Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
8) Lê
Quế Lâm |
Phần
Hai Thảm
họa chiến tranh Chiến
tranh Đông Dương lần I (1946-1954): Đất
nước chia đôi Chương
tám Bối
cảnh thế giới sau Thế chiến II và Chiến tranh lạnh Ngay
từ buổi đầu của thời hậu
chiến, Hoa Kỳ đă trao trả độc lập
cho Phi Luật Tân và kêu gọi thanh toán mau lẹ
chế độ thuộc địa. Hoa Kỳ hy
vọng việc chấm dứt chế độ
thuộc địa sẽ được thực
hiện nhanh chóng, các nước mới thu hồi
nền độc lập sẽ theo chế độ
đại nghị Tây phương và đóng một vai
tṛ xây dựng trên vũ đài thế giới trong
kỷ nguyên ḥa b́nh độc lập. Nhưng
việc trao trả độc lập không diễn ra
một cách êm đẹp. Nếu chính phủ Anh đă
tuần tự chuyển những thuộc địa
của ḿnh sang t́nh trạng tự trị trong khuôn
khổ Cộng đồng thịnh vượng chung
(Commonwealth) sau đó tiến tới độc lập hoàn
toàn như trường hợp Ấn Độ,
Miến Điện, Hồi Quốc…Song cũng có
những cường quốc Âu châu khác cố chấp
và thiển cận, họ không hiểu rằng đă
đến lúc phải thay đổi đường
lối cũ, thể hiện tinh thần b́nh đẳng
và tôn trọng lẫn nhau mới có thể cứu văn
được địa vị và duy tŕ được
ảnh hưởng của ḿnh sau này. Họ
không hiểu được khát vọng sâu xa của các
dân tộc bị trị sau chiến tranh là độc
lập, tự do, phát triển. Lănh tụ Ấn Độ
Jawaharlal Nehru (1989-1964), một nhân vật nổi
tiếng của Phong trào giải phóng dân tộc đă
phát biểu như sau: “Những nét chính của
bộ mặt Á châu ngày nay là sự phản kháng
chế độ thuộc địa, sự phục sinh
chủ nghĩa yêu nước, niềm kỳ vọng
ở công cuộc cải cách ruộng đất, ḷng
nhiệt t́nh mong muốn một nền kinh tế phát
triển và say mê tự do”. Lợi
dụng sự yếu kém và chia rẽ của người
bản xứ, các cường quốc thực dân
chậm trể trong việc trao trả độc
lập cho các thuộc địa đă đưa Nam Dương
và Đông Dương vào con đường chiến
tranh đáng tiếc. Riêng Việt Nam do sự chia rẽ
của những người lănh đạo và sự
ngoan cố của thực dân Pháp khiến Việt Nam
trở thành trận địa của cuộc xung đột
quốc tế. Từ đó dân tộc Việt Nam
phải gánh chịu một hậu quả vô cùng
thảm khốc của cuộc chiến tranh trường
kỳ kéo dài đến cuối thập niên 1980. Sau
Thế chiến II, Hoa Kỳ chưa bao giờ chủ trương
dùng sức mạnh để yểm trợ các Đồng
minh Tây Âu duy tŕ chính sách thực dân ở châu Á, trái
lại họ c̣n áp lực mạnh yêu cầu Ḥa Lan
chấm dứt chiến tranh năm 1946, sau đó dọa
cắt viện trợ buộc Ḥa Lan nhượng
bộ trao trả độc lập cho Nam Dương vào
năm1949…Nhưng Liên Xô và các nước cộng
sản luôn tố cáo Hoa Kỳ đă nhúng tay vào
việc triệt hạ ảnh hưởng của các nước
Âu Châu khỏi các thuộc địa ở Đông Nam
Á để rồi thừa hưởng nó, xây dựng
chế độ thực dân mới. Về
sau khi cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu,
cộng sản chiến thắng ở Hoa Lục, th́ chính
sách của Hoa Kỳ trở nên phức tạp hơn.
Họ quan tâm đặc biệt đến vai tṛ
của Cộng sản quốc tế ở châu Á và t́m
cách ngăn chặn sự bành trướng của
chủ nghĩa cộng sản. Từ
đây con đường phát triển của các nước
mới giành được độc lập gặp
nhiều khó khăn hơn. Thoát khỏi chế độ
thuộc địa chỉ là bước mở đầu,
nếu những người lănh đạo dân tộc
thiếu sự khôn khéo không biết đoàn kết
nội bộ th́ dễ sa vào ṿng tranh chấp quốc
tế. Những thế lực đế quốc mới
với thủ đoạn tinh vi sẽ can dự vào, không
những mất cả độc lập tự do mà c̣n
gây ra cảnh nội chiến, đất nước qua
phân trở thành vũ đài đọ sức của các
cường quốc. Chính
v́ đó mà lănh tụ một số nước mới
giành được độc lập ở Á và châu
Phi sớm ư thức rằng v́ quyền lợi sống
c̣n, không cho phép họ nghiêng về một phía nào
giữa hai khối quốc tế tương tranh.
Họ t́m cách đứng ngoài, chọn con đường
trung lập về chính trị, đường lối này
được thể hiện tại hội nghị Á
Phi ở Bandung (Nam Dương) năm1955. Chính
sách đối đầu và Chiến tranh lạnh Nga Mỹ đều là đồng minh trong
cả hai trận thế chiến, họ đă duy tŕ
được mối giao hảo tốt đẹp trong
thời chiến; người ta hy vọng họ sẽ
bằng ḷng với phần đất ảnh hưởng
được phân chia tại hội nghị Yalta và
Potsdam. Hai bên sẽ t́m được những phương
thức hợp tác để giải quyết êm đẹp
các vấn đề tranh chấp trong lục địa
Âu Á, nơi mà cả hai đều có mặt và có
những cam kết. Với ưu thế về quân
sự, chính trị, kinh tế và dựa trên những
nguyên tắc pháp lư quốc tế đă được
thoả thuận, cả hai sẽ thiết lập
một trật tự thế giới an ninh và b́nh đẳng
cùng tồn tại và phát triển. Nhưng mối liên
hệ Nga Mỹ ngày càng xấu đi do sự bất
đồng ở nhiều vấn đề quốc
tế quan trọng. 1-Vấn
đề Triều Tiên Sau
hội nghị Potsdam, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều
không có ư định muốn Triều Tiên chia
cắt vĩnh viễn. Vĩ tuyến 38 chỉ là
đường ranh giới tạm chia hai vùng
chiếm đóng cho tới khi nào t́m được
những nguyên tắc hợp lư để
thống nhất Triều Tiên. Cả hai đă có
nhiều cố gắng lớn để sớm đạt được
sự thỏa thuận về những nguyên tắc
đó, nhưng vấn đề bế tắc là ai sẽ
đứng ra kiểm soát để tổ chức
cuộc tổng tuyển cử tự do. Liên
Xô muốn cộng sản đưa người tham gia
chính phủ để kiểm soát cuộc
tổng tuyển cử, trái lại Hoa Kỳ cho rằng
một khi cộng sản nắm quyền, sẽ không
thể có tuyển cử tự do. Cuối cùng, hai nhà nước
Triều Tiên ra đời vào năm 1948 với
hai thể chế chính trị khác nhau, dẫn đến
cuộc chiến tranh lớn sau Thế chiến
II khi Bắc Triều Tiên muốn thống nhất đất
nước bằng bạo lực vũ trang. 2-
Vấn đề nước Đức: Vấn
đề căn bản ở đây cũng tương
tự ở Triều Tiên. Theo quyết định
của Đồng minh, Đức tạm
thời bị chia thành 4 vùng do 4 nước thắng
trận kiểm soát và một vùng đặc biệt Bá
Linh đặt dưới sự kiểm soát của
tứ cường. Các nước Đồng minh
thắng trận có trách nhiệm xây dựng một nước
Đức dân chủ ḥa b́nh và thống nhất để
nước này đứng ra kư kết hiệp ước
ḥa b́nh với các nước thắng trận. Mục
tiêu này không đạt được v́ lập trường
của Nga và ba nước Tây phương hoàn toàn
đối nghịch, đưa đến việc h́nh
thành hai nhà nước Đức với hai chế
độ chính trị xă hội khác nhau. Tháng
4/1948, cộng sản bắt đầu gây hấn
với Tây phương bằng cách phong tỏa Tây Bá
Linh. V́ phần đất này nằm trong lănh thổ
Đông Đức do Liên Xô chiếm đóng, bắt
buộc Anh, Pháp, Mỹ phải lập cầu không
vận tiếp tế cho Tây Bá Linh trong điều
kiện vô cùng khó khăn, tạo ra t́nh h́nh căng
thẳng tại đây. Trong 18 tháng từ ngày 1/4/1948
đến đến khi cuộc phong tỏa chấm
dứt vào ngày 20/9/l949, không lực Hoa Kỳ và Anh
Quốc đă chuyển vận vào thành phố Tây Bá
Linh 2.343.000 tấn lương thực và than đá . 3-
Vấn đề Nhật Bản: Trong
thời gian Mỹ chiếm đóng Nhật Bản, Liên
Xô luôn đ̣i hỏi Hoa Kỳ phải có
một chính sách cứng rắn đối với
Nhật, hạn chế tối đa việc phục
hồi kinh tế để nước này khỏi gây
hấn một lần nữa. Nếu đáp ứng
đ̣i hỏi của Liên Xô, Hoa Kỳ sẽ phải
viện trợ thường xuyên cho gần 80 triệu dân
Phù Tang... Trong khi mục tiêu của Hoa Kỳ là việc
thực thi dân chủ phải đi đôi với
việc phát triển kinh tế. Khi
cộng sản gây chiến ở Triều Tiên, Hoa
Kỳ quyết định chấm dứt việc
chiếm đóng Nhật Bản sớm hơn dự
liệu và ra sức tái thiết Nhật để nước
này góp phần với Thế giới Tự do chống
lại chủ nghĩa bành trướng của cộng
sản. Tháng
9/1951, Nhật kư Hiệp ước ḥa b́nh San Francisco
với tất cả 48 quốc gia thành viên Liên Hiệp
Quốc chỉ trừ Liên Xô, Ba Lan và Tiệp Khắc.
Hiệp ước ghi nhận: Quân đội chiếm
đóng sẽ rút khỏi nước Nhật trong ṿng
90 ngày, Nhật dành cho các nước kư ḥa ước
với họ được hưởng qui chế
tối huệ quốc trong thời gian 4 năm. Ngoài
ra Nhật c̣n được quyền kư hiệp ước
với các nước để bảo vệ an ninh và
nền độc lập của ḿnh. Hiệp ước
San Francisco bị khối Cộng sản bác bỏ
khiến Nhật vẫn c̣n trong t́nh trạng chiến
tranh với Liên Xô, buộc họ phải kư Hiệp
ước An ninh hỗ tương với Hoa Kỳ và yêu
cầu Mỹ tiếp tục đóng quân trên đất
Nhật để bảo vệ an ninh. 4-
Vấn đề Trung Quốc: Trong
thời kỳ Nhật chiếm đóng Trung Hoa, Quốc
Dân Đảng và đảng Cộng sản
Trung Quốc tạm thời ḥa hoăn. Tưởng
Giới Thạch ở Hoa Nam và Hoa Trung, Mao
Trạch Đông ở Hoa Bắc. Trung Hoa lại là
trụ cột của Đồng minh chống
Phát xít Nhật ở Châu Á nên trong thời gian này Hoa
Kỳ cử tướng Patrick K.Hurley làm Đại
sứ tại đây với nhiệm vụ ḥa giải
và giàn xếp một chính phủ liên hiệp
Quốc Cộng. Khi
Nhật đầu hàng, đích thân Mao Trạch Đông
đến Trùng Khánh gặp Tưởng Giới
Thạch thảo luận việc hợp tác xây dựng
đất nước. Hai bên đồng ư thành lập
một cơ cấu hành chánh và quân sự thống
nhất. Lúc bấy giờ, Hồng quân Liên Xô đang
chiếm đóng Măn Châu, theo tinh thần hội nghị
Potsdam th́ lănh thổ này được giao hoàn cho Trung
Hoa, do đó chính phủ Trùng Khánh cử Ngoại trưởng
Tống Tử Văn đi Liên Xô yêu cầu Hồng quân
Nga rút khỏi Măn Châu. Stalin đồng ư rút ba tháng sau
ngày Nhật đầu hàng. Khi
quân Liên Xô rút đi, bộ đội của Mao
Trạch Đông đến thay thế và cuộc
chạm trán xảy ra khi lực lượng Quốc quân
tiến vào Măn Châu. Đại sứ Hoa Kỳ tại
Trung Hoa lúc đó là tướng George C. Marshall cố
gắng vận động các phần tử Quốc
Cộng hợp tác trong một chính phủ liên
hiệp... Nhưng việc ḥa giải của Marshall
bất thành, Hoa Kỳ quyết định cắt
viện trợ và chấm dứt hợp tác với Trung
Hoa Cộng sản. Cuộc
nội chiến ở Trung Hoa bộc phát từ tháng
6/1946. Lúc đầu Hoa Kỳ yểm trợ đầy
đủ nên Quốc quân kiểm soát được
miền Bắc, nhưng càng ngày t́nh trạng thối nát
trong giới lănh đạo Trùng Khánh càng mạnh,
số vũ khí Hoa Kỳ viện trợ cho Quốc quân
lọt vào tay Cộng quân ngày càng nhiều. Đến
năm 1948, được Liên Xô giúp đỡ mạnh
mẽ Cộng quân bắt đầu tổng phản công,
Tưởng Giới Thạch yêu cầu Hoa Kỳ tăng
cường viện trợ nhưng không kết quả.
Ngày 20/8/l948, Trùng Khánh thất thủ, sau đó toàn
bộ Trung Hoa lục địa lần lượt rơi
vào tay Cộng sản. 5-
Vấn đề khuynh đảo và dấy loạn
của cộng sản:
Vấn đề thực sự thách thức Hoa Kỳ là
việc Liên Xô không ngần ngại xử dụng
bạo lực tại những nơi nào họ cảm
thấy không thao túng được guồng máy chính
trị làm lợi cho họ, điển h́nh là tại
Ba Lan và Tiệp Khắc. Năm 1947, Quốc tế
Cộng sản công khai kêu gọi các phần tử
bất măn, các lực lượng đối lập và
các đảng cộng sản khắp nơi trên
thế giới phát động chiến tranh du kích và
đ́nh công phá hoại. Tại Âu châu, nhiều
cuộc đ́nh công lớn do cộng sản sách động
làm ngưng trệ nhiều ngành sản xuất lớn
như than đá, xây dựng và vận chuyển,
trầm trọng nhất là tại Anh, Pháp, Ư. Đối
với những nơi thuận lợi như Hy Lạp,
Quốc tế Cộng sản tích cực ủng hộ
và yểm trợ các cuộc nổi loạn của du kích
cộng sản chống lại chính quyền trung
ương ở Athène. Chính phủ Anh không đủ
khả năng bảo vệ phần đất ảnh hưởng
của ḿnh nên báo cho Hoa Kỳ biết họ sẽ
chấm dứt mọi sự giúp đỡ cho Hy Lạp
từ cuối tháng 3/1947. Chính
phủ Hy Lạp vội cầu cứu Hoa Kỳ, Hoa
thạnh Đốn phản ứng một cách quyết
liệt, ngày 12/3/1947 TT Truman ra trước hai viện
Quốc hội tŕnh bày t́nh trạng khẩn trương
tại Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Theo Truman,
những hành động xâm lược nhằm áp đặt
chế độ độc tài lên các dân tộc
tự do là một sự thách đố, bắt
buộc Hoa Kỳ phải trả lời. Ông nói: "Hoa
Kỳ đă đóng góp 341 tỉ đô la để
chiến thắngtrong Thế chiến II, đó là sự
đầu tư cho Thế giới tự do và ḥa b́nh", nay
ông "chỉ xin Quốc hội một phần mười
của một phần trăm số tiền đầu
tư đó để tài trợ Hy Lạp và Thổ Nhĩ
Kỳ bảo vệ tự do, duy tŕ an ninh ở Trung
Cận Đông". Truman
đoan quyết trước Quốc hội trong bài
diễn văn lịch sử 12/3/1947: "Tôi tin
rằng chánh sách
của Hoa Kỳ phải là nâng đỡ các dân
tộc tự do chống lại những mưu toan
thống trị do các phần tử thiểu số có vũ
trang hoặc các áp lực từ bên ngoài gây ra... Các dân
tộc tự do trên thế giới nh́n về chúng ta
để t́m một chỗ dựa để giữ ǵn
tự do của họ, nếu chúng ta do dự trong vai tṛ
lănh đạo của chúng ta, chúng ta sẽ làm cho
nền ḥa b́nh thế giới bị lâm nguy và chắc
chắn cuộc sống êm ả của chúng ta bị lâm
nguy".(5) Đây
là lời cam kết đầu tiên của Hoa Kỳ
trong tư thế lănh đạo Thế giới Tự
do, mở màn trận chiến
mới chống chế độ độc tài vô
sản khuynh đảo. Dự luật viện trợ
cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ được
Quốc hội Mỹ thông qua với 67 phiếu
thuận trên 23 phiếu chống, với sự có
mặt của ba vị tổng thống sau này là John F.
Kennedy (1917-1963), Lyndon B. Johnson (1908-1973) và Richard M. Nixon
(1913-1994). Quyết
định can thiệp của Tổng thống Truman
về sau được gọi là Chủ thuyết
Truman, theo Thượng nghị sĩ Arthur Vanderberg,
Chủ tịch Ủy ban đối ngoại của Thượng
viện Hoa Kỳ, có nghĩa là Mỹ "sẽ
ủng hộ tất cả các dân tộc tự do
chống lại các ư đồ xâm lược của các
nước khác" hoặc như lời nhận xét
của Thượng nghị sĩ Edwin Johnson: "đó
là sự tuyên chiến với Liên Xô". (6) Qua
các vấn đề nghiêm trọng trên đây, sự
hợp tác Nga Mỹ đi dần đến sụp
đổ thay thế bằng chính sách đối đầu
tuy không đưa đến chiến tranh thế
giới thứ ba, nhưng quan hệ hai nước luôn
đặt trong t́nh trạng chiến tranh lạnh.
Hai bên thi đua tái vũ trang, tăng cường quân
sự và lôi cuốn nhiều nước khác vào
cuộc đối đầu. Tháng
9/1949, Liên Xô cho thử quả bom nguyên tử đầu
tiên, chấm dứt sự độc quyền của
Hoa Kỳ về vũ khí hạt nhân. Hoa thạnh Đốn
quyết định chế tạo bom khinh khí, 6 tháng sau
họ đă thử nghiệm thành công loại vũ khí
mới này. Đến tháng 8/1953, Liên Xô đă có bom
khinh khí. Ngân
sách quốc pḥng và lực lượng quân sự
của Hoa Kỳ cho đến đầu năm 1950
chỉ giới hạn ở con số 15 tỉ đô la
và khoảng 1 triệu binh sĩ... Nhưng từ khi
chiến tranh Triều Tiên bộc phát, ngân sách quân
sự đă gia tăng gấp 4 lần và lực lượng
vũ trang lên đến 3,5 triệu người. Tháng
3/1948, sau khi cộng sản chiếm chính quyền ở
Tiệp Khắc, phong tỏa Tây Bá Linh và h́nh thành
khối COMINFORM, Hoa Kỳ tái lập chế độ quân
dịch mà họ đă hủy bỏ năm trước. Tại
Âu châu, 5 nước Pháp, Anh, Ḥa Lan, Bỉ và Lục Xâm
Bảo vội vă kư Hiệp ước An ninh tập
thể Bruxelles để đối phó với bất
cứ hành động xâm lược vũ trang nào
ở Châu Âu". "Bóng ma cộng sản" đă
thực sự ám ảnh Tây Âu, giờ đây họ có
hai mối lo: sợ Liên Xô tấn công và sợ quân
Mỹ rút đi. Tháng
4/1949, Hoa Kỳ và Gia Nă Đại cùng 10 nước Âu
châu thành lập Minh ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO) nhằm đề pḥng sự đe dọa chủ
yếu cho ḥa b́nh phát khởi từ Liên Xô trong mưu
đồ mở rộng hệ thống xă hội
chủ nghĩa ra khỏi biên giới Đông Âu. Điều
khoản quan trọng nhất của Minh ước xác
định rơ: "Một cuộc tấn công vũ
trang vào một hoặc nhiều nước trong
những quốc gia hội viên tại Âu châu hoặc
Bắc Mỹ sẽ bị coi như một cuộc
tấn công vào toàn thể các quốc gia hội viên".
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa
Kỳ, họ đă kư kết một hiệp định
để nhận lănh trách vụ quân sự tại Âu
châu ngay trong thời b́nh. (7) Trong
thời gian này, do cán cân lực lượng Nga Mỹ
quá chênh lệch nên Stalin cố tránh đương
đầu trực tiếp với Hoa Kỳ. Ông lợi
dụng thời gian ḥa hoăn càng lâu càng tốt để
củng cố hệ thống xă hội chủ nghĩa
thế giới vừa được h́nh thành và ra
sức tái thiết phần đất phía tây tiếp
giáp Âu châu bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nơi
đây nhân dân Liên Xô phải tận lực thắt lưng
buộc bụng xây dựng hơn 7 năm mới khôi
phục lại được mức sản xuất như
thời tiền chiến, cả đến khu vực
Bắc Á, phần đất duy nhất khác mà Liên Xô có
mặt với những lời cam kết cũng phải
xếp vào mức quan trọng thứ yếu. Sau
khi Mao Trạch Đông nắm quyền tại Hoa
lục, Stalin tin tưởng ở guồng máy lănh đạo
và tinh thần đoàn kết quốc tế của
khối Cộng sản nên tạm chấp nhận
một sự phân công: Liên Xô phụ trách Châu Âu, giao
Trung Cộng phụ trách khu vực Châu Á. Để
chống lại các nước liên kết với Hoa
Kỳ hoặc các nước không cộng sản khác,
Stalin cổ vũ chiến tranh giải phóng, thúc đẩy
các hoạt động lũng đoạn và kêu gọi
các "đồng chí Quốc tế Cộng
sản" đă được huấn luyện ở
Mạc tư Khoa hoặc Hoa Lục dấy lên các phong trào
chiến tranh du kích bằng tất cả phương
thức nào sẵn có kể cả chiến tranh qui ước
để chận đứng kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc Mỹ. Ba
mươi năm sau ngày Quốc tế Cộng sản
được thành lập, trong một chiến
dịch đại qui mô kết hợp tinh thần yêu nước
của các dân tộc thuộc địa với tinh
thần quốc tế vô sản, giới lănh đạo
ở Điện Cẩm Linh phát động các cuộc
chiến tranh giải phóng nhằm chống lại Tây phương
và đặc biệt là Hoa Kỳ. Cộng sản
Triều Tiên và Trung Quốc đă phải trả
một giá khá đắt khi đáp ứng lời kêu
gọi của Stalin trong khi chính Liên Xô lại lẩn tránh
đụng độ với Hoa Kỳ trong cuộc đọ
sức đầu tiên giữa hai thế giới đối
lập, để củng cố lực lượng, bành
trướng ảnh hưởng của ḿnh sau này. Chiến
tranh Triều Tiên khiến Hoa Kỳ chấm dứt
việc chiếm đóng Nhật Bản trước
kỳ hạn. Ngoài ba hiệp ước an ninh song phương
mà Mỹ kư kết với Nhật, Phi Luật Tân và
Đài Loan, nền an ninh hỗ tương trong khu
vực Á châu/Thái b́nh Dương c̣n được tăng
cường thêm bằng Hiệp ước pḥng thủ
chung được Hoa Kỳ, Tân Tây Lan và Úc Đại
Lợi kư kết tại Honolulu tháng 8/1951 đưa
đến việc thành lập khối ANZUS. Lê
Quế Lâm CHÚ
THÍCH 1.
H. Montgomery Hyde, “Stalin -The History of a Dictator”, Rupert
Hart-Davis, London, 1971, P. 551. 2.
Henry Steele Commager, “Documents of American History, Vol II: Since
1898”, Prentice Hall, Inc, New Jersey, 1973, P. 542/543. 3.
H Montgomery Hyde, “Stalin - The History of a Dictator”,
Rupert Hart-Davis, London, 1971, P. 558. 4.
Paul Hasting, “The Cold War”, Ernest Benn Limited, London,
1969, P.31. 5.
Harry Truman, “Memoirs”, Doubleday & Co, Garden City,
1955, Vol II, P. 106. 6.
André Fontaine, “History the Cold War: From the October Revolution to
the Korean War 1917-1950”, Pantheon Books, 1968, P.293. 7.
Henry Steele Commager, Sđd. Tr. 549. |