Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
7_2) Lê
Quế Lâm |
Chương
bảy (tiếp) Quốc
gia Việt Nam ra đời Hoa
Kỳ hoàn toàn đứng ngoài cuộc trong vấn
đề Đông Dương cho đến năm l948.
Từ giữa năm này, khi quan hệ hai khối Đông
Tây bắt đầu căng thẳng, chính giới Hoa
Kỳ hết sức quan tâm trước sự bành trướng
của Liên Xô ở Đông Âu và tỏ ra lo ngại
việc ông Hồ Chí Minh đi theo cộng sản. Nhưng
các báo cáo của Bộ Ngoại giao xác nhận họ
không t́m ra được bất cứ một bằng
chứng cụ thể nào cho thấy ông Hồ Chí Minh
thực tế đă nhận chỉ thị của Điện
Cẩm Linh. Tuy nhiên "nếu có một mưu đồ
do Mạc tư Khoa chỉ huy ở Đông Nam Á th́
Đông Dương quả là một trường
hợp bất thường chưa hề có". (14) Chính
v́ vậy Hoa Kỳ gây áp lực mạnh hơn buộc
Pháp nhượng bộ chấp thuận cho các nước
Đông Dương được độc lập khá
hơn. Một nền độc lập được
cho là cần thiết để "làm hậu
thuẫn cho chủ nghĩa quốc gia có thể phát
triển, nhờ đó Hoa Kỳ hy vọng sẽ
khuyến khích dân chúng Việt Nam tích cực ủng
hộ ông Bảo Đại là người không
Cộng sản để thay thế ông Hồ Chí Minh và
tổ chức Việt Minh. Ông Bảo Đại có
thể thực hiện được một giải pháp
chính trị công bằng với những người
Quốc gia ôn ḥa, do đó sẽ làm giảm bớt
những hiểm họa do việc các phong trào đấu
tranh giành độc lập có thể bị phe cực
đoan thao túng". Dù
vậy Hoa Kỳ vẫn chưa ủng hộ Thỏa
ước Élysée 8/3 v́ sợ ông Bảo Đại quá
yếu. Trong bức điện gởi Sứ quán Hoa
Kỳ ở Paris, Bộ Ngoại giao nhấn mạnh:
"Trong lúc này chúng ta không thể đưa nước
Mỹ đi cam kết một cách vô điều
kiện để ủng hộ chính phủ của
một người bản xứ khi mà chính phủ này
không phát huy được tín nhiệm đối
với nhân dân Việt Nam, có thể cuối cùng
trở thành một chính phủ bù nh́n, tách rời dân
chúng và chỉ tồn tại được nhờ
sự có mặt của giới quân sự Pháp". (15) Ngày
8/3/1949, tại Dinh tổng thống Pháp (Điện Élysée)
Bảo Đại và tổng thống Vincent Auriol kư
Hiệp ước Élysée. Pháp chính thức nh́n nhận
Việt Nam là một quốc gia độc lập
thống nhất thuộc khối Liên Hiệp Pháp, có
chủ quyền ngoại giao và nội trị, có quân
đội và tư pháp riêng. Tuy nhiên chủ quyền
thực sự vẫn c̣n nhiều hạn chế v́
hậu quả của t́nh trạng chiến tranh với
Việt Minh và việc gia nhập khối Liên Hiệp Pháp
khiến Việt Nam phải theo đúng chính sách do Thượng
hội đồng và Nghị viện Liên Hiệp Pháp
đề ra. (16) Ngày
24/4/l949, Hội đồng Đại biểu Nam kỳ
gồm 16 Pháp và 48 Việt bỏ phiếu chấp
nhận việc sáp nhập Nam Kỳ vào Quốc gia
Việt Nam. Quyết nghị được Quốc
hội Pháp thông qua ngày 3/6/1949. Quốc gia Việt Nam chính
thức ra đời ngày 1/7/1949 và chính phủ đầu
tiên do Bảo Đại đích thân điều
khiển. Hiệp ước Élysée
đáp ứng gần như trọn vẹn 7 điểm
do cụ Trần Trọng Kim phác họa hồi đầu
tháng Hai năm 1947. Chỉ có điểm 3 của cụ
đ̣i Pháp phải tử bỏ dự án liên bang ở
Đông Dương v́ theo cụ đó là cách lập
lại chế độ thực dân như thời trước
1945. Chính phủ Pháp không
thể đáp ứng đ̣i hỏi của cụ
Trần Trọng Kim nên t́m cách không cho cụ tiếp xúc
và cố vấn cho cựu hoàng Bảo Đại
nữa. Do đó cụ không trở lại Hương
Cảng, cụ cũng không ở trong nước để
chứng kiến sự nhượng bộ của Pháp
không đáp ứng hoài bảo của ḿnh, cụ và gia
đ́nh di chuyển lên Nam Vang. Âu đó cũng là
sự sắp bài của đấng thiêng liêng. Hoài
bảo của một con dân Việt Nam yêu nước
cống hiến cả cuộc đời phục dân
tộc, sẽ không cứu được nước
trong bối cảnh lúc bấy giờ. C̣n Pháp v́
muốn tái lập ách thống trị của ḿnh, nên
phải trả một giá đắt trong giai đoạn
từ sau Hiệp ước Élysée đến năm1954. Hơn
một trăm ngàn binh lính trong đội quân Viễn
chinh Pháp đă thương vong để bảo vệ
sự sống c̣n của đất nước VN trước
sự tấn công của các thế lực Cộng
sản trong ngoài nước. Các chính phủ Pháp sau
Thế chiến II đă đền bồi cho VN
những mất mác lớn lao dưới thời
thực dân từ đầu thập niên 1860 đến
1945. Đó là qui luật nhân quả của lịch
sử. Gieo nhân tất phải trả quả. Ngày 6/3/1948 tức ngày
26 tháng Giêng năm Mậu Tư, cụ Trần Trọng Kim
lên đường đi Nam Vang.Ở Nam Vang cụ
cảm thấy được yên ổn hơn Sàig̣n,
ngày đêm tự do, không có ai cấm đoán ǵ
cả, chỉ phải nóng nực khó chịu. Cụ
đọc sách vở về Phật giáo và Ấn giáo,
nên cũng nguôi được nhiều điều ph́ền
năo. Mỗi khi trời mát mẻ, chiều đến
cụ chống gậy ra đứng bên bờ sông nh́n
nước chảy, mà nghĩ cuộc đời cũng
xoay vần trôi nổi chẳng khác ǵ ḍng nước
chảy xuôi ḍng. Đối với người
ngoài, họ cho đó thật là hiu quạnh, song cụ
lại thấy có nhiều thú vị hơn những lúc
phải lo toan làm công việc nọ kia, giống như
người đóng tuồng ra sân khấu, nhảy múa
nhọc mệt rồi hết tṛ, đâu lại vào
đấy. Nay ngồi yên
một chỗ, ngắm rơ tṛ đời và tự ḿnh
tỉnh sát để biết cái tâm t́nh của ḿnh.
Cụ nhớ câu cổ nhân đă nói: “Hiếu danh
bất như đào danh, đào danh bất như vô
danh”. Muốn có danh không bằng trốn danh,
trốn danh không bằng không có danh. Người có trí
tuệ mà biết giữ ḿnh ở chỗ vô danh là
bậc cao sĩ tuyệt tác, nhưng ḿnh đă trót
đeo lấy cái danh vào ḿnh, th́ phải t́m cách
trốn danh vậy. Cụ quan niệm: danh
với lợi ở đời là những cái mồi nó
nhử ḿnh vào cạm bẩy để hành hạ cái
thân ḿnh, chung quy chỉ là một cuộc mộng
ảo, chẳng có ǵ là thực. Khi đă mắc vào th́
lắm lúc lại phải đi vào những nơi hôi
thối, phải bưng mắt bịt mũi, thật là
khổ. Cụ dự định
nương náu ở đây chờ cho t́nh thế yên yên,
th́ thu xếp về Bắc là nơi có bà con, bạn bè
để khi vui buồn có nhau hơn là ở chỗ xa
lạ. Đến tháng 3 năm 1949, thấy cựu hoàng
Bảo Đại đă điều đ́nh xong với
chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam
được thống nhất và độc lập
trong khối Liên hiệp Pháp, đại khái theo cái nguyên
tắc mà ông Bảo Đại và cụ đă
đưa cho người Pháp ở Hương Cảng. Cụ kỳ vọng
khi sự độc lập và thống nhất đă
thực hiện rơ ràng rồi, th́ ông Bảo Đại
phải có cái chính sách cương quyết và biết
lựa chọn lấy những người ngay chính,
đứng đắn ra giúp ông mà làm mọi việc.
Nếu lại để cho những người
muốn thừa cơ hội mà làm giàu làm sang th́ khó ḷng
mà đem lại ḷng tín nhiệm của dân chúng.
Việc thành bại sau này, tùy ở ḷng thành thực
của người Pháp, và chính sách ngay thẳng
của ông Bảo Đại. C̣n phần cụ,
nay già rồi chỉ mong được yên ổn,
nghỉ ngơi cho trọn tuổi già. Vả lại
trong quảng đường vừa đi qua, trải
bao những cảnh huống đau buồn khổ
sở, may nhờ Trời Phật cứu giúp, cụ duy
tŕ được đến bây giờ, mà không
trụy lạc vào đâu cả, thật là cái phúc
lớn vậy. Cụ tâm sự: “Bản
tâm là tôi viết truyện riêng của tôi, song tôi
phải nói đến chính trị của chính phủ
Việt Minh và sự hành động của Pháp ở
Đông Dương, là v́ những việc ấy quan
hệ với nhau, không nói rơ không ai hiểu manh mối
việc tôi làm thế nào”. Việc người
Pháp làm ở Đông Dương, có nhiều lầm
lỗi, ngay từ lúc đầu không chịu thay đổi
thái độ với người Việt Nam. Họ
cứ tưởng lấy vơ lực mà đàn áp và dùng
quyền mưu lừa dối để đưa người
ta vào tṛng, như ư ḿnh muốn, họ không biết
rằng ḷng người đă thay đổi, nhân trí
đă biến thiên, không thể lấy thế lực
bắt người ta đi theo đường cũ. Người Pháp
lại có cái tính hay cậy sức mạnh, rồi có
xẩy ra việc ǵ, th́ để cho quân lính đi tàn
phá giết hại, có ư muốn làm cho người ta
sợ. Cái phương cách ấy đối với các
dân tộc khác, không biết như thế nào? Nhưng
đối dân tộc Việt Nam, chỉ dùng sức
mạnh để tàn phá, th́ sự tàn phá càng tàn
nhẫn bao nhiêu, sự thù oán ghét lại càng tăng thêm
bấy nhiêu. Tâm lư người
Việt Nam, họ ưa chuộng chính sách trong sạch
ngay chính, không phá bậy giết càn. Hễ người
Pháp không hiểu chỗ ấy, th́ bề ngoài thế nào
mặc ḷng, bề trong không ai phục, th́ lảm
việc ǵ cũng thất bại. V́ vậy, việc người
Pháp muốn đem lại ḥa b́nh ở xứ Đông Dương
mà cứ ngoắt nghéo cho nước Việt Nam độc
lập, thống nhất và không thành thật thi hành
những điều giao kết, th́ khó ḷng mà giải
quyết được cái t́nh thế ngày nay. Đối với
Việt Minh, cụ nhận xét: Về phương
diện chính trị th́ chính phủ Việt Minh đă
thất sách từ lúc đầu, chưa ǵ đă đem
áp dụng cái chủ nghĩa cộng sản một cách
đường đột quá, thành ra ở trong nước
th́ dân t́nh ta thán, mà ở ngoài th́ không có ai muốn
giúp đỡ. Trước th́
họ trông cậy ở nước Nga và ở đảng
Cộng sản bên Pháp, sau th́ nước Nga v́ xa cách
không giúp được họ việc ǵ, đảng
Cộng sản bên Pháp thất thế, thành ra bị cô
lập, bất đắc dĩ phải lập ra
mặt trận kháng chiến. Chính phủ Việt Minh
tuy biết lợi dụng ḷng ái quốc của
quốc dân và nhờ tổ chức chu đáo và sự
tuyên truyền khôn khéo, nhưng vẫn không đủ
sức để ngăn cản được sự
tấn công của quân địch. Chủ nghĩa
Cộng sản về luận thuyết cũng có điều
bảo thủ, như là muốn chữa những điều
bất công xă hội th́ lại áp chế điều hà
khốc và dùng những thủ đoạn khiến người
ta mất ḷng tin cậy. Đem cái bất công b́nh
nọ mà phá cái bất công b́nh kia th́ dù có thắng
lợi, cũng không chắc đă bền vững. Việc làm của
Việt Minh cộng sản có hai điều trở
ngại. Một là đem cái phương sách hành động
ở một nước bạn Tây phương sang thi hành
ở Việt Nam có nhiều điều không thích
hợp với hoàn cảnh và tính t́nh của phần
nhiều người trong nước cho nên có trái ngược.
Hai là v́ vị trí nước Việt Nam ở trong ṿng
ảnh hưởng của Anh Mỹ, theo hiện t́nh bây
giờ họ cũng không để đất nước
thành cộng ḥa. Chỉ khi nào trống mái rơ rệt,
thiên hạ hoặc là đều cộng ḥa cả,
hoặc là đều tư bản cả. Lúc ấy dù
muốn dù không cũng chẳng làm được ǵ.
Trong khi hai cái lư tưởng c̣n đối lập, th́
ḿnh chưa sao thoát khỏi cái thế lực của Anh
Mỹ. Như vậy ḿnh cố chấp muốn cộng
ḥa, th́ chỉ có phần thiệt hại mà thôi,
chứ khó ḷng thành công được. Đảng Cộng
sản có tính cách tôn giáo, phải mê và tin, tin chỉ
có ḿnh là phải, c̣n người ta là sai lầm
hết cả… Song những người làm chính
trị quan hệ đến vận mệnh một nước,
phải hiểu thời thế, mà tùy cơ ứng
biến. Theo ư cụ, th́ đó là điều những
người cầm quyền trong đảng Việt Minh
phải liệu mà hành động. Dù hay dở thế nào
mặc ḷng, đảng Việt Minh đă có cái công
lớn tổ chức được cuộc kháng
chiến khiến nước Pháp phải cho nước
Việt Nam được độc lập và thống
nhất. Song trong t́nh thế hiện thời, th́ đảng
Việt Minh chỉ làm được đến đấy
thôi, không làm hơn được nữa. Muốn
cố chấp làm cho được như ư muốn
thỉ làm khổ dân hại nước mà không
chắc đạt được những mong muốn
của họ. Vă lại cái mục
đích ấy định đi đến đâu?
Tại sao người ḿnh đă phơi xương
đổ máu trong sáu bảy chục năm trời
từ khi có cuộc bảo hộ nước Pháp đến
giờ? Có phải tại người ḿnh muốn
sống cái đời sống tự chủ của ḿnh,
chớ không làm nô lệ ai không? Lẽ nào ta đem cái
ư tưởng chưa được thực hiện
được mà đem ḿnh làm nô lệ một dân
tộc khác. Dù ta có say mê một lư tưởng nào
nữa, th́ cũng từ từ để cho thời
gian dũa ṃn bớt góc cạnh có thể gây ra
nhiều đau đớn. Đời chưa đủ
khổ hay sao, mà c̣n muốn gây thêm ra nữa! Hiện nay đảng
Việt Minh có nước cờ đánh rất cao, là
tự ḿnh lùi bước đi, để cho đảng
chân chính quốc gia đứng ra thực hiện
sự độc lập và thống nhất nước
nhà, rồi lập thành một chính thể theo đúng
cái nghĩa dân chủ đang thịnh hành ngày nay, cho các
đảng phái được công nhiên lấy nghĩa
lư mà tranh đấu trên trường ngôn luận nhưng
không được dùng vơ lực mà tranh quyền cướp
thế. Làm được như thế, tất nhiên là
họ giúp cho nước Việt Nam sẽ có địa
vị rơ ràng trong quốc tế, không ai xâm phạm
được nữa. Khi ấy mọi người
trong nước phải quả quyết đi vào con
đường kiến thiết, ai nấy đều
đem hết tài lực của ḿnh mà học tập và
làm việc để đưa đất nước
đến tŕnh độ cường thịnh như các
nước khác. “Cứ như
thiển kiến của tôi, th́ đó là cái phương
sách cứu nước rất ngay thẳng và có
phần mau chóng hơn cả không biết những
bậc cao minh trong nước nghĩ sao? “Tôi đem cái ư
kiến ấy mà phô bày ra đây, là theo cái t́nh
thế hiện thực mà nói, chớ không phải là
một điều mơ tưởng, mà cũng không
phải là tôi thiên vị chủ nghĩa nào, hay đảng
phái nào cả, tôi đă nhất quyết không mưu
cầu danh lợi ǵ hết, chỉ mong người
trong nước bỏ bớt cái ḷng tư tâm tư
lợi mà ra sức giúp cho nước nhà chóng
được yên ổn và thịnh vượng để
cùng với thế giới đi lên con đường
tiến bộ. “Cũng bởi
tấm ḷng v́ dân v́ nước ấy và khi thấy
quốc gia gian nan, không lẽ ngồi nh́n, nên tôi
tự biết ḿnh đă già yếu kém cỏi không làm
ǵ được, nhưng ít ra cũng theo cái lương
tâm mà đem những sự tôi đă biết và đă
thấy mà phô bày ra để mọi người suy xét
cho đúng sự thực. Dù ai có bảo đó là
lời nói của một anh hủ nho, tôi cũng cam tâm
mà tự cho ḿnh đối với tâm của ḿnh đă
làm hết bổn phận làm người
vậy”. Trên
đây là những lời tâm huyết của một chí
sĩ quốc gia suốt đời phụng sự dân
tộc được cụ ghi lại trong những ḍng
cuối quyển Một Cơn Gió Bụi. Cụ
Trần Trọng Kim đă viết xong sách này tại Nam
Vang ngày 1/5/1949 tức mùng 4 tháng tư năm Kỷ
Sữu. (17) *** V́
Pháp không chấp nhận Việt Nam được hoàn
toàn độc lập tự chủ, nên từ
khi Quốc gia Việt Nam ra đời, đa số
những người quốc gia chân chính đều không
muốn hợp tác với một chính phủ Quốc
gia thân Pháp, điển h́nh là Ngô Đ́nh Diệm, người
đă từng khuyến cáo Bảo Đại phải
cứng rắn với lập trường Việt Nam
độc lập và thống nhất. Trong đó c̣n có
một số lănh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng
như Lê Ngọc Chấn, Nguyễn Ḥa Hiệp, Xuân Tùng...
Ngoài ra c̣n có Trần Văn Hương, nguyên Chủ
tịch Mặt trận Kháng chiến tỉnh Tây Ninh,
Trần Văn Văn, ủy viên Kinh tài Ủy ban Kháng
chiến Nam bộ... Số người này đă
từng hợp tác với Việt Minh nhưng sau khi
thấy được bộ mặt thật của người
cộng sản, họ bỏ kháng chiến trở
về thành và cũng không ra hợp tác với các chính
quyền thân Pháp. Ngoài ra c̣n có một số lớn trí
thức không dám hợp tác với chính quyền
quốc gia v́ sợ bị Việt Minh khủng bố. Cuộc
kháng chiến chống Pháp của Việt Minh vẫn c̣n
tiếp diễn nhưng tính chất của cuộc
đấu tranh này đă thay đổi. Chính Hồ Chí
Minh đă xác nhận: "Kháng chiến Việt Nam là
một h́nh thức cao rộng của giai cấp đấu
tranh, nghĩa là cuộc đấu tranh lớn lao trên toàn
thế giới giữa thế giới tư bản và
thế giới cộng sản. Nhờ
cuộc kháng chiến này mà những người
quốc gia ôn ḥa đă tranh thủ được
nền độc lập cho đất nước
bằng con đường thương lượng ḥa
b́nh. Dù nền độc lập ban đầu c̣n
nhiều hạn chế sẽ được kiện toàn
dần dần, nhưng người quốc gia đă
đi sau về trước. Mục tiêu đấu tranh
giành độc lập của người Quốc gia
đă hoàn tất, công cuộc kháng chiến đánh
đuổi thực dân của cộng sản không
những mất đi phần nào ư nghĩa mà c̣n
biến Việt Nam trở thành đấu trường
chính của cuộc xung đột giữa hai thế
giới đối lập h́nh thành sau Thế chiến
II. Năm 1945, sau khi giành
được chính quyền, ông Hồ Chí Minh khôn khéo
vận động ngoại giao với khối thế
giới tự do, ông mượn những ư tưởng
về dân chủ tự do trong Tuyên ngôn Độc
lập 1776 của Hoa Kỳ để mở đầu
bản Tuyên ngôn Độc lập của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Và dùng tiêu đề
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc của chủ
nghĩa Tam dân: Dân tộc độc lập, Dân
quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc của Trung Hoa
Quốc Dân Đảng làm nền tảng cho chế
độ mới. Bước
thành công kế tiếp trong sự nghiệp chính
trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là triệt
hạ, cô lập và trung lập hóa một cách hợp
pháp những đối thủ chính trị đối
lập, những người có khả năng lèo lái dân
tộc đi ra ngoài quỹ đạo cộng sản,
để ông độc quyền lănh đạo
cuộc cách mạng do ông vạch ra. Ông lại lợi
dụng nhiệt t́nh yêu nước của nhân dân trong
lúc bọn thực dân Pháp trở lại Đông Dương
để phát động cuộc kháng chiến
chống Pháp giành độc lập tự do nên đă
thu hút được ḷng dân. Những điểm này
sẽ giúp ông hoàn thành cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc như là một lănh tụ ái quốc
chân chính của một nước thuộc địa. Nhưng
ba năm sau với thắng lợi của cộng
sản Trung Quốc, do tham vọng tranh quyền lănh
đạo "Thế giới Cách mạng"
của Mao Trạch Đông, Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa là
nước đầu tiên trên thế giới công
nhận chính phủ Hồ Chí Minh, bắt buộc Liên Xô
và các nước cộng sản khác phải đặt
quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân
chủ Cộng ḥa. Trung Cộng trở thành hậu phương
lớn yểm trợ kháng chiến Việt Minh, kể
từ đó ông Hồ Chí Minh dựa hẳn vào Bắc
Kinh để đương đầu với chính
phủ hợp pháp của Bảo Đại vừa
được Pháp trao trả độc lập.
Ảnh hưởng Trung Cộng ngày càng phát triển
trong hàng ngũ Việt Minh, tất cả các chính sách và
đường lối cách mạng của Trung Cộng
như cải cách ruộng đất, chiến tranh nhân
dân, trường kỳ kháng chiến... đều
được Việt Minh áp dụng tại Việt
Nam. Mưu
đồ nhân danh một nhà cách mạng yêu nước,
núp kín trong ḷng Quốc tế Cộng sản, để
chiến đấu cho chính nghĩa của dân tộc
của ông Hồ Chí Minh đă bị lật tẩy.
Từ đây ông phải công khai đứng trong
trận tuyến chống chủ nghĩa đế
quốc do Liên Xô lănh đạo. Đất nước
trở thành vũ đài của cuộc xung đột
thế giới, Việc
Trung Cộng, Liên Xô và các nước cộng sản
Đông Âu công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
và ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh, lúc đó
Hoa Kỳ và các nước Tây phương mới chính
thức đặt quan hệ ngoại giao với chính
phủ Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại
lănh đạo. Năm
1952, Quốc gia Việt Nam xin gia nhập Liên Hiệp
Quốc được Đại Hội đồng thông
qua với 40 phiếu thuận và 5 phiếu chống (12 nước
vắng mặt). Hội đồng Bảo An biểu
quyết với 9 phiếu thuận chỉ có Liên Xô dùng
quyền phủ quyết bác bỏ. Dù không phải là
thành viên của Liên Hiệp Quốc, song từ tháng
10/1949, Quốc gia Việt Nam lần lượt trở
thành hội viên chính thức của nhiều cơ quan
quốc tế như Viễn Đông Kinh ủy hội,
Tổ chức Y tế thế giới,
Lao động thế giới, Lương nông thế
giới, Văn hóa thế giới... Ngày
3/7/1953, Pháp quyết định trao trả độc
lập hoàn toàn cho ba nước Đông Dương
dẫn đến Hiệp ước về Độc
lập (Traité D'Indépendance) kư ngày 4/6/1954 giữa Thủ
tướng Pháp Jooeph Laniel và Thủ tướng
Quốc gia Việt Nam Bửu Lộc, gồm các điều
khoản sau đây: -
Điều 1: Nước Pháp công nhận nước
Việt Nam là một quốc gia hoàn toàn độc
lập có đầy đủ chủ quyền và
thẩm quyền do Quốc tế công pháp công nhận. -
Điều 2: Nước Việt Nam thay thế nước
Pháp trong các quyền lợi và trách nhiệm do những
hiệp ước mà Pháp đă kư thay cho Việt Nam. -
Điều 3: Nước Pháp cam kết chuyển giao cho
Việt Nam thẩm quyền các công sở do Pháp chi
phối trên lănh thổ Việt Nam. -
Điều 4: Hiệp ước sẽ bắt đầu
thi hành ngay sau khi kư kết và băi bỏ tất cả
mọi án văn trái ngược với hiệp ước
trên đây. (18) Lúc
bấy giờ, Quốc gia Việt Nam đă được
35 quốc gia trên thế giới thừa nhận. Ngày
16/6/1954, bốn ngày sau khi chính phủ Bidault đổ,
tổng thống Pháp Réné Coty bổ nhiệm Mendès-France
lập chính phủ mới để chấm dứt
chiến tranh Đông Dương. Trước bước
ngoặc của lịch sử dân tộc, Quốc trưởng
Bảo Đại mời Ngô Đ́nh Diệm làm thủ
tướng, thay thế hoàng thân Bửu Lộc. Ba
tháng trước đó, thủ tướng Laniel đă
công khai ngỏ ư trước Quốc hội rằng Pháp
cần chấm dứt chiến tranh bằng cách thỏa
hiệp với Việt Minh. Đích thân Bảo Đại
đă đến gặp René Coty và Laniel để
phản đối dự định nghị ḥa với
cộng sản. Ông tuyên bố với báo chí: không
chấp nhận bất cứ hiệp ước nào do
Pháp kư với đối phương đi ngược
với quyền lợi dân tộc. (19) Trong
hồi kư, cựu hoàng nhắc lại rằng: "trong
t́nh thế hiện tại, không có ai hơn ông Diệm
được. Ông ấy là một bảo đảm
chắc chắn nhất để chống cộng
sản, ông ta quả thật là người của
thời cuộc". Bảo Đại đă giao toàn
quyền quân sự lẫn dân sự cho thủ tướng
Diệm điều khiển vận mạng đất nước
để đối phó với t́nh h́nh khẩn trương
lúc bấy giờ. Khi giao trọng trách này, Bảo Đại
yêu cầu Diệm "hăy thề là sẽ bảo
vệ đất nước chống lại bọn
cộng sản vô thần và nếu cần chống
lại người Pháp nữa". (20) Bác
sĩ Trần Văn Đỗ được thủ tướng
Diệm cử làm ngoại trưởng thay thế Giáo
sư Nguyễn Quốc Định dẫn đầu phái
đoàn Quốc gia Việt Nam tham dự Hội nghị
Genève 1954. Lê Quế Lâm CHÚ
THÍCH 1. Cao
Văn Luận, Bên ḍng lịch sử: Hồi kư
1940-1965, Nxb Sống Mới, Sàig̣n, Tr. 147-148 2. Trần
Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vinh Sơn, Sàig̣n,
1969, Tr. 162-165 3. Trần
Quân, “Giải pháp Bảo Đại”, Báo Chuông
Sàig̣n, Úc Châu, 1/7/1988. 4. Đoàn
Thêm, Những ngày chưa quên, Nam Chi Tùng Thư Xuất
bản, Sàig̣n, tr. 127-129. 5.
Trần Trọng Kim, Sđd, Tr. 167-179. 6. Đoàn
Thêm, Sđd, tr.142. 7.
Trần Quân, Tài liệu đă dẫn trên. 8.
James Mac Gregor Burns, “Roosevelt: The Soldier of Freedom 1940-1945”,
Weidenfeld & Nicolson, London, 1971, P. 379. 9.
Elliott Roosevelt, “As He Saw It”, Duell-Sloan & Peace, New
York, 1946, P. 115. 10-11.
Neil Sheehan, “A Bright Shinning Lie”, Picador, London, 1990, P.
150. 12.
The Pentagon Papers, Published by The New York Times, Bantam Books, NY,
1971, PP.7-8 13.
Neil Sheehan, A Bright Shinning Lie, Picador, London, 1990, P.147 14-15.The
Pentagon Papers, Published by The New York Times, Bantam Books, NY, 1971,
PP.9-10 16.
Đoàn Thêm, Sđd, tr.158-159 17.
Trần Trọng Kim, Sđd, Tr. 180-191. 18.
Nam Đ́nh (Kỳ Nam Nguyễn Thế Phương),
Hồi kư lịch sử : 1923 đến 1964,
Nhật báo Thần Chung, Sàig̣n, 1965. 19 Đoàn
Thêm, Sđd, Tr. 172. 20.
Bao Dai SM, “Dragon D'Annam”, Blon, Paris, l980. P. 329 |