Sử Lược Việt Nam thời Cận đại 1920-2020 Chương
3-3 Lê Quế Lâm |
Hồ Chí Minh
du nhập chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam Sau 80
năm mất chủ quyền, nay nước nhà độc
lập, chính phủ Trần Trọng Kim cố gắng
gầy dựng lại nền tự chủ của đất
nước với sự hăng hái tham gia của đông
đảo các tầng lớp thanh niên vào việc
kiến quốc. Lúc bấy giờ chiến tranh giữa
Nhật và Đồng minh vẫn c̣n tiếp diễn,
cụ Trần sợ người Nhật có thể
bắt buộc người Việt tham gia chiến đấu
với họ, nên trong nội các của cụ không có
Bộ Quốc pḥng. Cụ đặt niềm tin vào
giới trẻ và thành lập Bộ Thanh niên, nhằm
tổ chức và huấn luyện họ để làm
nồng cốt bảo vệ nền độc lập
quốc gia. Dưới sự lănh đạo và khích
động ḷng yêu nước của Bộ trưởng
Thanh niên Phan Anh, nội các lập ra các đội Thanh
niên Tiền tuyến để trong tương lai thành
một đội quân có tinh thần yêu nước và
khí thế mạnh mẽ. Giáo
sư Hoàng Xuân Hăn, Bộ trưởng Giáo dục
quyết định dùng chữ quốc ngữ thay
chữ Pháp. Ông soạn các sách giáo khoa về toán,
kỹ thuật bằng tiếng Việt và đưa
bộ Quốc văn Giáo khoa thư vào việc giảng
dạy trong niên học 1945-46 tại Bắc và Trung
Kỳ. Thi hành Tuyên chiếu ngày 3/5/1945 của vua
Bảo Đại: “Muốn cải tạo quốc
gia, chính phủ cần hành động cho quy-cũ nghĩa
là phải có hiến pháp. Hiến pháp tương lai
của Việt Nam sẽ căn cứ vào sự hợp
nhất quốc gia, sự quân dân cộng tác và
những quyền tự do chính-trị tôn-giáo cùng
nghiệp-đoàn của nhân dân”. Cụ Trần
đă thành lập Hội đồng dự thảo
Hiến pháp. Hội đồng gồm các trí thức,
văn nghệ sĩ nổi tiếng: Phan Anh, Nguyễn Tường
Long, Vũ Đ́nh Ḥe, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thái
Mai, Tôn Quân Phiệt, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Văn Sâm,
Nguyễn Văn Thinh, Hồ Hữu Tường. Hiến
pháp chưa kịp ra đời, th́ Cách mạng tháng Tám
xảy ra. Trong
thời gian hơn 4 tháng từ 17/4 đến 25/8/1945, chính
phủ Trần Trọng Kim phải tranh đấu
quyết liệt đ̣i lại chủ quyền, Nhật
mới chịu trả Bắc bộ nhưng vẫn
giữ Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng và Nam
Bộ. Măi đến đầu tháng 8/1945, trước
khi đầu hàng, Nhật mới chịu giao hoàn Nam
Bộ cho Việt Nam và một số cơ quan trước
kia thuộc Phủ Toàn quyền. Chính
phủ Trần Trọng Kim c̣n phải lo đối phó
với một vấn đề hết sức nan
giải là nạn đói của nhân dân. Để tích
trữ lương thực phục vụ chiến tranh và
nuôi hàng trăm ngàn quân lính Nhật, chính quyền Pháp
ra lịnh các phủ huyện thu gom thóc gạo gây ra
nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch
sử nước nhà. Chỉ trong ṿng nửa năm
từ cuối 1944 đến đầu 1945 tại
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đă có 2 triệu
người chết đói. Trần Trọng Kim thành
lập Bộ Tiếp tế phụ trách việc vận
tải thóc gạo từ Nam ra Bắc. Dân chúng quá đói,
phẫn uất và sẵn sàng hưởng ứng
lời kêu gọi của Việt Minh nổi dậy
chống chính quyền. Sau
khi Nhật đảo chánh Pháp, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
triệu tập một buổi họp ở Đ́nh
Bảng Bắc Ninh (12/3/1945), họ nhận định
"t́nh h́nh đă chín muồi do việc khủng
hoảng chính trị, quân thù không rảnh tay đối
phó, nạn đói khủng khiếp làm cho dân chúng oán
ghét chính quyền và cuối cùng Đồng minh sẽ
vào Đông Dương đánh Nhật. Đó là ba
điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền". Để chuẩn
bị khởi nghĩa, Mặt trận Việt Minh đề
ra khẩu hiệu "phá kho thóc giải quyết
nạn đói" và vạch cho dân chúng thấy
rằng "muốn sống c̣n th́ phải đoàn
kết đấu tranh. Muốn phá kho thóc th́ phải làm
cách mạng, đi theo Việt Minh, gia nhập các
hiệp hội cứu quốc, thành lập các đội
tự vệ tự vơ trang cho ḿnh và đấu tranh
quyết liệt với quân thù, vùng lên đánh đuổi
quân thù giành chính quyền về tay nhân dân". (25) Những
người cộng sản khẳng định con
đường duy nhất giải phóng dân tộc là
con đường cách mạng bạo lực của
Lenin, nên cán bộ cộng sản coi việc phá kho thóc
là cơ hội sách động dân chúng nổi dậy
đ́nh công, băi sở, băi chợ, băi khóa xuống
đường biểu t́nh thị uy sức mạnh
của quần chúng trong khi lực lượng vũ
trang làm nồng cốt núp vào đó để cướp
chính quyền. Sau
cuộc gặp gỡ Hồ Chí Minh, tướng Chennault
và A. Patti xúc tiến việc cung cấp vũ khí, phương
tiện liên lạc và huấn luyện quân sự cho các
lực lượng Việt Minh chống phát xít
Nhật. Thực hiện giao ước này, cán bộ
Việt Minh ở Côn Minh đă viết truyền
đơn bằng tiếng Việt được Không
đoàn 14 Mỹ đem rải cả trăm ngàn tờ
xuống khắp lănh thổ miền Bắc khiến uy tín
của Việt Minh tăng lên nhanh chóng, ai cũng tin
Việt Minh là lực lượng của phe Đồng
minh chống phát xít Nhật. Ngày 16/7/1945 toán quân Mỹ
mang biệt danh Con Nai (Deer Team) gổm 7 người do
thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy nhảy dù xuống
một khu vực gần Tân Trào. Ba ngày sau một toán
thứ hai mang biệt danh Con Mèo (Cat Team) do Đại úy
Charles Mike Holland chỉ huy và hai trung sĩ phụ trách
truyền tin cũng nhảy dù xuống khu vực
gần đó. Ngày
7/8/1945 toán Con Nai bắt đầu huấn luyện
cấp tốc về quân sự cho bộ đội
Việt Minh. Hồ Chí Minh đặt tên cho đội
quân này là bộ đội Việt-Mỹ do Kim Hùng làm
đại đội trưởng, Thomas làm tham mưu.
Ngày 14/ 8/1945, bộ đội Việt-Mỹ chia thành
hai nhóm cùng hướng về thị xă Thái Nguyên. Khuya
ngày 22/8/1945 trên đường về Hà Nội, Hồ
Chí Minh ghé Thái Nguyên gặp Thomas để hỏi han t́nh
h́nh. Ngày 1/9/1945 Hồ Chí Minh mời Archimedes Patti và Ray
Grelecki dự bữa cơm thân mật trước ngày
độc lập. Cùng dự tiệc có Vơ Nguyên Giáp và
Hoàng Minh Giám, Hồ Chí Minh bày tỏ ḷng cám ơn
về sự giúp đỡ của cơ quan t́nh báo
chiến lược OSS đối với phong trào
giải phóng dân tộc của Việt Nam. Năm
1980, A. Patti đă xuất bản quyển hồi kư “Why
Vietnam: Prelude to America’s Albatross” (Tại sao Vietnam: Khúc
dạo đầu chim Hải âu của nước
Mỹ). Trong phần giới thiệu, Patti nhận định
“Trong lịch sử cuộc Cách mạng tháng Tám
1945, lực lượng nước ngoài duy nhất
đứng bên cạnh Hồ Chí Minh chỉ có Hoa
Kỳ”. Nhận định trên không được
sự tán đồng của Mỹ lẫn Cộng
sản Việt Nam. Đó là thủ đoạn của
những người làm chính trị thực hiện
mọi phương cách để có lợi cho ḿnh. Tuy
nhiên nh́n lại các diễn tiến lịch sử sau
đó, cho thấy khi can thiệp trực tiếp vào
chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ không chủ trương
đánh bại Cộng sản Việt Nam, trái lại
họ c̣n tạo điều kiện giúp Cộng
sản VN thống nhất đất nước.
Chủ trương này có phải là Mỹ muốn
xử dụng Cộng sản Việt Nam làm con bài
nhằm đào sâu thêm mối phân hóa giữa Liên Xô và
Trung Cộng đến cao độ, để đạt
được mục đích chiến lược,
kết thúc chiến tranh lạnh mà không đổ
một giọt máu? Nếu mưu định không do người,
chả lẽ do trời định hay sao? Ngày
14/8/1945, Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu
hàng, t́nh h́nh Việt Nam bước vào một ngơ
rẽ quan trọng. Theo quyết định của Đồng
minh, Quân đội Hoàng gia Anh và Trung hoa Quốc dân
Đảng sẽ đổ bộ vào Đông Dương
giải giới Nhật và tổ chức công việc chính
trị cho các nước Đông Dương. Ngày
17/8/1945, De Gaulle, thủ tướng chính phủ lâm
thời Pháp bổ nhiệm Tướng Leclerc làm
Tổng tư lịnh Quân đội viễn chinh Pháp và
Đô đốc Thierry D'Argenlieu làm Cao ủy Pháp ở
Đông Dương. Quân
Pháp chuẩn bị ráo riết nhưng chưa đủ
lực lượng phải chờ quân Anh vào giúp
sức để khôi phục lại chủ quyền
ở Đông Dương. Lúc bấy giờ, tướng
Mounbatten -Tư lịnh Quân lực Hoàng gia Anh ở
Viễn Đông cũng muốn giúp Pháp trở lại
Đông Dương v́ đó là chủ trương
của Thủ tướng Churchill tại Hội
nghị Le Caire năm 1943. Biết được ư định
của Pháp, Bảo Đại liền gởi thư lưu
ư De Gaulle: "Để bảo vệ quyền
lợi và ảnh hưởng tinh thần ở Đông
Dương, Pháp nên thành thật công nhận nền
độc lập của Việt Nam, đồng
thời từ bỏ mọi ư định tái lập
chủ quyền cùng nền thống trị Pháp tại
đây dưới bất cứ h́nh thức nào. Chúng tôi
rất dễ dàng thỏa thuận với người
Pháp, chúng tôi mong được làm người bạn
thân của nước Pháp nếu nước Pháp đừng
tỏ ra muốn trở lại địa vị làm
thầy". (26) Ở
biên giới Hoa Việt, Lực lượng Việt Nam Cách
mạng Đồng minh hội (Việt Cách) và Việt
Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) đang theo
chân quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng
trở về nước giành chính quyền. Tại Tân
Trào (Thái Nguyên) từ 13 đến 15/8/1945, Đảng
Cộng sản Đông Dương quyết định
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước
khi quân Đồng minh vào Đông Dương tước
vũ khí Nhật. Chủ trương của Hồ Chí
Minh là giành chính quyền từ tay Nhật và chính
phủ Trần Trọng Kim, ông sẽ đứng ở
địa vị chủ nhà mà tiếp quân Đồng
minh. (27) Ngày
16/8/1945, tại đ́nh Tân Trào huyện Sơn Dương
tỉnh Tuyên Quang, Hồ Chí Minh triệu tập Quốc
dân Đại hội, có 60 đại biểu tham
dự trong số 100 người được mời.
Đại hội tán thành chủ trương Tổng
khởi nghĩa của Đảng Cộng sản, thông
qua 10 chính sách của Việt Minh: giành chính quyền, xây
dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa,
ban bố những quyền công dân như nhân quyền,
tài quyền, dân quyền, các quyền tự do dân
chủ (tín ngưỡng, ngôn luận, hội họp...)
dân tộc b́nh đẳng, nam nữ b́nh quyền. Đại
hội Quốc dân cử ra Ủy ban Dân tộc Giải
phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do Hồ
Chí Minh làm chủ tịch. Trước
các biến động lịch sử đe dọa
sự sống c̣n của nền độc lập
quốc gia, Trần Trọng Kim cải tổ nội các,
thành lập chính phủ lâm thời và ra tuyên cáo
với quốc dân "toàn thể Nội các chúng tôi
nhất quyết không lùi bước trước
một sự khó khăn nào cả để làm tṛn
sứ mạng là kiến thiết quốc gia, củng
cố nền độc lập của tổ quốc.
Muốn đạt được mục đích
ấy, chúng tôi vẫn hợp tác chặt chẽ
với các nhà đương chức Nhật Bản và
chúng tôi không bao giờ quên rằng quân Nhật
giải phóng cho ta ra ngoài cái áp chế của ngoại
quốc". Để
củng cố sức mạnh nói chuyện với Đồng
minh sắp vào tiếp nhận sự đầu hàng
của Nhật, Trần Trọng Kim kêu gọi các viên
chức nhà nước, các đảng phái quốc gia
"thống nhất lực lượng sau lưng chính
phủ để bảo vệ nền độc
lập, đừng để bị tṛng ách nô lệ
một lần nữa". Cụ công bố đạo
dụ qui hoàn Nam Bộ vào Việt Nam, hủy bỏ hoàn
toàn những hiệp ước bất b́nh đẳng
kư với Pháp năm 1862 và 1874, cử Nguyễn Văn Sâm
làm Khâm sai Nam Bộ. Ngày
17/8/1945, hưởng ứng lời kêu gọi của
Thủ tướng Trần Trọng Kim, Tổng hội
công chức tổ chức một cuộc biểu t́nh
khổng lồ ở công trường Nhà hát lớn Hà
Nội, có 15 vạn người tham dự để
ủng hộ chính phủ lâm thời. Lợi dụng khí
thế sôi nổi của cuộc biểu dương
sức mạnh nhân dân lần đầu tiên sau 80 năm
mất nước, cán bộ Việt Minh do Xứ
ủy Cộng sản Bắc Kỳ chỉ đạo,
bất thần chiếm lấy diễn đàn cuộc mít
tinh. Họ báo tin Phát xít Nhật đă đầu hàng,
tŕnh bày tóm tắt chủ trương của Việt
Minh, kêu gọi nhân dân ủng hộ Mặt trận
Việt Minh, đả đảo chính phủ Trần Trọng
Kim là bù nh́n tay sai Nhật, và chuẩn bị khởi
nghĩa giành chính quyền. Dân
chúng Việt Nam từ khi bị thực dân Pháp đô
hộ, khát vọng của họ là độc lập
tự do. Nay họ nghe Việt Minh tuyên truyền là “Việt
Nam đă được Đồng minh giúp đỡ
sẽ độc lập hoàn toàn", họ
lại nghe nói "Việt Minh lên cầm quyền, dân
không phải đóng thuế nữa, được hoàn
toàn tự do và có nhiều hạnh phúc", do đó
ai cũng tin theo, ngay những đội Thanh niên
Tiền tuyến do chính phủ lập ra cũng có ư ngă
về Việt Minh. Hai
hôm sau, sáng sớm ngày 19/8/1945, cán bộ Việt Minh huy
động hàng vạn nông dân ngoại thành và các
huyện mang gây gộc, tầm vong và ít khẩu súng
tiến vào nội thành dự cuộc mít tinh do Mặt
trận Việt Minh tổ chức. Các đoàn tự
vệ cứu quốc tập họp kéo đi với khí
thế sẵn sàng chiến đấu, hô hào dân chúng
khởi nghĩa thành lập chính quyền nhân dân.
Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu t́nh vũ
trang, dân chúng có các đơn vị chiến đấu
đi đầu chia thành nhiều đoàn tỏa đi
chiếm Phủ Khâm sai, trại Bảo an binh, Sở Công
an và các cơ quan chính phủ. Chiếm được
Phủ Khâm sai, Việt Minh dùng điện thoại kêu
gọi các tỉnh trưởng và thị trưởng
Hải Pḥng, Hà Đông, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định
đầu hàng. Sau
khi Việt Minh chiếm được chính quyền
ở Hà Nội, một số đoàn thể thanh niên và
các giới trí thức ở Bắc Bộ gởi điện
yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Trần
Trọng Kim tŕnh bày cho Bảo Đại thấy
rằng dân chúng đă bị Việt Minh tuyên truyền
nên họ ủng hộ Việt Minh và đang hăng hái
tham gia cách mạng. Cụ khuyên Bảo Đại nên
thoái vị ngay để cho Việt Minh "nhận
lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc
lập của nước nhà". Ngày
25/8/1945 Bảo Đại xuống chiếu thoái vị và
tuyên bố "Trẫm có thiết ǵ ngôi vua đâu,
miễn là Việt Nam giữ được nền
tự chủ của nước nhà là đủ.
Trẫm muốn làm người dân của một nước
độc lập c̣n hơn làm vua một nước nô
lệ". Trong chiếu thoái vị, ông mong
mỏi "Chính phủ mới sẽ lấy sự ôn
ḥa xử trí để những đảng phái đă
từng tranh đấu cho nền độc lập
của quốc gia nhưng không đi sát theo phong trào dân
chúng, có thể giúp vào việc kiến thiết
quốc gia. Và để chứng tỏ Chính phủ Dân
chủ Cộng ḥa nước ta đă được xây
dựng trên sự đoàn kết của toàn thể
quốc dân". (28) Trong
hồi kư, Trần Trọng Kim cho biết lúc bấy
giờ người Nhật có đến báo với
cụ "Quân đội Nhật c̣n trách nhiệm
giữ trật tự cho đến khi quân Đồng
minh đến thay. Nếu Chính phủ Việt Nam công
nhiên có lời mời Quân đội Nhật giúp, quân
Nhật có thể giữ trật tự". Nhưng
cụ nghĩ rằng "quân Nhật đă đầu
hàng, quân Đồng minh sắp đến, ḿnh nhờ
quân Nhật đánh người ḿnh, c̣n nghĩa lư ǵ
nữa, vả lại mang tiếng "cơng rắn
cắn gà nhà", nên cụ từ chối không
nhận sự giúp đỡ của Nhật. (29) Ngày
28/8/1945, Hồ Chí Minh thành lập chính phủ Việt
Nam Lâm thời gồm 15 bộ trưởng trong
đó hai phần ba là thành phần cộng sản.: -
Hồ Chi Minh: Chủ tịch kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao. -
Vơ Nguyên Giáp: Bộ trưởng Nội vụ + Phó
Bộ trưởng Quốc pḥng. -
Chu Văn Tấn: Bộ trưởng Quốc pḥng. -
Trần Huy Liệu: Bộ trưởng Thông tin Tuyên
truyền. -
Dương Đức Hiền: Bộ trưởng Thanh
niên quốc dân. (Đảng Dân chủ) -
Nguyễn Mạnh Hà: Bộ trưởng Quốc dân Kinh
tế. (Không đàng phái) -
Vũ Đ́nh Ḥe: Bộ trưởng Giáo dục. (Đảng
Dân chủ) -
Vũ Trọng Khánh: Bộ trưởng Tư pháp (Đảng
Dân chủ) -
Phạm Ngọc Thạch: Bộ trưởng Y tế. -
Đào Trọng Kim: Bộ trưởng Giao thông (Không
đảng phái). -
Lê Văn Hiền: Bộ trưởng Lao động. -
Phạm Văn Đồng: Bộ trưởng Tài chánh. -
Nguyễn Văn Tố: Bộ trưởng Cứu
tế Xă hội. (Không đảng phái) -
Nguyễn Văn Xuân: Ủy viên không giữ bộ nào. -
Cù Huy Cận: Ủy viên không giữ bộ nào. Cựu
hoàng Bảo Đại nhận lời làm Cố vấn
tối cao. Ngày 2/9/1945 tại
Quảng trường Ba Đ́nh, Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt
Nam Dân chủ Cộng ḥa Hỡi đồng bào
cả nước, "Tất cả
mọi người đều sinh ra có quyền b́nh
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những
quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn
Độc lập năm 1776 của nước Mỹ.
Suy rộng ra, câu ấy có ư nghĩa là: tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do. Bản
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách
mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra
tự do và b́nh đẳng về quyền lợi; và
phải luôn luôn được tự do và b́nh đẳng
về quyền lợi. Đó là những lẽ phải
không ai chối căi được. Thế mà hơn 80 năm
nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ
tự do, b́nh đẳng, bác ái, đến cướp
đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành
động của chúng trái hẳn với nhân đạo
và chính nghĩa. Về chính
trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta
một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành
những luật pháp dă man. Chúng lập ba chế độ
khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản
việc thống nhất nước nhà của ta, để
ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập
ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng
thẳng tay chém giết những người yêu nước
thương ṇi của ta. Chúng tắm các cuộc
khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng
buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng
thuốc phiện, rượu cồn để làm cho ṇi
giống ta suy nhược. Về
kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương
tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước
ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không
ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng
giữ độc quyền in giấy bạc, xuất
cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm
thứ thuế vô lư, làm cho dân ta, nhất là dân cày và
dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư
sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta
một cách vô cùng tàn nhẫn. Mùa thu năm
1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương
để mở thêm căn cứ đánh Đồng
Minh, th́ bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu
hàng, mở cửa nước ta rước Nhật.
Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp
và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo
nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu
năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc
Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị
chết đói. Ngày 9 tháng
3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân
đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là
bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là
chẳng những chúng không "bảo hộ"
được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đă
bán nước ta hai lần cho Nhật. Trước
ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đă kêu
gọi người Pháp liên minh để chống
Nhật. Bọn thực dân Pháp đă không đáp
ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn
nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng c̣n
nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính
trị ở Yên Bái và Cao Bằng. Tuy
vậy, đối với người Pháp, đồng
bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và
nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng
3, Việt Minh đă giúp cho nhiều người Pháp
chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người
Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính
mạng và tài sản cho họ. Sự
thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đă
thành thuộc địa của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi
Nhật hàng Đồng minh th́ nhân dân cả nước
ta đă nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Sự thật là dân
ta lấy lại nước Việt Nam từ tay
Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Pháp
chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
Dân ta đă đánh đổ các xiềng xích thực
dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước
Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ
chế độ quân chủ mấy mươi thế
kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ
Cộng ḥa. Bởi
thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của
nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn
dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ
với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước
mà Pháp đă kư về nước Việt Nam, xóa
bỏ tất cả mọi đặc quyền của
Pháp trên đất nước Việt Nam. Toàn dân
Việt Nam, trên dưới một ḷng kiên quyết
chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp. Chúng tôi
tin rằng các nước Đồng minh đă công
nhận những nguyên tắc dân tộc b́nh đẳng
ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn,
quyết không thể không công nhận quyền độc
lập của dân Việt Nam. Một dân tộc đă
gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm
nay, một dân tộc đă gan góc đứng về phe
Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân
tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập! V́
những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa,
trịnh trọng tuyên bố với thế giới
rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thật đă
thành một nước tự do độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy! Lê Quế Lâm Chú
thich 1.
Neil Sheehan, A Bright Shinning Lie, Picador, London, l990 P. 157. 2.
Hồ Chí Minh, V́ độc lập tự do, v́ Chủ
nghĩa Xă hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970, Tr.
288. 3.
Phạm Lễ (Ph.D.), Bộ mặt thực của
Hồ Chí Minh trong quá tŕnh loại bỏ Quốc gia
Việt Nam dưới sự chiếm đóng của các
cường quốc, Báo Ngày Nay được Việt
Luận Úc châu trích đăng ngày 16/7/1988. 4.
Hoàng Văn Chí, Từ Thực dân đến Cộng
sản, Nxb Chân Trời Mới, Sàig̣n, 1965, Tr. 38/40. 5.
Hồ Chí Minh Toàn Tập 2 (1924-1930) Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995, Tr. 265-266 + 280 6.
Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, NxbVinh Sơn,
Sàig̣n, 1969, Tr.116/118. 7.
Hồ Chí Minh Toàn Tập 3 (1930-1945) Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995, Tr. 36 + 168 8.
Bốn mươi lăm năm hoạt động
của Đảng Lao Động Việt Nam, Ban Nghiên
cứu lịch sử Đảng Trung ương), Nxb
Sự Thật, Hà Nội, 1975, Tr. 15/16. 9.
Hồ Chí Minh Toàn Tập 3, Sđd, Tr. 81-82 10. -Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh, the missing years,
1919-1941, C.Hurst & Co, 2002, P.253 + William Duiker, Ho Chi Minh – A
Life, Hyperion, 2000, P.218) 11.
Hồ Chính Minh Toàn Tập 3, Tr.3-4 12.
Báo Pháp Luật/Thành phố Hồ Chí Minh, số
Thứ hai 17/5/2010, Tinh thần dân tộc ở chủ
nghĩa Hồ Chí Minh, có dẫn nguồn -sách “Hồ
Chí Minh - Con người của sự sống” tác
giả GS/TS Mạc Quang Thắng, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2009. 13. Ban thẩm tra vụ việc Nguyễn Ái
Quốc ở Quốc tế Cộng sản, Bá Ngọc, Tạp
chí Xưa và Nay số 438 tháng 10/2013, ISSN 868-331X,
Hội Sử học Việt Nam, trang 4, trích "Đặc
biệt bức thư của Ban Lănh đạo Hải
ngoại Đảng CS Đông Dương viết
ngày 20 tháng 4 năm 1935 gửi Quốc tế Cộng sản cung
cấp những thông tin cực kỳ nguy hiểm về
Nguyễn Ái Quốc. Nội dung thư kết tội
Nguyễn Ái Quốc phải chịu trách nhiệm chính
về việc hơn một trăm đảng viên
của Đảng Cách mạng Thanh Niên bị bắt do
việc Nguyễn Ái Quốc biết Lâm Đức
Thụ trước đây là kẻ phản bội mà
vẫn tiếp tục sử dụng, Nguyễn Ái
Quốc rất sai lầm khi yêu cầu mỗi học viên
cung cấp hai ảnh, họ tên, địa chỉ,
họ tên cha mẹ, ông bà nói chung những người
sinh thành và địa chỉ chính xác của hai đến
mười bạn thân. Những bức ảnh của các
học viên do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức
Thụ yêu cầu đều vào tay mật thám. Ở
trong nước, ở Xiêm, ở khắp các nhà tù người
ta nói nhiều về trách nhiệm của Nguyễn Ái
Quốc. Đường lối chính trị của
Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc
chỉ đạo trước đây bị phê b́nh gay
gắt trong các đảng viên và quần chúng cách
mạng. Trong thư c̣n nói về sai lầm của
Nguyễn Ái Quốc khi hợp nhất các tổ
chức cộng sản vào năm 1930, yêu cầu
Nguyễn Ái Quốc trong thời gian gần nhất
cần viết cuốn sách tự chỉ trích những
sai lầm về chính trị của ḿnh". (Tham
khảo: Hồ Chí Minh, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Tiếng Việt) 14. Trần Gia
Phụng, Án tích Cộng Sản Việt Nam, Nxb Toronto,
2001, Tr.18 (Trích Chính Đạo, Việt Nam niên biểu
nhân vật chí, Nxb Văn Hóa, Houston, 1997, Tr.168) 15. Thảo
luận Hồ Học Lăm, Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia- Tiếng Việt 16-17. Hồ Chí Minh Toàn
Tập 3, Sđd, Tr. 174, 625-26, 198. 18. Jean Lacouture, Ho Chi
Minh: A Political Biography, Vintage Books, USA, 1968, P.77 19. Nguyễn Văn
Bạch, Bác Hồ mang tên Hồ Chí Minh từ khi nào? Báo
Cựu Chiến Binh thành hố Hồ Chí Minh ngày
thứ hai 18 tháng 5, 2020. 20.
Why Vietnam? Archimedest L.A. Patti, Nxb Đà Nẵng, 2008, Tr. 108,
112-113 21.
Vo Nguyen Giap, Unforgettable Days, Foreign Languages Pub. House, Hanoi,
1975, P. 59. 22.
Vũ Kư, Nhân đọc tác phẩm: Bộ mặt
thật của Hồ Chí Minh của Nhà báo Nguyễn
Thuyên, Báo Chuông Sàig̣n Úc Châu 31/1/1992. 23.
Bốn mươi lăm năm hoạt động
của Đảng, Sđd, Tr. 39/40. 24. Trần Trọng
Kim, Sđd, Tr.192-194 25.Đề cương
bài học lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp xuất bản, Hà Nội, 1985, Tr.56 26. Philippe Devillers,
Histoire Du Vietnam: De 1940 à 1952, Editions Du Sueil, Paris, 1952, P.138 27. Jean Lacouture, Sđd,
Tr.101 28-29. Trần Trọng
Kim, Sđd, Tr.92-93 và 198 |