đồng thời thu nạp nông
dân vào thay thế. Theo cộng sản "đoàn
kết nhỏ có bị tổn thương đôi chút
nhưng đoàn kết lớn càng được
củng cố và mở rộng. Qua cải cách ruộng
đất sẽ có thêm hàng triệu nông dân để
củng cố Mặt trận dân tộc thống
nhất trên cơ sở liên minh công nông". Theo
chỉ đạo của Trường Chinh, cộng
sản chủ trương "không thể ḥa b́nh
cải tạo được... mà phải “cách cái
mạng" của giai cấp địa chủ phong
kiến". (26) Lúc bấy giờ Việt Minh dựa vào
bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ
với trung nông, liên hiệp phú nông để tiêu
diệt địa chủ.
Sau 80 năm sống trong cảnh mất nước, tinh
thần yêu nước và khát khao độc lập
của dân tộc càng phát triển cao độ,
nhất là trong t́nh thế thuận lợi hồi
cuối Thế chiến II Các doàn thể tôn giáo, các
đảng phái chính trị theo khuynh hướng
quốc gia hoạt động ráo riết song tất
cả đều thất bại, thua sú trước người
cộng sản.
Người quốc gia thất bại, một phần v́
họ quá bị động và ỷ lại vào thế
lực bên ngoài. Rất tiếc đó lại là
những thế lực đang suy tàn như quân
phiệt Nhật, Quốc dân Đảng Trung Hoa và
thực dân Pháp. Mặt khác, những đảng phái cách
mạng Việt Nam từ Trung Quốc trở về
“tuy nói là đảng phái kia nhưng kỳ thực không
có sự tổ chức ǵ ra tṛ”. Những lănh tụ
quốc gia thường hay tranh giành và thích địa
vị, nhưng họ lại thiếu óc tổ chức,
không có thủ đoạn chính trị, rất ít kinh
nghiệm đấu tranh, không có sách lược
chiến lược giành và giữ chính quyền như
những người cộng sản (27)
Để giành chính quyền, trong chiến tuyến
thống nhất, cộng sản sẳn sang đoàn
kết và bắt tay lien hiệp với các đảng
phái quốc gia. Khi nắm được chính quyền
họ bắt đầu loại dần những người
quốc gia để nắm độc quyền lănh
đạo. Trong khi người cộng sản quan
niệm “cứu cánh biện minh cho phương
tiện” và cho rằng bất cứ việc ǵ có
lợi cho họ đều là tốt cả th́
những người quốc gia chân chính không đảng
phái vẫn giữ trọn tiết tháo nhà Nho. Hồ Chí
Minh đă lập lại câu nói của Lenin để
nhắn nhủ đảng viên tại Đại
hội toàn quốc của đảng lần II hồi
tháng2/1951: “Nếu có lợi cho cách mạng th́ dù
phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp,
chúng ta cũng thỏa hiệp”(28)
V́ chủ trương của cộng sản là lừa
dối như lời nhận xét của Trần
Trọng Kim: “Nói thế nào để đục
việc mà thôi” nên người ta chỉ nghe các lănh
tụ cộng sản nói về nhân nghĩa, dung trí,
hiếu trung, liêm chính chớ ít khi nghe họ đề
cập đến chữ Tín. Các lănh tụ quốc gia
chân chímh khi đứng ra đảm nhận trọng trách,
họ chỉ có tấm long thành xả thân cho đất
nước, chớ không bon chen v́ tham vọng chính
trị hoặc đón nhận danh lợi do đối
phương cám dỗ. Khi cần họ sẳn sàng rút
lui. Đó là trường họp các ông:
- Trần Trọng Kim là một nhà giáo về hưu,
vừa là học giả vừa là sử gia. Cụ thành
lập chính phủ độc lập đầu tiên
của Việt Nam. Sau khi Nhật tuyên bố đầu
hàng, cụ thấy dân chúng hăng hái tham gia biểu t́nh
do Việt Minh kêu gọi với khí thế cuồng
nhiệt để giành và bảo vệ nền độc
lập dân tộc. Cụ khuyến cáo vua Bảo Đại
thoái vị và rời Phủ thủ tướng ở
Huế, về nhà mà cụ đă thuê sẳn ở Vĩ
Dạ để chờ giao quyền cho Việt Minh.
- Huỳnh Thúc Kháng là một nhà cách mạng lăo thành
đồng thời với các cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh. Năm 1946, theo sự triệu thỉnh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ tham gia chính
phủ liên hiệp với thiện ư ḥa giải sự
xâu xé giữa ba đảng Việt Minh, Việt
Quốc và Việt Cách, thể hiện tinh thần đoàn
kết dân tộc, ủng hộ cuộc đấu tranh
ngoại giao với Pháp ở Paris. Ư định bất
thành, t́nh trạng “đảng tranh” càng kịch
liệt, chính phủ liên hiệp tan ră, chiến tranh bùng
nổ, cụ buồn chán xin rút lui.
Lê
Quế Lâm
Chú thích:
1. Georges Taboulet, La Geste Francaise en Indochine:
Tome Deuxieme, Adrien Maisonneuve, Paris, 1956, P. 519.
2. Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử, Nxb Sống
Mới, Sàig̣n, 1961, Tr. 459.
3-5. Phan Bội Châu, Ngục Trung Thư (Bản dịch
của Đào Trinh Nhất), Nxb V́ Nước, QLD
Australia, 1983, Tr. 30, 40/4l, 45/5l.
6-7. Quân Sử III: Quân dân Việt Nam
chống Tây xâm (l847-1945), Trung Tâm Ấn loát/Bộ
TTM/QLVNCH, Sàig̣n, 1971, Tr. 350 +404.
8. Trần Trọng Kim, Một cơn gió bui, Nxb Vinh Sơn,
Sàig̣n, 1969, Tr. 87.
9. Lê Duẩn, T́nh h́nh thế giới và chánh sách đối
ngoại của chúng ta, Nxb Sự Thật, Hànội,
1981, Tr. 128/129.
10. Hồ Chí Minh, Tuyển Tập, Nxb Sự Thật, Hànội,
1980, Tập II, Tr. 176/177.
11. Trần Trọng Kim, Sđd, Tr. 115.
12. Lê Duẩn, Sđd, Tr. 128/129.
13. Phan Bội Châu, Ngục trung thư (Bản dịch
của Đào Trinh Nhất), Nxb V́ nước, QLD, 1983,
Tr. 74/75.
14. Lê Duẩn, Sđd, Tr. 130.
15. Các Mác và F. Ang-ghen, Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, Nxb Sự Thật, Hànội, 1976, Tr. 75.
16-17.Hồ Chí Minh, Tuyển Tâp, Nxb
Sự Thật, Hà Nội, 1960, Tr.652 + 705.
18. Trần Trọng Kim, Sđd, Tr.116
19. Trường Chinh, Cách mạng Dân
tộc Dân chủ Nhân dân Việt Nam, Nxb Sự Thật,
Hànội, 1975, Tr. 165/166.
20. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến
Bộ, Mát-xcơ-va, 1976, Tập 33, Tr. 323.
21. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và Quốc
hội, Nxb Văn Nghệ, California, 1995, Tr. 188)
22. Trần Trọng Kim, Sđd, Tr. 117/118.
23. Trường Chinh, Sđd, Tr. 161/162.
24. Trần Gia Phụng, Án tích Cộng sản Việt
Nam, Nxb Non Nước, Toronto, 2001, Tr. 207 (Trích quyển
Viết cho Mẹ và Quốc Hội của Nguyễn Văn
Trấn, Sđd, Tr. 275)
25-26. Trường Chinh, Sđd, Tr. 320, 393
27. Trần Trọng Kim, Sđd, Tr.73.
28. Hồ Chí Minh, V́ Độc lập tự do, V́
chủ nghĩa xă hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội,
1970, Tr. 104.
|