Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
7_1) Lê
Quế Lâm |
Chương
bảy Quốc
gia Việt Nam ra đời Thất
bại trong việc thương thuyết với Hồ
Chí Minh, Pháp liền chuyển sang nói chuyện với
những người quốc gia ôn ḥa. Đầu tháng
3 năm 1947, lănh tụ Đảng Xă hội Paul Ramadier
thay thế Léon Blum cầm đầu chính phủ Liên
hiệp gồm các Đảng Xă hội, Cộng
sản và Dân chủ Thiên chúa giáo. Ramadier bổ
nhiệm Nghị sĩ Xă hội Emile Bollaert làm Cao
ủy ở Đông Dương thay thế D'Argenlieu.
Bollaert được chính phủ Pháp cho phép đi t́m
những phe phái ở Việt Nam chịu thay mặt dân
tộc Việt Nam đứng ra thương thuyết
với Pháp kể cả Hồ Chí Minh và tổ chức
Việt Minh nếu c̣n có thể được. (1) Trước
đó vào khoảng hạ tuần tháng Giêng năm 1947,
D’Argenlieu Cao ủy Đông Dương đă cử
một viên chức cao cấp là Rousseau đến
Hổng Kông tiếp xúc với cựu Hoàng Bảo Đại.
Cựu thủ tướng Trần Trọng Kim hiện
diện trong buổi gặp gỡ này đă nói với
Cousseau: “Việc điều đ́nh bây giờ
muốn thành công th́ phải có toàn dân ưng thuận
mới được. Mà nay đa số dân chúng đă
theo Việt Minh, đứng vào mặt trận kháng
chiến, tất là phải làm thế nào cho dân vừa
ư mới mong có kết quả”. Cousseau
đáp: “Việc ấy là việc của các ông.
Các ông là người yêu nước nên ra sức mà giúp
nước các ông. Trong t́nh thế ngày nay, theo như ư
ông th́ nước Pháp phải làm thế nào để
người Việt Nam vừa ư?” Cụ
Trần trả lời: “Nước Pháp phải
trả cái quyền độc lập cho nước chúng
tôi và nước chúng tôi độc lập từ Nam
chí Bắc”. Cousseau cho rằng “Việc thống
nhất có thể được, c̣n độc lập
th́ hiện giờ chính phủ Pháp chưa nghĩ đến,
tôi không thể nói được. Các ông nên t́m
những điều kiện cho hai bên có thể thỏa
thuận được”. Cụ Trần
trả lời: “Để chúng tôi nghĩ kỹ
rồi ngày mai chúng tôi xin cho ông biết”. Sau
khi hội ư với cựu hoàng Bảo Đại,
cụ Trần liệt kê 7 điều sau đây để
đưa cho ông Cousseau: 1/
Lập lại nền thống nhất của nước
Việt Nam, gồm cả ba kỳ và các dân thiểu
số như Mường, Mọi, Thái…Nghĩa là
lập lại nền thống nhất như các
triều trước đời Tự Đức. 2/
Nước Việt Nam chưa được độc
lập hẳn, th́ ít ra cũng được hoàn toàn
tự trị, người Pháp không can thiệp vào
việc cai trị trong nước. 3/
Định rơ cái địa vị nước Việt
Nam trong các nước liên hiệp của Pháp. Việc
liên kết với Cao Miên và Ai Lao là việc riêng
của mỗi nước lân bang chúng tôi. Chúng tôi xin
bỏ cái dự án liên bang ở Đông Dương, v́
đó là một cách lập lại cái chế độ
Đông Dương Toàn quyền. Chúng tôi nhất
quyết không muốn ở dưới quyền một
chức toàn quyền như trước nữa. Nước
Pháp nên đổi thái độ mà theo đúng tinh
thần ngày nay, đừng cho đổi cái tên gọi
mà vẫn giữ sự thực như cũ. 4/
Nước Việt Nam phải có quân đội
quốc pḥng thực sự. 5/
Nước Việt Nam sẽ có các cơ quan tài chính
cho đúng nghĩa một nước tự chủ. Chúng
tôi sẳn sàng xét các quyền lợi về đường
kinh tế của nước Pháp và các nước lân
bang như Cao Miên và Ai Lao cho đúng lẽ công bằng. 6/
Nuớc Pháp nên định một cái hạn trong
mấy năm sẽ cho nước Việt Nam được
độc lập hẳn. 7/
Nước Việt Nam sẽ có đại biểu
ngoại giao với các nước ở Á Đông và các
nước khác có quyền buôn bán với nước
Việt Nam. Nhận
được 7 yêu cầu của Việt Nam đưa
ra, Cousseau nói rằng: “Nước Pháp sẽ cho
Việt Nam được nhiều hơn nữa.
Chỉ có một điều thứ sáu là hẹn cho hoàn
toàn độc lập, th́ tôi không giám chắc, v́ tôi
không có phận sự bàn việc ấy”. Cụ
Trần Trọng Kim trả lời: “Nước
Pháp ưng thuận những điều ấy, th́
phải đảm nhận hẳn hoi, rồi cựu Hoàng
Bảo Đại sẽ đứng ra điều đ́nh
với quân kháng chiến để đem lại ḥa b́nh.
Nhưng cần nhất là phải để cho cựu
Hoàng hành động được tư do, người
Pháp đừng ra mặt can thiệp vào công việc
của Ngài làm. Chỉ xin một điều là cho
những người làm việc đến Hương
Cảng giúp cựu hoàng mà làm việc”. Cousseau
nói “Những việc ấy có thể được
cả, nhưng để tôi điện về Saigon và
chờ bên ấy trả lời ra sao đă”. ((2) Tháng
5/1947 Bollaert ủy nhiệm viên cố vấn riêng là Giáo
sư Paul Mus, đảng viên Đảng Xă hội, giám
đốc trường hải ngoại Pháp, và là
bạn thân của Hồ Chí Minh đến tiếp xúc
với họ Hồ để cố t́m một giải
pháp ḥa b́nh cho Việt Nam. Paul Mus đă gặp Hồ Chí
Minh và bộ trưởng Ngoại giao của Hồ Chí
Minh là Hoàng Minh Giám tại Cầu Đuống (Phúc Yên)
nhưng không có kết quả. Chính Paul Mus dù là bạn
thân của Hồ Chí Minh, song ông vẫn khuyến cáo chính
phủ Pháp nên t́m gặp cựu hoàng Bảo Đại
nói chuyện v́ "điều đ́nh với ông
Hồ Chí Minh dông dài lắm". (3) Bollaert
tin tưởng rằng muốn chấm dứt phong trào
kháng chiến và tách các nhóm kháng chiến quốc gia
khỏi phe cộng sản, điều cần thiết là
phải thỏa măn nguyện vọng ưu tiên của
họ là độc lập. Do đó trong diễn văn
đọc tại Hà Đông (Bắc Việt) ngày 15/5 và
10/9/1947 Bollaert hứa hẹn sẽ thừa nhận trên
nguyên tắc sự độc lập của Việt Nam
trong ṿng liên kết với Pháp. Báo Thời sự
ở Hà Nội là một trong những cơ quan ngôn
luận đầu tiên đưa ra ư kiến mời
cựu hoàng Bảo Đại về nước lănh
đạo các phong trào quốc gia chống Cộng và
tranh đấu với Pháp để thu hồi nền
độc lập quốc gia. (4) Trước
đó khi chính phủ Liên hiệp Quốc Cộng tan
vỡ, chiến tranh Việt Minh Pháp bùng nổ, một
số lănh tụ Quốc gia chạy sang Hồng Kông và
thành lập Mặt trận Quốc gia ở Hương
Cảng. Họ ủng hộ Bảo Đại và khuyên
ông ta đứng lên lănh đạo công cuộc đấu
tranh giành độc lập cho đất nước thông
qua con đường thương lượng với Pháp.
Mặt trận quy tụ một số nhân vật đă
từng hợp tác với Việt Minh như Nguyễn
Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng
Khanh, Nguyễn Tường Long và Nguyễn Văn Sâm
thủ lănh Đảng Việt Nam Độc Lập
ở Nam bộ. Dù Cao ủy Đông
Dương D’Argenlieu đă cử đại
diện đến Hồng Kông thuyết phục Bảo
Đại trở lại nắm chính quyền, song
cựu hoàng vẫn giữ thái độ dè dặt..Sau
đó, ông đồng ư để cụ Trần
Trọng Kim về Sàig̣n để t́m hiểu t́nh
thế và dọ
ư dư luận trong nước. Cụ
Trần đến gặp Cousseau, ông ta nói “Nếu
cụ bằng ḷng về th́ tôi thu xếp giấy má
xong ngay, rồi có chuyến tàu thủy, th́ chúng ta cùng
về cả. Về bên ấy cụ sẽ có nhà ở
và không phải lo ǵ cả”. Cụ Trần nói:
“Tôi về chỉ cần gặp được ông
Cao cấp ủy viên để nói chuyện cho rơ ràng
rồi cho tôi trở sang tŕnh bày cho cựu hoàng
biết, lúc ấy có làm ǵ mới làm được.
Về bên ấy tôi muốn gặp mấy người
như ông Hoàng Xuân Hăn, ông Vũ Văn Hiền,
để hỏi ư kiến về việc làm”.
Cousseau trả lời: “Việc ấy rất dễ,
và lúc nào cụ trở sang cũng được”. Trong lúc chờ tàu
thủy về Sàig̣n, hai ông Đinh Xuân Quảng và Phan
Huy Đán vừa từ Thượng Hải đến
Hương Cảng, biết được sự bàn
định giữa cụ Trần Trọng Kim và Cousseau
nên cùng xin về. Sáng ngày 2/2/1947, gia đ́nh cụ
Trần cùng Cousseau và hai ông Quảng và Đán lên tàu
Chamollion về Sàig̣n. Bốn ngày sau cụ
Trần đă có mặt trong nước. Trước
khi đi Cousseau đă giao hẹn về đến Sàig̣n
sẽ có nhà ở, nhưng từ khi về đến
nơi không có chỗ ở, gia đ́nh cụ Trần
phải đến trú tạm ở nhà ông
Trịnh Đ́nh Thảo. Mấy hôm sau Pignon, Ủy viên
Cộng ḥa Pháp đến gặp cụ, y cho biết
Cao cấp ủy viên là Trung tướng Hải quân
D’Argenlieu đă về Pháp, chờ đến khi ông
trở sang mới nói chuyện được, nhưng
sau đó D’Argenlieu mất chức. Lúc bấy giờ có
một người Pháp đến nói với cụ “Chính
phủ ở đây có tiền, có nhà in sẳn sàng,
cụ nên ra mặt làm việc đi”. Cụ
trả lời: “Tôi về đây cốt để
biết rơ cái ư định người Pháp và xem t́nh
thế thế nào rồi ra nói cho cựu hoàng Bảo
Đại biết, lúc ấy có làm ǵ hay không mới
quyết định được”. Người Pháp
thấy cụ không chịu làm theo ư của họ, bèn
nói nọ nói kia. Một hôm cụ thấy trong một
tờ báo Sàig̣n, đăng một đoạn rằng:
“Người Pháp đưa Trần Trọng Kim về,
là cốt để ông không mưu mô bên cạnh ông
Bảo Đại”. Cụ thấy mưu đồ
của Pháp muốn lợi dụng ông Bảo Đại,
mà để cụ ở gần cựu hoàng, sợ có
điều bất tiện, nên mới hứa hẹn
đủ mọi chuyện để đưa cụ
về nước.
Phải xa cách cụ với Bảo Đại rồi
đưa những người thân tín của họ ra
làm việc cho dễ. Do đó những người
mà cụ muốn gặp như Hoàng Xuân Hăn, Vũ Văn
Hiền, không
có ai đến, mà lại thấy những người
như ông Phan Văn Giáo, ông Trần Đ́nh Quế thường
xuyên muốn đến gặp, nhưng cụ không
tiếp ai cả. Rồi đến những người
cùng về như ông Đinh Xuân Quảng và ông Phan Huy
Đán đều đi làm việc với ông Quế và
ông Giáo. T́m hiểu t́nh
thế lúc bấy giờ, cụ Trần nhận
thấy các phe phái gồm có Việt Minh, phái quốc
gia và các phái tôn giáo như Thiên chúa giáo, Cao Đài, Ḥa
Hảo v.v… Song chỉ có Việt Minh là hoạt động
mạnh hơn cả, nào tuyên truyền, nào thóa mạ,
nào ám sát là việc của họ thường làm
rất táo bạo và hăng hái. Các phái khác tuy không
ưa Việt Minh, nhưng v́ Việt Minh có cái danh nghĩa
chống Pháp để đ̣i lại nền độc
lập, nên có nhiều người có ư hướng
về mặt trận kháng chiến. Nhiền người
nói rằng: “Chúng tôi chẳng ưa ǵ Cộng
sản nhưng họ có cái tổ chức để kháng
chiến, th́ hăy đi kháng chiến đă, rồi sau
nếu mà thành công, th́ ta sẽ liệu với nhau,
chứ cúi đầu làm nô lệ cho Pháp như trước,
thà chết th́ thôi, không bao giờ chịu”.
Một số khác v́ quá ghét Việt Minh hoặc v́
Việt Minh áp chế để chuyên giữ độc
quyền, cho nên có phe nọ đảng kia, chia rẽ
giết hại lẫn nhau. Ông Nguyễn Văn Sâm
là người được cụ bổ làm Nam
bộ Khâm sai, thường đến gặp cụ nói
chuyện. Cụ nói với ông Sâm “Theo cái t́nh
thế này, th́ làm thế nào rồi ta cũng phải
điều đ́nh với nước Pháp mới xong
việc. Song muốn việc điều đ́nh có
lợi cho nước nhà, th́ người trong nước
phải đoàn kết chặt chẽ với nhau
mới được. Nếu không th́ chỉ mắc mưu
người ta lợi dụng rồi chẳng được
ǵ cả”. Ông Sâm nói: “Ḿnh
muốn đoàn kết nhưng Việt Minh đâu có
thật ḷng đoàn kết! Họ chỉ muốn ḿnh
theo họ để làm tay sai cho họ củng cố
địa vị mà thi hành cái chủ nghĩa Cộng
sản của họ, chứ thực ra họ có
thiết ǵ đến quốc gia. Như vậy th́
đoàn kết sao được”. Cụ
Trần Trọng Kim thấy sự t́nh như thế
rất buồn ḷng chán năn. Ngoài ra cụ
Trần c̣n ngạc nhiên, ở Sà́g̣n dưới
quyền kiểm soát của người Pháp mà lại
có nhiều báo chí tiếng Việt công khai ra mặt bênh
vực Việt Minh. Có người viết trong báo: “Tôi
lấy làm hân hạnh được là người
của Việt Minh”. Cụ Trần
nhận xét “Việc làm của người Pháp
thực là ngoắt nghéo, họ đánh nhau với
Việt Minh mà lại lợi dụng người
của Việt Minh. Họ nói muốn điều đ́nh
với những người trong phái quốc gia, mà
lại làm cản trở việc làm của phái
quốc gia”. Điển h́nh là ông
Nguyễn Văn Sâm ra mặt chống Việt Minh th́
bị người Pháp ghét và bị Việt Minh hăm
dọa. Khi gặp ông Nguyễn Văn Sâm, cụ khuyên
ông: “Tôi xem t́nh thế khó lắm, ông có làm
việc ǵ th́ phải thận trọng, đừng có
khinh xuất mà mắc mưu gian”. Ông Sâm nói “Tôi cũng
biết thế, nhưng không lẽ khi vận nước
gian nan mà ḿnh ngồi nh́n, thà chúng ta cứ đứng
ra thành lập Mặt trận Quốc gia Thống
nhất để cho người ngoài biết trong kháng
chiến, không phải ai cũng là Việt Minh Cộng
sản hết cả. Rồi đây chúng tôi sẽ tái
bản tờ báo Quần Chúng đă bị đóng
cửa từ trước, để bày tỏ ư định
của chúng tôi”. Cụ Trần
Trọng Kim nhắc nhở ông Sâm “Việc ấy tùy
ông, nhưng không nên vội vàng nông nổi mà hại
cho việc các ông làm. C̣n tôi th́ đă nhất định
không dính dáng đến việc ǵ cả”. Từ
đó cụ không muốn tiếp xúc với ai cả,
nhưng những người như Phan Văn Giáo,
Trần Đ́nh Quế, Đinh Xuân Quảng, Phan Huy
Đán và những người khác, hoặc ở Nam
hoặc ở Trung, hay ở Bắc, tấp nập đi
lại Saigon -HươngCảng - Sàig̣n. Ông Sâm cũng
sang Hương Cảng gặp ông Bảo Đại,
đến khi trở về nước mấy ngày th́
bị ám sát. Cụ Trần nhận xét “Ông Sâm
vốn là người ôn ḥa, trầm tỉnh, ngay chính
và hết ḷng lo việc nước. Nhưng v́ ông qua
tin người ta xúi giục làm việc vội vàng quá
thành ra bị tai vạ, thật là đáng thương
tiếc”. (5) Trong
lúc cụ Trần Trọng Kim buồn ḷng chán năn, không
c̣n muốn tham gia vào việc điều đ́nh với Pháp, th́ nhiều
đoàn thể chính trị đă nhóm họp ở Sàig̣n,
Huế và Hà Nội. Họ cử một phái đoàn
gồm 24 đại diện sang Hồng Kông tŕnh bày
nội t́nh đất nước với Bảo Đại
và mời cựu hoàng trở về gánh vác việc nước.
Thấy vậy Bảo Đại mới lên tiếng
với các phóng viên ngoại quốc: "nếu
quốc dân c̣n tín nhiệm th́ tôi sẵn sàng đứng
ra đàm phán với Pháp để thỏa măn những
nguyện vọng chung". (6) Khi
tiếp đại diện của Bollaert, Bảo Đại
đặt điều kiện tiên quyết với Pháp
là: Việt Nam phải độc lập và thống
nhất, trong đó việc quy hoàn Nam bộ vào lănh
thổ quốc gia là điều kiện tối yếu
để ông trở lại chấp chánh. Ngày
7/12/1947 Bollaert và Bảo Đại chính thức gặp
nhau tại Vịnh Hạ Long. Trong cuộc hội
kiến đầu tiên này, Bollaert chấp nhận
những điều kiện do cựu hoàng đưa ra:
thống nhất đất nước, quân đội
và ngoại giao tự trị, băi bỏ mọi kiểm
soát và can thiệp có tính chất liên bang. Về
vấn đề thống nhất, Bollaert cho biết là
chính phủ Pháp có thể chấp nhận loại
bỏ chính phủ Nam Kỳ phân ly nhưng chưa rơ dân
ư Nam kỳ như thế nào? Sau đó Bollaert bay sang
Paris thỉnh thị chính phủ Pháp, c̣n Bảo Đại
trở về Hương Cảng tham khảo ư kiến
các giáo phái và đoàn thể quốc gia về vấn
đề chủ quyền và thống nhất đất
nước. Để
ủng hộ Bảo Đại, ngày 19/12/1947, một phái
đoàn nữa gồm những nhân vật tên tuổi
ở Nam kỳ như Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn
Hữu... lại sang Hồng Kông thúc giục cựu hoàng
về nước lănh trọng trách thống nhất
quốc gia. Họ khuyến cáo cựu hoàng cử
thủ tướng Cộng ḥa Nam kỳ làm thủ tướng
Chính phủ Quốc gia Lâm thời, đương nhiên
đất nước đă thống nhất, không c̣n
chia ly. Trong
khi đó, sau khi nhận chỉ thị của chính
phủ Pháp, Bollaert lên tiếng trên Đài phát thanh Sàig̣n
ngày 30/11/1947: "Hồ Chí Minh ngoan cố nên Pháp không
bao giờ điều đ́nh lại với Cộng
sản nữa, mà duy nhất chỉ nói chuyện
với cựu hoàng Bảo Đại". (7) Ngày
8/6/1948, trên một chiến hạm bỏ neo tại
Vịnh Hạ Long, Bollaert nhân danh chính phủ Pháp và
Nguyễn Văn Xuân, nguyên thủ tướng Chính
phủ Cộng ḥa Nam Kỳ, nay được Bảo
Đại cử giữ chức vụ thủ tướng
Chính phủ Trung ương Quốc gia lâm thời đă
kư thỏa ước Vịnh Hạ Long. Pháp nh́n
nhận Việt Nam độc lập và tự do
thực hiện sự thống nhất quốc gia, nhưng
trên thực tế các lănh vực ngoại giao, quân
sự, kinh tế và tài chánh vẫn c̣n bị Pháp
kiểm soát. Bất măn v́ sự thất hứa của
Bollaert, Bảo Đại bỏ sang Âu châu, cương
quyết khước từ lời mời của Pháp
trừ khi Việt Nam được độc lập và
thống nhất thực sự. Cuối cùng v́ áp
lực của Hoa Kỳ, Pháp chịu nhượng
bộ trao trả độc lập cho ba nước
Đông Dương. Trong
Thế chiến II, tổng thống Mỹ Roosevelt luôn
khuyến cáo Anh Pháp phải thay đổi chính sách
thuộc địa, v́ đó là mầm móng của
chiến tranh và là nhược điểm của các nước
Tây phương. Ông nói: "Đă đến lúc các
chính phủ phải nghe lời nói của các dân
tộc thuộc địa, nếu chúng ta cứ mặc
t́nh để hàng triệu con người lại rơi
vào chế độ nô lệ thuộc địa trá h́nh
th́ một cuộc chiến tranh khác sẽ xảy ra".
Ông lên án tư bản Anh Pháp chỉ t́m cách chiếm
đoạt các tài nguyên phong phú mà không nghĩ đến
việc phát triển các nước thuộc địa.
Theo ông t́nh trạng này phải thay đổi sau
chiến tranh và Hoa Kỳ sẽ viện trợ giúp các
nước chậm tiến phát triển kinh tế, nâng
cao mức sống của người dân. Để
giải quyết vấn đề quan trọng này,
Roosevelt chủ trương quốc tế hóa vấn
đề thuộc địa, đặt các thuộc
địa dưới sự quản thác của Liên
Hiệp Quốc trong một thời gian để các nước
này chuẩn bị đón nhận sự độc
lập hoàn toàn. (8) Ông nói: "Ngoài
mục đích bảo vệ ḥa b́nh và an ninh quốc
tế và tôn trọng quyền tự quyết dân
tộc, nó c̣n ảnh hưởng thúc đẩy sự
tiến bộ về chính trị, kinh tế, xă hội,
giáo dục tại các thuộc địa để cho
họ tiến dần đến chỗ tự trị
hoặc độc lập tùy theo hoàn cảnh tŕnh độ
và nguyện vọng của họ". Đối
với Đông Dương, Roosevelt không che dấu
sự chống đối của ông trong việc duy tŕ
quyền lợi của Pháp ở đây và muốn
thiết lập sự bảo hộ quốc tế
ở các nước này. Ông đă tâm sự với con
ông: "Người bản xứ Đông Dương
đă bị đàn áp trắng trợn đến
nỗi họ nghĩ rằng sống dưới bất
cứ chế độ nào cũng c̣n khá hơn
sống dưới chế độ thực dân Pháp". (9) Mối
bực tức này cũng được Roosevelt đề
cập với ngoại trưởng của ông Cordell
Hull về nỗi thống khổ của 30
triệu dân Đông Dương sau gần 100 năm
bị Pháp cai trị: người dân sống c̣n
khổ hơn hồi Pháp mới đến, họ đáng
được hưởng một đời sống
tốt đẹp hơn. (10) Tháng
11/1943, Roosevelt và Churchill đến Le Caire (Ai Cập)
hội đàm với Tưởng Giới Thạch. Trung
Hoa Dân Quốc được thừa nhận là một
trụ cột của Đồng minh chống Phát xít.
Cuộc kháng chiến chống Nhật của họ
đă cầm chân trên một triệu quân của Thiên
hoàng khiến Đồng minh có thể rảnh tay trên
nhiều mặt trận khác, Trung Hoa được
kể là nước có công đáng kể cho thắng
lợi của Đồng minh. Cả ba lănh tụ đều
quyết tâm chiến đấu đánh đuổi quân
Nhật ra khỏi các lănh thổ bị xâm lăng
kể cả Măn Châu và Triều Tiên. Vấn đề
thuộc địa lại được mang ra thảo
luận. Một lần nữa Churchill bác bỏ đề
nghị của Roosevelt về một thỏa hiệp
quốc tế hóa các thuộc địa của Pháp
ở Đông Dương. Churchill và giới thống
trị Anh Quốc không thể nh́n mặt trời
lặn trên những miền đất của đế
quốc Anh. Họ sợ rằng nếu đặt Đông
Dương dưới quyền ủy trị của
quốc tế sẽ ảnh hưởng đến
sự thống trị của họ đối với
Ấn Độ và các thuộc địa khác nữa. (11) Anh
Mỹ thừa nhận rằng với chiêu bài Thịnh
vượng chung Đại Đông Á, Nhật đă
quất sụm toàn bộ ách thống trị thực dân
trên toàn coi Á đông, điều này đ̣i hỏi các
nước Tây phương sau khi thu hồi các thuộc
địa, họ sẽ thương lượng
với những người bản xứ và trao trả
độc lập cho các thuộc địa để
duy tŕ ảnh hưởng của ḿnh. Đó là
quyết định của Đồng minh Tây phương
về vấn đề thuộc địa sau khi
Thế chiến II chấm dứt. Nam Kỳ thuộc
địa, dù nước Pháp có tư cách pháp lư
ở đây, song Tưởng Giới Thạch và
Roosevelt đều không muốn Đông Dương rơi
trở lại vào tay Pháp mà nên đặt nó dưới
sự quản thác quốc tế. Dựa
vào lư do Pháp đă đầu hàng Hitler lại không có
quân tham chiến chống Nhật ở Thái B́nh Dương,
c̣n Đông Dương đă lọt vào tay Nhật và
nằm trong mặt trận Hoa Nam do Trùng Khánh lănh đạo,
do đó Tưởng Giới Thạch và Roosevelt
quyết định giao vấn đề Đông Dương
cho Trung Hoa và Anh Quốc phụ trách sau khi Thế
chiến II chấm dứt. Roosevelt không công khai tán
đồng việc Pháp trở lại thống trị
Đông Dương, song ông cũng không c̣n phản
đối việc Anh Quốc đứng ra giúp Pháp tái
chiếm các nước Đông Dương. Việt
Nam là vùng đất chịu ảnh hưởng của
Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước khi Pháp
thôn tính Nam Kỳ làm thuộc địa. Năm 1884
với Ḥa ước Thiên Tân, triều đ́nh Măn Thanh
đă thỏa thuận để Pháp đặt sự
bảo hộ ở Bắc và Trung phần Việt Nam. Năm
1940 Pháp đă đầu hàng Đức và Nhật
chiếm đóng các nước Đông Dương, do
đó TT Roosevelt chấp nhận để Trung Hoa và Anh
Quốc vào giải giới quân Nhật ở Đông Dương
và sắp đặt chế độ chính trị
ở đây khi Thế chiến II chấm dứt. Đến
đầu năm 1945, do sự vận động tích
cực của Churchill, Pháp trở thành một trụ
cột của năm cường quốc Đồng
minh. Tướng De Gaulle, thủ tướng chính
phủ lâm thời Pháp đưa ra tuyên ngôn 24//3 hứa
sẽ cho các nước Đông Dương được
tự trị trong Liên bang Đông Dương thuộc
khối Liên hiệp Pháp. Trong
cuộc xung đột Pháp-Việt Minh ở Nam Bộ và
cuộc đàm phán giữa Pháp với Chính phủ
Hồ Chí Minh hồi năm 1945-46, Hoa Kỳ giữ thái
độ trung lập. Họ không muốn dính líu đến
vấn đề Đông Dương, nhưng hết
sức quan tâm đến diễn tiến t́nh h́nh ở
đây. Trong công điện gởi Sứ quán Hoa Kỳ
ở Paris, Ngoại trưởng Marshall nhắc nhở:
"Chúng ta hoàn toàn thừa nhận lập trường
là Pháp có chủ quyền ở Đông Dương và
chúng ta không muốn tỏ ra là ḿnh đang t́m cách phá
hoại lập trường đó, đồng thời
chúng ta không thể nhắm mắt trước thực
tế là có hai bên trong vấn đề này. Việc Pháp
tiếp tục có mặt ở Đông Dương
phản ảnh một giải pháp thực dân đă
lỗi thời và nguy hiểm ở khu vực đó.
Mặt khác chúng ta không được làm ngơ trước
thực tế là ông Hồ Chí Minh có quan hệ trực
tiếp với Cộng sản và đương nhiên chúng
ta không muốn thấy các chính quyền của thực
dân đế quốc lại được thay thế
bằng triết lư và tổ chức chính trị do
Kremlin chỉ đạo và kiểm soát". (12) Với
quan điểm trên nên tháng 9/1945 Truman từ chối
lời yêu cầu của De Gaulle xin Hoa Kỳ cung cấp
phi cơ và tàu thủy để chở quân Pháp sang
Đông Dương. Sau đó Hoa Kỳ cũng bác
bỏ yêu cầu của Paris xin cung cấp vũ khí
để giúp Pháp chống Việt Minh. Truman cũng làm
ngơ trước những lời kêu gọi của
Hồ Chí Minh hồi tháng 8 và 9/1945yêu cầu Hoa Kỳ
"một quán quân về dân chủ" hăy can
thiệp để Việt Nam trở thành một nước
được Mỹ bảo hộ trong một thời
gian trước khi độc lập như trường
hợp Phi Luật Tân. (13) (C̣n tiếp) Lê
Quế Lâm |