Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
4_1) Lê Quế Lâm |
Chương
bốn Hoạt động
của giới trí thức Tây học
yêu nước ở Nam Kỳ thuộc địa Giữa
thế kỷ 19, Việt Nam cũng như các nước
Á và Phi châu bị các cường quốc Âu châu đô
hộ. Dựa vào lư do triều đ́nh VN cấm đạo
Gia Tô, bế quan tỏa cảng, Pháp gây hấn ở
Đà Nẵng (1858) sau đó đánh chiếm Nam Kỳ.
Trước đội quân xâm lược hùng mạnh,
triều đ́nh Huế cử Phan Thanh Giản kư ḥa
ước Nhâm Tuất (1862) nhường cho Pháp ba
tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Năm sau Phan Thanh
Giản được cử đi sứ sang Pháp xin
chuộc các tỉnh đă mất. Trong thời gian
ở Pháp và các nước lân cận, cụ Phan và phái
bộ VN thấy được sự tiến bộ
của châu Âu nên đề nghị triều đ́nh
thay đổi chính sách, mới có thể tồn
tại được. Đề nghị canh tân xứ
sở không được triều đ́nh chấp
thuận, cụ Phan đă than rằng: “Từ
ngày đi sứ đến Tây kinh, Thấy
việc Âu châu phải giật ḿnh. Kêu
rủ đồng bang mau thức dậy, Hết
lời năn nỉ chẳng ai tin”. Bốn năm
sau Pháp viện cớ quân kháng chiến VN xuất phát
từ các tỉnh miền Tây Nam Kỳ để
tấn công Pháp ở các tỉnh miền Đông, nên
đưa tối hậu thư buộc Phan Thanh Giản
phải giao luôn ba tỉnh miền Tây. Đă từng
sang Pháp, thấy sức mạnh của đối phương,
nên cụ Phan đầu hàng để tránh đổ máu
cho lương dân. Trước khi quyên sinh, cụ
viết sớ tŕnh vua Tự Đức: “Việc
Nam Kỳ đă đến lúc không sao ngăn được.
Thần nghĩ phải chết, không dám sống để
làm nhục hoàng thượng”. Cụ nhận
tất cả tội lỗi về ḿnh, hoàn trả
tất cả ấn triện và sắc phong và xin
triều đ́nh “cẩn thận đến ư
trời, thương kẻ khốn cùng, xin hảy đổi
dây thay bánh! Nhờ đó “thế lực may ra c̣n
được cứu văn được” để
chờ cơ hội thâu hồi cương thổ. Cũng
thời điểm này, nước Nhật cũng như
nước ta chủ trương bế quan tỏa
cảng, cấm đạo, giữ chặt nếp
sống và nền văn hóa cổ truyền. Tháng 3/1854
Đô đốc Mathew C. Perry mang chiến thuyền
Mỹ đến uy hiếp, buộc Nhật phải
mở cửa giao thương với các nước Âu
châu, nên đưa đến xung đột. Trước
hỏa lực tân tiến của đối phương,
nhóm hiệp sĩ lănh đạo nước Nhật không
chống cự nổi. Năm 1867, Minh Trị Thiên Hoàng
mới 14 tuổi lên ngôi vua, ông sáng suốt thấy
được sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật. Gươm dáo không thể nào chống
nổi với súng đạn các nước Tây phương,
nên theo học Âu Mỹ, canh tân đất nước. Minh
Trị Thiên hoàng buộc vị hiệp sĩ chót (the
last samurai) coi về quân sự và quốc pḥng phải
từ nhiệm, các samurai phải gác kiếm năm 1876.
Nhà vua non trẻ nắm hết quyền bính, dời cung
điện từ Kyoto về Tokyo (Đông Kinh). Minh
Trị Thiên hoàng nổ lực cải cách và Âu hóa
đất nước: loại bỏ phong kiến
của giới hiệp sĩ: cải cách giáo dục,
đưa sinh viên du học tiếp thu các kỹ năng,
khoa học tân tiến để phát triển công
kỹ nghệ; hủy bỏ những tàn tích cổ
lỗ sĩ; cải cách y tế; tạo nếp sống
mới văn minh, gây tinh thần yêu nước, độc
lập tự cường. Chỉ 30 năm sau, Nhật
trở thành một cường quốc kỹ nghệ hùng
mạnh. Minh Trị Thiên hoàng đă đưa đất
nước Phù Tang đến chỗ vinh quang phú cường
mới đánh thắng Nga năm 1905 và tạo nền
tảng cho nước Nhật tân tiến về mọi
mặt kinh tế, khoa học, kỹ thuật…(1) Trong khi
đó vua quan nước ta không nghe lời canh tân
của phái bộ Phan Thanh Giản cũng như
những trăn trối của cụ Phan. Noi gương
Nhật, từ đầu thế kỷ 20, các nhà Nho yêu
nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…phát động
phong trào Đông du, thành lập Việt Nam Duy tân
hội, song mục tiêu của hai cụ hoàn toàn khác
nhau. Trong
cuốn tự phán, Phan Bội Châu kể lại
việc Phan Chu Trinh đến thăm Nhật hồi tháng
5/1906 như sau: “Hồi tôi lên Đông Kinh, cụ Tây
Hồ cùng đi với tôi. Cụ và tôi thăm các
học đường và khảo sát những công
việc chính trị giáo dục của Nhật Bản.
Cụ bảo tôi rằng: Tŕnh độ quốc dân
Nhật Bản như thế, mà tŕnh độ quốc
dân ta th́ như thế, không nô lệ làm sao được.
Được bấy nhiêu học sinh vào học ở
Nhật Bản là sự nghiệp rất lớn của
ông đó. Từ nay nên lưu lại Đông Kinh yên nghĩ,
hết sức chăm chỉ ở việc làm sách và
bất tất nói chuyện bài Pháp làm ǵ, chỉ nên
đề xướng dân quyền. Dân đă biết có
quyền th́ việc khác đều có thể tính làm
được. Cụ (PCT) th́ muốn đánh đổ
quân chủ, mà cố vun trồng lấy nền tảng
dân quyền, dựa vào Pháp mà đánh đổ quân
chủ. C̣n ư tôi th́ trước muốn đánh đồ
người Pháp, chờ nước ḿnh độc
lập rồi, mới bàn đến việc khác. Chính
kiến của hai người rất phản đối
nhau. Cụ th́ muốn đi theo lối dựa Pháp đánh
đổ vua, tôi ưng theo lối bài Pháp phục
Việt, sở dĩ mâu thuẫn với nhau là v́
thế”. (2) Sau một
tháng ở Nhật, Phan Chu Trinh trở về nước.
Cụ nghĩ rằng “Việc trông cậy vào Nhật
là điều viễn vông”. Cụ chủ trương
“Tân dân, đổ vua, ỷ Pháp cầu tiến
bộ” nghĩa là muốn mở mang dân trí th́
phải cải cách, muốn có dân quyền th́ phải
tuyên chiến với bọn vua quan bù nh́n Nam triều và
phải dựa vào Pháp mà tiến bộ. (3) Theo
cụ, ước muốn của toàn dân VN là xây
dựng một thể chế cộng ḥa, dân chủ và
tự do thay thế chế độ vua quan phong
kiến. Ba mươi
năm sau khi cụ Phan Thanh Giản qua đời, có hai
người con quê hương Bến Tre của cụ,
đă tốt nghiệp đại học ở Pháp.
Đó là Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông đầu
tiên của Nam Kỳ (1897) và Dương Văn Giáo,
Luật sư tốt nghiệp Tiến sĩ Luật khoa
và chính trị học tại Paris. Sau khi
tốt nghiệp Bùi Quang Chiêu hồi hương,
được bổ làm việc trong phủ Toàn
quyền Pháp ở Hà Nội. Luật sư Dương
văn Giáo cũng về nước một thời gian
sau đó. Lúc bấy giờ ở Nam Kỳ có Trần
Chánh Chiếu (1868-1919), sau khi tốt nghiệp trung
học trường d’Adran, được bổ làm giáo
học rồi làm thông ngôn cho Tham biện (chủ
tỉnh) Rạch Giá. Nhờ có đạo Thiên Chúa và
thân cận với chủ tỉnh nên Trần Chánh
Chiếu tiến hành việc khai hoang vùng Tràm Chẹt
huyện Giồng Riềng. Ông c̣n thiết kế và xây
dựng phố xá ở chợ Rạch Giá trở thành
triệu phú, được cấp hàm Đốc
phủ và nhập tịch Pháp với tên Gilbert Trần
Chánh Chiếu. Sau đó ông xin thôi việc, làm xă trưởng
xă Vĩnh Thanh Vân là tỉnh lỵ của Rạch Giá.
Ông tổ chức bộ máy hành chánh ở đây theo
đúng khuôn mẫu như xă Tây ở Sàig̣n. Xă trưởng
có con dấu tṛn, khác biệt với con dấu vuông
của các làng xă khác. Năm
1990, Gilbert Chiếu rời Rạch Giá lên Sàig̣n làm báo
và tham gia Việt Nam Duy tân hội. Ông hưởng
ứng phong trào Đông Du, vận động nhiều
thanh niên sang Nhật. Ông kết thân với các nhân sĩ
yêu nước như Bùi Chí Nhuận, Nguyễn An Khương
(thân sinh Nguyễn An Ninh), Nguyễn Thần Hiến, Trương
Duy Toản, Nguyễn Quang Diêu, Đặng Thúc Liêng, Lương
Khắc Ninh…Năm 1906 Gilbert Chiếu thay Lương
Khắc Ninh làm chủ bút tờ Nông Cổ mín đàm
(Trong chén trà bàn chuyện nông thương). Năm sau ông
làm chủ bút tuần báo Lục tỉnh Tân văn, công
khai hô hào duy tân giúp nước, ông cùng các bạn cùng
chí hướng lập Nam Kỳ Minh tân Công nghệ xă
(1908) Những
việc làm của ông được giới điền
chủ và giới quan lại phủ huyện hưởng
ứng nhiệt liệt. Do đó ông bị thực dân
Pháp bắt giam (10/1908) v́ tội quan hệ với phong
trào Đông Du và viết báo chống lại họ. Sau
nhờ Luật sư Phan Văn Trường ở Paris
vận động và chính phủ Nhật can thiệp,
ông được thả (tháng 4/1909). Từ đó ông
lập tiệm buôn lấy tiền lời bí mật giúp
Phan Bội Châu và Cường Để. Năm 1917 ông
lại bị Pháp bắt giam v́ tội yểm trợ
Phan Xích Long khởi nghĩa chống Pháp. Ông mất năm
1919, công cuộc minh tân do ông khởi xướng tan ră
dần. Ông Bùi
Quang Chiêu sau khi tốt nghiệp kỹ sư canh
nộng, ông về nước làm việc ở Phủ
Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội. Đến
năm 1908 ông được thuyên chuyển về
Sở canh nông ở Sàig̣n. Hưởng ứng Phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục mở mang dân trí, ông liên
lạc với các trí thức Nam Kỳ nổi tiếng
cùng chí hướng như các luật sư Dương
Văn Giáo, Diệp Văn Kỳ, nhà báo Nguyễn Phan
Long, các bác sĩ Trần Như Lân, Nguyễn Văn
Thinh…cổ động phong trào Duy Tân, Đông Du của hai cụ
Phan Chu Trinh, Phan Bội
Châu và phong trào Đông
Kinh Nghĩa Thục nhằm mở mang dân trí cho đồng bào. Năm
1919, các nhân vật kể trên thành lập đảng
Lập Hiến (Costitutionalist Party), vận động
đ̣i tự trị cho Việt Nam, đó là bước
đầu để giành lại độc lập hoàn
toàn. Đảng Lập Hiến dùng ba tờ báo: La
Tribune Indochinoise, L’Echo Annamite và Đuốc Nhà Nam làm
diễn đàn đấu tranh trực diện với
bọn thống trị đ̣i Pháp thực hiện
những cải cách về tự do dân chủ. Bùi Quang
Chiêu c̣n là đảng viên đảng Cấp tiến và
Xă hội chủ nghĩa Cấp tiến Pháp (Parti Radical
et Radical-Socialiste). Do đó, năm 1926 khi Alexandre Varenne
thuộc đảng Xă hội cấp tiến Pháp
được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông
Dương, Bùi Quang Chiêu lại sang Pháp vận động
chính trị với loạt bài “Pour le Dominion
Indochinois”. Ông đưa yêu sách 9 điểm: -Tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp
và lập hội, tự do đi lại, nới rộng
quyền đại diện chính trị, nâng cao đời
sống lao động, bải bỏ độc
quyền kinh tế, cải cách giáo dục, điều
chỉnh chế độ lương bổng cho công
bằng giữa người Pháp và người
Việt. Trong bài viết trên ông Chiêu đề nghị
Pháp cho các nước Đông Dương được
tự trị, có hiến pháp riêng như người
Anh đă làm ở Úc Đại Lợi và Gia Nă Đại. (4) Nhờ
tiếng tăm đó, năm 1926 ông Chiêu và 9 đảng
viên đảng Lập Hiến đắc cử vào
Hội đồng Quản trị Nam Kỳ, chiếm
trọn 10 ghế dành cho người bản xứ.
Nhờ sự vận động của ông cùng các nhân
sĩ khác như Phan Văn Trường, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn An Ninh, Vũ Đ́nh Dy, Nguyễn Phan Long… người
Pháp mới băi bỏ điều kiện Pháp tịch
cho những học sinh muốn sang Pháp du học. Lúc
bấy giờ nhóm Ngũ Long của cụ Phan ở
Paris cũng lần lượt rời Paris về nước
hoạt động, chỉ riêng Nguyễn Ái Quốc
được đảng Cộng sản Pháp cử
đi Mạc Tư Khoa huấn luyện để
trở thành người cộng sản chuyên nghiệp.
Nguyễn An Ninh trẻ tuổi nhất trong nhóm Ngũ
Long, ông sinh năm 1900 quê quán quận Cần Giuộc
tỉnh Chợ Lớn trong một gia đ́nh Nho giáo. Cha
là Nguyễn An Khương thông thạo chữ Hán và
quốc ngữ, kinh doanh khách sạn Chiêu Nam Lầu. Nơi
đây làm nơi qui tụ, giúp đỡ những người
yêu nước hoặc chuẩn bị xuất dương.
Nguyễn An Ninh là học sinh giỏi nổi tiếng
tại các trường Tabert và Collège de Mytho. Năm
1916, ông đậu bằng Brevet Elémentaire hạng ưu
tại trường Chasseloup Laubat nên được ra Hà
Nội theo học Cao đẳng Y Dược, sau đó
chuyển sang học Luật ở Đại học
Đông Dương. Năm 1918 ông sang Pháp tiếp
tục học Luật tại Đại học Sorbonne và
tham gia hoạt động chính trị trong nhóm Ngũ
Long. Năm
1922, sau khi đổ Cử nhân, Nguyễn An Ninh trở
về quê hương. Lần đầu tiên ông ra
mắt đồng bào Sàig̣n tại Hội Khuyến
học, Đức trí, Thể dục Nam Kỳ (SAMIPIC) vào
buổi tối ngày 25/1/1923 với bài diễn thuyết
“Une culture pour les Annamites” (Một nền văn hóa
cho người Annam) bằng tiếng Pháp với nội
dung kêu gọi dân Việt hăy mau “noi theo cái học
của Pháp, để mở mang dân trí, nâng cao tư tưởng
của dân, làm cho ḍng giống mạnh mẽ, mau thoát cái
ách nô lệ. Cứ theo nẻo hoạn đồ
lấy việc làm quan làm mục đích của
việc học th́ sau này ḍng giống sẽ yếu
ớt, ắt có ngày phải rút vô rừng mà ở”. Ông
xuất hiện lần thứ hai cũng tại hội
trường SAMIPIC vào buổi tối ngày 15/10/1923
với bài diễn thuyết “Lư tưởng thanh niên
Annam” kêu gọi giới trẻ ư thức thân
phận mất nước và nô lệ của ḿnh,
phải dấn thân cứu nước. Ông cho rằng
“Dân tộc nào để cho một nền văn hóa
ngoại bang ngự trị th́ không thể có độc
lập thực sự. Văn hóa là tâm hồn của dân
tộc. Một dân tộc muốn sống muốn độc
lập, muốn rạng danh trong nhân loại, cần
phải có một nền văn hóa riêng của ḿnh”.
Ông kết thúc bài diễn thuyết “Hăy tôn sùng
những ai đă dùng tài năng hay thiên phú của ḿnh
mà tự nâng vị trí của dân tộc ta trên thế
giới và những ai đă đóng góp vào việc
cải thiện điều kiện sống cho dân
tộc chúng ta”. Sau này, nhà văn Sơn Nam nhận
xét: “Bài diễn thuyết “Cao vọng của
thanh niên An Nam” đêm 15 tháng 10 năm 1923 nêu rơ
nổi khát khao của người thanh niên lúc ấy
mới 24 tuổi. Đây là bản tuyên ngôn súc tích,
mỗi câu, mỗi chữ gợi ư nghĩa lớn.
Nội dung là khơi dậy tinh thần dân tộc, văn
hóa dân tộc …” (5) Cuối
tháng 2/1923, Nguyễn An Ninh trở lại Pháp lần
thứ hai với ư định hoàn thành Luận án
tiến sĩ, nhưng ông chỉ lưu lại Pháp
khoảng nửa năm, rồi trở về Sàig̣n. Ông
lại xuất hiện trên diễn đàn với đề
tài “L’idéal de la jeunesse Annamites” (Lư tưởng
thanh niên Annam) bằng tiếng Pháp. Ông cho rằng “cứ
suy tôn Khổng Tử th́ khó cho ta tiến bước
được”; ông gieo vào ḷng giới trẻ
những ư tưởng mới như: “Tự
do không phải là một vật ǵ mà ta có thể
truyền tay, có thể cho hay bán. Ai cũng có tự do”
hoặc “Thanh niên ngày nay, không ai cấm chúng ta phác
họa ước mơ và cao vọng”. (6) Tiếng tăm
của Nguyễn An Ninh vang dội khiến Thống đốc
Nam Kỳ Maurice Cognacq ra lịnh cấm diễn thuyết
hay tụ tập bất cứ nơi đâu của
Nguyễn An Ninh. Không đấu tranh được
bằng lời nói, ông chuyển sang đấu tranh
bằng ng̣i bút. Dựa vào đạo luật ngày
19/7/1881 cho phép báo chí bằng tiếng Pháp khỏi
phải xin phép trước khi phát hành, Nguyễn An Ninh
cho ra đời báo La Cloche Fêlée (Chuông Rè) với
số báo đầu tiên ngày 10/12/1923 để tuyên
truyền tư tưởng tự do dân chủ của
Pháp. Tiếng Chuông Rè mở đầu cho phong trào
chống đối bọn thống trị thực dân
Pháp công khai và hợp pháp ở Nam Kỳ. Sau khi báo in
xong, đích thân Nguyễn An Ninh mặc áo dài trắng,
đi xe đạp ôm một xắp báo đến đứng
bán tại các ngă tư đường v́ không một
đại lư nào dám phát hành La Cloche Fêlée v́ sự răn
đe của mật thám. Ông khẳng định trên báo:
“Lưỡi gươm đe dọa vẫn làm chúng
tôi dửng dưng. Chúng tôi đă hy sinh
tất cả trong quá khứ, chúng tôi sẳn sàng hy sinh
tất cả trong tương lai”. (7) V́ lư do sức
khỏe, Nguyễn An Ninh tạm ngưng phát hành La Cloche
Fêlée sau số báo thứ 19 ra ngày 14/7/1924. Cuối tháng
Giêng 1925, Nguyễn An Ninh trở lại Pháp lần
thứ ba. Trong buổi diễn thuyết tại hội
quán Sociétés Savantes ở Paris do Hội Liên hiệp Pháp
- Đông Dương tổ chức ngày 22/2/1925,
Nguyễn An Ninh tuyên bố “Tôi không phải là
cộng sản, không xuất thân từ giai cấp vô
sản, nhưng tôi tán thành những nguyên lư cộng
sản. Cách mạng sẽ nổ ra ở Đông Dương
trong vài năm tới nếu Pháp không thay đổi
thể chế”. Cụ Phan Châu Trinh
được Đảng Xă hội Pháp kính nể, có
lẽ v́ thế khi được tin Alexandre Varenne
đảng viên Đảng Xă hội Pháp sắp
sửa sang Đông Dương nhậm chức Toàn
quyền, cụ quyết định cùng Nguyễn An Ninh
trở về nước. Cụ tuyên bố trước
khi rời Paris “Một khi đặt chân lên quê hương
xứ sở, tôi nguyện đem hết nghị lực
b́nh sinh mà thức tỉnh dân khí ba miền đồng
tâm hiệp lực đạp đổ cường
quyền áp chế”. Về đến Sàig̣n ngày
26/6/1925, cụ và Nguyễn An Ninh được đông
đảo thanh niên và đồng bào ra tận bến tàu
đón tiếp. Hai ông chủ trương cho tái bản
La Cloche Fêlée, lần này do Luật sư Phan Văn Trường
làm chủ bút v́ ông Trường có quốc tịch Pháp.
Trong số báo phát hành ngày 30/11/1925, Nguyễn An Ninh
viết “Tự do không phải van xin mà được,
tự do phải giành lấy mới có….Mà để
giành tự do từ tay của một thế lực có
tổ chức, ta phải đối đầu với nó
bằng một sức mạnh có tổ chức của
ta”. Tại hội quán
Thanh niên Sàig̣n, cụ Phan Chu Trinh thuyết tŕnh đề
tài “Đạo đức luân lư Đông Tây” và
“Quân trị và Dân trị chủ nghĩa”.
Cụ đề nghị nước ta nên theo chế
độ phân quyền rơ rệt kiểu Tây phương,
có hiến pháp qui định rơ ràng. Đó là nền hành
chính pháp trị “từ ông tổng thống cho đến
người dân quê cũng đều chịu theo
một pháp luật như nhau”. Là nhà chính
trị đầu tiên xướng xuất thuyết dân
quyền, nâng cao dân trí và hoạt động trong khuôn
khổ luật pháp của chế độ thuộc
địa, cụ Phan đi nhiều nơi ở Nam
Kỳ vận động các mạnh thường quân
giúp tiền mở trường học. Các nơi đều
nhiệt t́nh hưởng ứng, Đốc phủ Lê Văn
Mầu ở Mỹ Tho đồng ư hiến một
sở đất và 100 ngàn đồng để mở
trường lycée. V́ quá lao lực, bịnh t́nh
trầm trọng thêm cụ Phan Chu Trinh qua đời ngày
23/3/1926. Người dân Sàig̣n
tổ chức quốc tang cụ ngày 4/4/1926 hết
sức trọng thể có gần 100 ngàn người
tham dự, lúc đó thành phố này chỉ có
khoảng 300 ngàn dân. Thay mặt toàn dân, Bùi Quang Chiêu
-Chủ tịch ủy ban tổ chức lễ tang tuyên
bố “Nhà cách mạng Phan Chu Trinh suốt đời
tranh đấu cho chính nghĩa quốc gia, cho tự do
của dân tộc, nay Người tạ thế, th́ toàn
dân phải có bổn phận làm tang lễ linh đ́nh
để mọi người tham dự, đền
đáp một phần công ơn của Người
đối với quốc gia dân tộc”. Ông
đă đọc điếu
văn trước mồ cụ Phan Châu Trinh:
"Tây Hồ anh ơi, tôi xin thề hy sanh cho chủ
nghĩa Pháp Việt đề huề”. Các
ủy viên trong ban tang lễ đều là những nhân
sĩ trí thức tên tuổi thuộc thuộc đảng
Lập Hiến, Hội đồng quản hạt Nam
Kỳ, Hội đồng thành phố Sàig̣n,
Chợlớn như các bác sĩ Nguyễn Văn Thinh,
Trần Văn Đôn các ông Nguyễn Phan Long, Trương
văn Bền, đốc phủ sứ Lê Quang Liêm,
chủ nhiệm, chủ bút Đông Pháp thời báo
Nguyễn Kim Đính và Trần Huy Liệu. Hai ngày trước
khi cụ Phan Chu Trinh qua đời, Nguyễn An Ninh
diễn thuyết ở khu Vườn Xoài của bà
Đốc phủ Nguyễn Tấn Tài ở xóm Lách
buổi sáng ngày 21/3/1926. Buổi diễn thuyết thu hút
đông đảo đồng bào đến nghe, trên ba
ngàn người. Nguyễn An Ninh chỉ nói chuyện
khoảng một giờ th́ thực dân Pháp đến
giải tán, bắt ông và kết án 18 tháng tù. Từ
mấy năm qua, những buổi diễn thuyết
của Nguyễn An Ninh đă khơi động mạnh
mẽ ḷng yêu nước của giới thanh niên.
Một số thanh niên đầy nhiệt huyết
phần lớn xuất thân từ trường Chasseloup
Laubat do Pháp thành lập đă bí mật tập họp
thành đảng “Jeune Annam” (Tuổi Trẻ An
Nam). Tên tuổi của họ, sau này đă gắn
liền với các phong trào cách mạng ở miền
Nam: Tạ Thu Thâu, Trịnh Hưng Ngẫu, Nguyễn Văn
Số, Bùi Công Trường, Hà Huy Giáp, Nguyễn Khánh
Toàn, Trần ngọc Danh…(8) Cũng vào thời
gian đó, Bùi Quang Chiêu từ Pháp trở về, bị
thực dân Pháp đe dọa hành hung v́ ông chủ trương
tranh đấu cho VN được độc lập
trong một thể chế Lập hiến như Anh
Quốc dành cho Úc Đại Lợi và Gia Nă Đại.
Nhóm Jeune Annam do Tạ Thu Thâu cầm đầu đă
tổ chức đón Bùi Quang Chiêu ở bến tàu Nhà
Rồng để bảo vệ Chiêu. Ông được
60 ngàn dân đến đón mừng tại cảng Sàig̣n. (9) Nhân
dịp đón rước này, nhóm Jeune Annam cùng dân chúng
tham dự đă hô hào yêu cầu thực dân Pháp
phải thả Nguyễn An Ninh. Nhờ đó, ông
chỉ bị giam 10 tháng. Sau khi ra tù, ông cùng Phan Văn
Hùm thành lập “Thanh niên Cao vọng đảng”,
một tổ chức yêu nước hoạt động
theo nguyên tắc hội kín ở Nam Kỳ. Tính
đến cuối năm 1927, đảng này đă có đến
7 ngàn đảng viên (10) Trong nước
từ năm 1925, phong trào đấu tranh chống Pháp
bộc phát mạnh trong các từng lớp thanh niên Tây
học sau khi cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt và
kết án tử h́nh. Sinh viên học sinh hô hào băi khóa
đ̣i Pháp trả tự do cho cụ. Năm sau, cụ
Phan Chu Trinh từ Pháp về và từ trần ở Sàig̣n,
tinh thần ái quốc lại trỗi dậy trong các
từng lớp thanh niên trí thức, họ tổ
chức để tang cụ thật trọng thể. Trước
cao trào đấu tranh của thanh niên, Pháp liền
đàn áp, rất nhiều sinh viên, học sinh bị
đuổi học và cấm thi, một số thuộc
thành phần lănh đạo bị Pháp truy nă gắt gao
phải trốn sang Trung Quốc. Trong số đó có
Phạm Văn Đồng, con một đại thần
dưới trào vua Duy Tân. Lúc bấy giờ Hồ Chí
Minh thành lập tổ chức cộng sản bí mật
dưới danh xưng Việt Nam Thanh niên Cách mạng
Đồng chí hội và truyền bá học thuyết Mác
Lê cho những thanh niên Việt Nam đang theo học
ở trường Quân Chính Hoàng Phố. Trong bối cảnh
bị thực dân Pháp khủng bố nặng nề,
Việt Nam Quốc Dân Đảng ra đời
với Nguyễn Thái Học (1902-1930), Nguyễn Khắc
Nhu (1882-1930) và thành phần sinh viên học sinh có tinh
thần dũng cảm hy sinh. Tâm nguyện của số
trí thức trẻ này "không thành công th́ thành nhân"
khiến họ liều lĩnh thực hiện bạo
động vũ trang để lật đổ ách
thống trị thực dân. Họ chủ trương xây
dựng nền dân chủ xă hội, lấy chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Dật Tiên làm kim chỉ nam, thực
hiện đồng loạt ba h́nh thức cách mạng:
quốc gia, chính trị và xă hội với ba nguyên
tắc: tự do, b́nh đẳng và bác ái. Cuộc
khởi nghĩa ở Yên Bái năm 1930 thất bại,
Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí lănh đạo
Việt Nam Quốc dân Đảng bị Pháp xử
tử, một số đảng viên chạy sang Trung
Quốc lập Hải ngoại bộ Việt Nam
Quốc dân Đảng ở Vân Nam. Sinh viên Việt Nam
tại Pháp tổ chức rầm rộ phong trào đấu
tranh yêu cầu Pháp giảm án tử h́nh cho 13 liệt sĩ
Yên Bái. Tạ Thu Thâu thuộc nhóm Đệ tứ cùng
các đồng chí Hồ Văn Ngà, Lê Bá Cang, H́nh Thái
Thông…mời sinh viên đến họp ở Tổng
hội Sinh viên Đông Dương, trổ tài hùng
biện rồi lôi kéo họ đến nơi biểu t́nh.
Cuộc biểu t́nh bị chính quyền Pháp giải tán,
19 sinh viên Việt Nam bị trục xuất về Sàig̣n
tại cảng Marseille ngày 24/6/1930 trên chiếc tàu Athos
II: Tạ Thu Thâu, Ngô Quang Huy, Trần Văn Chiêu,Trần
Văn Giàu, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương,
Hồ Văn Ngà, Lê Bá Cang, Nguyễn Văn
Tạo,Trần Văn Đởm,Trần Văn Tự, Lê
Thiết Tự, Đặng Bá Lân, Trịnh văn Phú, Vũ
Liên, Đặng Tấn Phát, Nguyễn Văn Tân, Trương
Duy Đạm, Trương Duy Tam. Phần lớn trong
số này đă tham gia Quốc tế cộng sản
thuộc hai hệ phái Đệ tam Stalin (Giàu,
Tạo…) hoặc Đệ tứ Trotsky (Thâu, Chánh, Ngà...). Léon Trotsky là lănh
tụ cộng sản Liên Xô cùng thời với Stalin,
nhưng không chấp nhận đường lối
độc tài vô sản của Stalin. Ông theo khuynh hướng
của Georgy Plekhanov một người Marxít, lănh
tụ đảng Dân chủ Xă hội Nga. Họ cho
rằng giới tư sản không thực hiện
được cuộc “Cách mạng dân chủ tư
sản”, chỉ có giới thợ thuyền làm “cách
mạng thường trực” mới làm tṛn vai tṛ này.
Phong trào Đệ Tứ Trotsky du nhập vào VN khi các
chiến sĩ Trốt-kít (Trotskyist) Việt Nam tại Pháp
là Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường…trở
về nước hoạt động từ đầu
thập niên 1930. Vào thời điểm
này, sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại,
tiếp theo là việc thành lập các chính quyền Xô
Viết của nông dân ở Nghệ Tĩnh, các tổ
chức cách mạng yêu nước bị thực dân Pháp
đàn áp nặng nề. T́nh h́nh càng tồi tệ hơn
là từ năm 1932 xảy ra cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu. Việt Nam cũng bị ảnh hưởng
nặng nề. Các hăng xưởng phải sa thải công
nhân hay cúp bớt lương. Đồn điền
ở đảo Phú Quốc, sở cao su Michelin ở
Dầu Tiếng đă giảm lương công nhân và dân
lao động, gây ra những cuộc băi công, đ́nh công
liên tục. Trong t́nh thế sôi sục đó, bọn
thống trị Pháp càng mạnh tay đàn áp các tổ
chức cách mạng. Các cuộc đàn áp
của thực dân Pháp đă khiến t́nh h́nh tranh
đấu bạo động và bí mật đi vào
một giai đoạn thoái trào. Những người như
Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Trần
Văn Giàu, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh,
Huỳnh Văn Phương, Trịnh Hưng Ngẫu,
Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử…đă
nhận thức phải tiếp tục cuộc đấu
tranh theo đường lối của Nguyễn An Ninh,
một đàn anh được tất cả ngưỡng
mộ, người đă khởi xướng báo Chuông
Rè (La Cloche Fêlée) năm 1923 sau khi ở Pháp về. (11) Về Sàig̣n, hai nhóm
cộng sản Quốc tế tuy chống đối
nhau, song họ vẫn hợp tác trong cuộc đấu
tranh chống Pháp bằng báo chí. Đó là nhóm Tranh
Đấu xuất phát từ báo La Lutte (Tranh Đấu)
do Nguyễn An Ninh chủ trương. Lúc bấy giờ
Nguyễn An Ninh vừa măn hạn tù 3 năm v́ tội
lập “Hội kín”. Tháng 5/1933 có cuộc bầu
cử Hội đồng thành phố Sàig̣n, Nguyễn
An Ninh cho phát hành Tuần báo La Lutte, số đầu tiên
ngày 24/4/1933 để cổ vơ cương lĩnh
của các ứng cử viên thuộc liên danh (lúc
bấy giờ gọi là sổ) Lao Động do
Nguyễn Văn Tạo (Đệ Tam) và Trần Văn
Thạch (Đệ Tứ) cầm đầu. Tuần báo La Lutte là
tờ báo chung của phái Tả, đôi khi có sự
cộng tác của hai người bạn của
Nguyễn An Ninh trong nhóm Ngũ Long ở Paris là Kỹ sư
Nguyễn Thế Truyền và Luật sư Phan Văn Trường.
Báo này tập hợp những cây bút nổi tiếng
thuộc cả phe Đệ Tam (Nguyễn Văn Tạo,
Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn)
lẫn Đệ Tứ (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm,
Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch,
Hồ Hữu Tường). Cuộc bầu cử
Hội đồng Thành phố diễn ra ngày 7/5/1933 liên
danh Lao Động thắng cử vẻ vang. Tuần Báo
La Lutte phát hành số cuối cùng vào ngày 2/6/1933 sau khi
phát hành được 4 số. (C̣n tiếp đoạn
chót) Lê Quế Lâm |