Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
9_1) Lê
Quế Lâm |
Thảm
họa chiến tranh Chiến
tranh Đông Dương lần I (1946-1954): Đất
nước chia đôi Chương
9 Trung
Cộng: Chiến
tranh Triều Tiên và Chiến tranh Đông Dương I Song song với
việc h́nh thành hai thế giới đối lập
Tự Do (Hoa Kỳ) và Cộng Sản (Liên Xô) trong
Chiến tranh lạnh là sự ra đời của
một cường lực mới ngoi lên là Trung Hoa
Cộng sản gọi tắt là Trung Cộng hoặc
Trung Quốc. Sau chiến thắng
Hoa Lục năm 1949, Đảng Cộng sản Trung
Quốc muốn trở thành lănh tụ của Phong trào
Cách mạng vô sản ở Phương Đông. Do
vị trí đặc biệt của một khu vực có
nhiều thuộc địa và cuộc đấu tranh
giành độc lập đang bộc phát mạnh
mẽ, Mao Trạch Đông hy vọng thời cơ đă
đến để cùng các “đồng chí” lănh
đạo các đảng cộng sản ở đây
thực hiện con đường mà Lenin và Quốc
tế III đă vạch ra từ năm 1919 tại Đại
hội đại biểu các tổ chức Cộng
sản Đông phương: “Cách mạng giải phóng
dân tộc là một bộ phận của Cách mạng
vô sản sẽ quyết định số phận
của chủ nghĩa đế quốc thế giới”. Cách mạng Trung
Quốc thắng lợi một cách nhanh chóng không
giống thắng lợi ở Đông Âu do Liên Xô
sắp đặt đă chứng minh cho luận
thuyết của Lenin “trong thời đại chủ
nghĩa đế quốc có thể tiến hành cách
mạng xă hội chủ nghĩa trong từng nước
riêng biệt”, trái với lập luận của nhóm
cơ hội trong Quốc tế Cộng sản thường
cho rằng: “Cách mạng vô sản chỉ có
thể thắng lợi khi tiến hành đồng
loạt trong một số nước phương Tây”.
Lư luận này đă ảnh hưởng lớn đến
đường lối chiến lược của Mao
Trạch Đông. Sáu
tháng trước ngàycách mạng Trung Quốc thắng
lợi, Edgar Snow -nhà báo phương Tây, bạn thân
của Mao Trạch Đông- cho đăng trên tạp chí Tin
Trung Quốc hàng tuần ở Thượng
Hải bài xă luận "Liệu Trung Quốc có
trở thành tay sai của Nga hay không?". Snow tiên
liệu "Bắc Kinh rốt cuộc có thể
trở thành một kiểu Moscow châu Á, một kiểu
thành phố La Mă phương Đông có trách nhiệm
truyền bá chủ nghĩa Mác Châu Á ngoài tầm
kiểm soát của Moscow". (1) Edgar
Snow đă tiên liệu đúng. Đường lối
chiến lược của Mao là lấy sức mạnh
của chiến tranh nhân dân làm đ̣n xeo, lấy
sức mạnh của đông đảo nông dân làm quân
chủ lực, lấy khu vực rộng lớn của
vùng rừng núi nông thôn làm căn cứ địa
để bao vây thành thị và tiến tới giành toàn
bộ chính quyền. Mao quyết tâm ủng hộ các
đảng Cộng sản anh em ở các nước nông
nghiệp Đông Á h́nh thành sức mạnh của Phong
trào vô sản ở phương Đông, lấn phe Xă
hội chủ nghĩa ở phía Tây. Tham vọng của
Mao là tranh quyền lănh đạo Cách mạng thế
giới với Liên Xô để đương đầu
với chủ nghĩa đế quốc do Mỹ lănh
đạo trong ước mơ “gió Đông sẽ
thổi bạt gió Tây” (2) Để
thực hiện ư đồ này, giới lănh đạo
Bắc Kinh ra sức ủng hộ "đồng chí"
Kim Nhật Thành "viện Triều đánh Mỹ"
bất kể tinh thần hiệp định Potsdam. Và
ở phía Nam, họ công nhận chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng ḥa của Hồ Chí Minh, cho tới lúc
bấy giờ chính phủ này vẫn chưa được
một quốc gia nào công nhận kể cả Liên Xô,
chỉ trừ Pháp v́ liên hệ lịch sử đă kư
Hiệp ước Sơ bộ 6/3 và Tạm ước
14/9/1946. Mao ra sức chi viện dồi dào về nhân
vật lực cho "đồng chí" Hồ Chí Minh
chống thực dân Pháp giành độc lập cho
Việt Nam. Mưu
đồ bành trướng ảnh hưởng để
tranh quyền lănh đạo Thế giới cách mạng
của Mao Trạch Đông không qua mặt được
Stalin. Giữa tháng 2/1950 khi Mao đến Mạc tư
Khoa kư Hiệp ước hữu nghị Xô Trung
(14/2/1950), Stalin đă phân tích cho Mao thấy rằng
mục tiêu hàng đầu của Hoa Kỳ hiện nay là
dồn nỗ lực giúp Nhật tái thiết và phát
triển sau chiến tranh. Đối với bán đảo
Triều Tiên, Hoa Kỳ không có quyền lợi ǵ đáng
kể trên vùng đất bị chia cắt này nên đă
rút hết quân chiếm đóng từ tháng 7/1949. Thâm ư
của Stalin là muốn đẩy Mao nhảy vào
Triều Tiên để đọ sức với Mỹ.
Ngoài ra v́ tinh thần đoàn kết quốc tế vô
sản: Stalin giao cho Mao Trạch Đông phụ trách châu
Á, do đó Trung Cộng sẽ dốc sức ủng
hộ Hồ Chí Minh. Cuộc
chiến bùng nổ ở châu Á sẽ làm cho Trung
Cộng phải lệ thuộc vào Liên Xô, đồng
thời làm cho Mỹ suy yếu v́ vướng chân vào
cuộc chiến mới. Lợi dụng thời cơ này,
Liên Xô vừa củng cố lực lượng vừa
áp lực Hoa Kỳ ở châu Âu -địa bàn
chiến lược có tính chất quyết định
đối với hệ thống chủ nghĩa xă
hội thế giới do Liên Xô lănh đạo. Khi
về nước, Mao điều động gần
nửa triệu quân từ các tỉnh Hoa Nam và Hoa Trung kéo
về Măn Châu, áp
sát biên giới Triều Tiên. Năm năm sau ngày
Thế chiến II chấm dứt, nguy cơ chiến
tranh mới lại bày ra trước mắt các dân
tộc, xuất phát từ sự mâu thuẫn về
quyền lợi của các nước cộng sản,
trái với lập luận của Lenin cho rằng chính
những mâu thuẫn về quyền lợi của
bọn đế quốc là mầm móng gây ra chiến
tranh. Chiến
tranh Triều Tiên (1950-1953) Sau
khi Nhật đầu hàng, theo tinh thần Hội
nghị Yalta và Potsdam, Hồng quân Liên Xô và quân
đội Hoa Kỳ chia nhau chiếm đóng Triều Tiên lấy
vĩ tuyến 38 làm phân ranh. Ngày 26/8/l945, Hồng quân Liên
Xô đă tiến sát đến vĩ tuyến 38 trong khi
quân Mỹ măi đến ngày 8/9/1945 mới đổ
bộ vào phần đất phía Nam Cao Ly. Cuối
năm 1945, đai diện Liên Xô, Hoa Kỳ và Anh
Quốc gặp nhau tại Mạc tư Khoa,
họ chấp nhận thành lập chính phủ lâm
thời Triều Tiên đặt dưới sự
ủy trị của 4 cường quốc Anh, Mỹ,
Nga và Trung Hoa trong thời gian 5 năm. Ủy ban
hỗn hợp Nga Mỹ đă có nhiều cố
gắng để thống nhất Triều Tiên
nhưng v́ quan điểm hai bên có nhiều điểm
cách biệt, nhất là việc thực thi dân
chủ và tự do tại bán đảo này. V́ vậy
Triều Tiên vẫn tiếp tục bị phân
chia với vùng nông nghiệp ở phía Nam và vùng kỹ
nghệ ở phía Bắc. Tháng
7/1947 sau những cố gắng bất thành, Hoa Kỳ không
c̣n hy vọng giải quyết vấn đề
Triều Tiên bằng con đường đàm phán tay
đôi với Liên Xô nên quyết định
giao vấn đề này cho Liên Hiệp Quốc giải
quyết. Trong khi đó Liên Xô đề
nghị quân đội hai nước chiếm đóng
đồng rút ra khỏi bán đảo này. Tháng
11/1947 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
thông qua quyết định thành lập một
ủy ban lâm thời để giải
quyết vấn đề Cao Ly. Ủy ban sẽ tổ
chức một cuộc tuyển cử tự do
để thành lập chính phủ thống nhất
Triều Tiên. Quân chiếm đóng sẽ rút
khỏi Cao Ly sau khi chính phủ dân sự thành h́nh.
Đầu năm 1948, một ủy ban của
Liên Hiệp Quốc được cử đến Hán
Thành (Seoul) giám sát cuộc bầu cử
Quốc hội Lập hiến. Liên Xô từ chối không
cho ủy ban này vào khu vực do họ chiếm
đóng. Tháng
5/1948, trong phiên họp đầu tiên, Quốc hội
Lập hiến Nam Triều Tiên đưa ra đề
nghị mời chính quyền Cộng sản miền
Bắc cử đại biểu tham dự. Lời
mời không được trả lời. Tháng 8/1948
Quốc hội Nam Triều Tiên tuyên bố thành lập
nước Cộng ḥa Triều Tiên (tức Đại
Hàn Dân Quốc) cử Bác sĩ Lư Thừa Văn (Syngman
Rhee) làm tổng thống. Tháng sau tại Pyongyang (B́nh Nhưỡng)
Hội đồng Nhân dân Tối cao Triều Tiên ra
đời, nước Cộng ḥa Nhân dân Triều Tiên
(Bắc Hàn) được thành lập dưới
sự lănh đạo của một chiến sĩ
Cộng sản là Kim Nhật Thành (Kim Il Sung). Cuối
năm 1948, Đại Hội đồng Liên Hiệp
Quốc biểu quyết thu nhận Cộng ḥa Triều
Tiên vào Liên Hiệp Quốc. Đại biểu Liên Xô
cũng đưa đề nghị thu nhận Bắc Hàn
vào tổ chức quốc tế này. Đề nghị
của Liên Xô không được đa số ủng
hộ, Liên Xô liền dùng quyền phủ quyết không
cho Đại Hàn gia nhập Liên Hiệp Quốc. Đến
giữa năm 1949, sau khi quân đội Liên Xô và Hoa
Kỳ hoàn toàn chấm dứt việc chiếm đóng
Triều Tiên, những cuộc giao tranh bắt đầu
xảy ra dọc theo vĩ tuyến 38. T́nh h́nh càng
trở nên căng thẳng khi Trung Cộng chuyển quân
ào ạt áp sát biên giới Măn Châu-Triều Tiên. Tháng
5/1950, Ủy ban Liên Hiệp Quốc báo động
một cuộc nội chiến có thể xảy ra
bất cứ lúc nào. Cuối
tháng 5/1950, phe ôn ḥa thắng lớn trong cuộc
tuyển cử ở Đại Hàn, cánh cực hữu
của Lư Thừa Văn mất đa số ghế ở
Quốc hội. Nhân dịp này chính quyền Cộng
sản ở miền Bắc đưa ra đề
nghị Quốc hội hai miền Nam Bắc họp chung
để thương lượng việc thống
nhất đất nước, nhưng họ không
chịu đàm phán với chính phủ Lư Thừa Văn.
Lợi dụng sự yếu thế của Lư Thừa Văn,
Cộng quân bắt đầu mở cuộc xâm lăng. Sáng
sớm 25/6/l950, 8 sư đoàn Cộng sản Bắc Hàn
bất thần mở ba mặt trận vượt vĩ
tuyến 38 tấn công 11 vị trí ở phía Nam. Ngay sau
đó tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman không kịp
tham khảo ư kiến Quốc hội, ra lịnh tướng
MacArthur tiếp vận chiến cụ khẩn cấp cho
Nam Hàn, và điều động Hạm đội 7 vào
eo biển Đài Loan để bảo vệ quần
đảo này. Đồng thời do đề nghị
của Ngoại trưởng Dean Acheson, Truman chỉ
thị Bộ Ngoại giao đưa vấn đề
Bắc Hàn xâm lăng ra Hội đồng Bảo An. Ông
tuyên bố: "Cuộc tấn công vào Cao Ly cho
thấy không c̣n ai nghi ngờ ǵ nữa là sau khi đă
dùng sự dấy loạn, bây giờ Cộng sản
trắng trợn dùng đến cả xâm lăng vơ
trang và chiến tranh nữa". (3) Buổi
chiều cùng ngày, do yêu cầu của Tổng thư kư
Liên Hiệp Quốc Trygve Lie, Hội đồng Bảo
An nhóm phiên đặc biệt. Hội Đồng thông
qua bản quyết nghị "ḥa b́nh đă bị phá
vỡ tại Hàn quốc" và kêu gọi hai bên
ngừng bắn, triệt thoái quân Bắc Hàn ra khỏi
vĩ tuyến 38. Hai hôm sau, Hội Đồng Bảo An
thông qua một quyết nghị nữa kêu gọi các
quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc đến
cứu nguy Nam Hàn. Sau lời kêu gọi của Hội
đồng Bảo An, có 42 quốc gia tự nguyện
gởi quân hoặc tiền bạc đóng góp cho nỗ
lực quốc tế tại Nam Cao Ly để ngăn
chặn sự xâm lăng của Cộng sản Bắc
Hàn. (4) Trong
khi t́nh h́nh Triều Tiên sôi động, Mạc tư
Khoa không ngớt kêu gọi "các nước anh em
ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng tổ
quốc của nhân dân Triều Tiên"... Nhưng
tại Liên Hiệp Quốc, phái đoàn Liên Xô lại
im lặng, v́ trước đó họ quyết định
tẩy chay Hội đồng Bảo An để
phản đối các thành viên khác về vấn đề
Bá Linh. Dựa vào đó, Liên Xô vắng mặt có lư do
để tránh lâm vào một t́nh huống khó xử.
Nếu bỏ phiếu thuận cho quân Liên Hiệp
Quốc -90% là quân Hoa Kỳ- can thiệp vào Triều Tiên,
Liên Xô không những đă phản bội Trung Cộng
mà c̣n đi ngược chủ đích của ḿnh
muốn có một cuộc đụng độ giữa
Trung Cộng và Hoa Kỳ. Nếu dùng quyền phủ
quyết, th́ phản bội tinh thần Hiến chương
Liên Hiệp Quốc và nhất là phá hoại sự
thỏa thuận với Hoa Kỳ về việc phân chia
ảnh hưởng ở Triều Tiên. Ngày
30/6/1950, hưởng ứng lời kêu gọi của
Hội đồng Bảo An, những đơn vị
đầu tiên của Hoa Kỳ do tướng MacArthur
chỉ huy gồm 4 Sư đoàn thuộc Quân đoàn 8
trú đóng ở Nhật đă mở đầu
cầu đổ bộ lên Pusan giúp chính phủ Lư
Thừa Văn chống xâm lăng. Tiếp theo Hoa Kỳ là
2 ngàn quân thuộc Lữ đoàn 27 bộ binh Hoàng gia
Anh cùng lực lượng 14 nước thành viên Liên
Hiệp Quốc. Trong
thư gởi ngoại trưởng Dean Acheson, Truman
cảm ơn hành động của ông này đă kêu
gọi Hội đồng Bảo An triệu tập
cuộc họp khẩn cấp, "nếu ông không
hành động nhanh chóng trong hướng đó th́ chúng
ta đă phải đi một ḿnh vào Nam Triều Tiên".
Ngay sau khi loan báo đưa quân tới Triều Tiên,
Truman chỉ thị đại sứ Mỹ tại các nước
tự do giải thích rơ lập trường của Hoa
Kỳ: "Chúng ta coi t́nh thế tại Triều Tiên
là biểu tượng sinh tử cho sức mạnh và
sự cương quyết của Tây phương.
Chỉ có sự cương quyết mới chận
được các biến cố mới tại
những phần khác trên thế giới... Nếu chúng
ta thành công tại Cao Ly để diệt nguy cơ
tại đó th́ nó chính là chiến thắng thứ tư
của chúng ta để chận sự xâm lăng
của Cộng sản. Tại Ba Tư năm 1946, Xô
Viết phải rút quân khởi xứ này. Tại Bá
Linh năm 1948, Xô Viết lại thất bại khi chúng
ta lập cầu không vận cứu sống dân Đức
tại đó. Sau đó tại Hy Lạp nhờ viện
trợ của chủ thuyết Truman, mưu đồ
của Cộng sản để cướp chính
quyền tại đó đă đại bại". (5) Theo
quyết định của Hội đồng Bảo
An, lực lượng Liên Hiệp Quốc tham chiến
ở Triều Tiên có một Bộ chỉ huy đặt
dưới sự điều động của Hoa
Kỳ. Tướng MacArthur được Truman bổ
nhiệm làm Tổng tư lịnh Quân đội Liên
Hiệp Quốc ở Triều Tiên. Sau
hai tháng tấn công, quân Cộng sản Bắc Hàn đă
chiếm toàn bộ bán đảo Cao Ly, chỉ trừ
khu vực Pusan, nơi quân Liên Hiệp Quốc mở
đầu cầu đổ quân. Giữa tháng 9/1950,
Lực lượng Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên bắt
đầu phản công, phối hợp với lực lượng
Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên Inchon, tái
chiếm thủ đô Hán Thành vào ngày 25/9/1950. Đến
cuối tháng, quân Liên Hiệp Quốc đă tiến sát
vĩ tuyến 38, MacArthur kêu gọi Cộng quân hạ vũ
khí, nhưng không kết quả. Trong khi đó Đại
Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua một
quyết nghị trù liệu kế hoạch thống
nhất Triều Tiên trong độc lập dân chủ,
và thành lập một ủy ban quốc tế xúc
tiến việc thống nhất và phục hưng nước
này. Kế hoạch của Liên Hiệp Quốc cũng
bất thành. Ngày
9/10/l950, MacArthur hạ lịnh vượt vĩ tuyến
38. Sau ba tuần lễ, quân Liên Hiệp Quốc đă
tiến đến biên giới Măn Châu, tiếp cận
một vài mục tiêu trên sông Áp Lục (Yalu). Trong lúc
tướng MacArthur chuẩn bị một đợt
tổng tấn công để chấm dứt cuộc
chiến Triều Tiên, th́ Chí nguyện quân Trung Cộng
can thiệp, đẩy lui quân Liên Hiệp Quốc
về vĩ tuyến 38. Đến đầu năm
1951, Hán Thành lại lọt vào tay Cộng quân. Ủy
ban hưu chiến Liên Hiệp Quốc đề
nghị một kế hoạch ḥa b́nh 5 điểm cho vùng
Viễn Đông nhưng bị Bắc Kinh bác bỏ. Hoa
Kỳ liền đưa ra bản dự thảo
nghị quyết lên án Trung Cộng là thủ phạm xâm
lăng Nam Hàn. Nghị quyết được Đại
Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày
1/2/51. Sau đó một nghị quyết khác cũng
được thông qua, Đại Hội đồng Liên
Hiệp Quốc yêu cầu các nước thành viên phong
tỏa và cấm vận Trung Cộng. Giữa
tháng 3/1951, sau khi quân Liên Hiệp Quốc tái chiếm Hán
thành, tướng MacArthur đề nghị một
cuộc đàm phán tại mặt trận để
chấm dứt cuộc đổ máu nhưng bị
Bắc kinh khước từ. Tướng MacArthur trong
quyền hạn Tổng tư lệnh Quân đội Liên
Hiệp Quốc được quốc tế giao phó
nhiệm vụ văn hồi ḥa b́nh và duy tŕ an ninh ở
Cao Ly, ông muốn xử dụng sức mạnh để
quét sạch Cộng quân ra khỏi Bắc Hàn, thực
hiện sự thống nhất Hàn quốc theo nghị
quyết của Đại Hội đồng Liên
Hiệp Quốc. (6) Ngoài ra trong cương vị Tư lịnh
Quân đội Hoa Kỳ ở Viễn Đông, MacArthur
đề nghị Truman trừng phạt nặng nề
kẻ gây chiến bằng cách dùng bom nguyên tử
chiến thuật tiêu diệt tiềm lực chiến
tranh của Trung Cộng ở Măn Châu, đồng
thời tiêu diệt luôn Trung Cộng, tạo cơ
hội giúp quân Tướng Giới Thạch đổ
bộ tái chiếm lục địa. Theo MacArthur "đây
là cơ hội vô cùng thuận lợi cho Thế
giới tự do để trừ mối hoàng họa
cho toàn thể nhân loại". (7) Quan điểm
thuần túy quân sự của MacArthur hoàn toàn trái ngược
với chính sách của chính phủ Hoa Kỳ ở
Viễn Đông. Truman gọi đề nghị của
MacArthur là "toa thuốc đưa đến thế
chiến III". (8) Hoa Kỳ chỉ
muốn tái lập nguyên trạng những ǵ đă
được quốc tế thỏa thuận thời
tiền chiến. Sự can thiệp của họ
chỉ nhằm ngăn chận chủ nghĩa Cộng
sản bành trướng thêm nữa. Họ không
muốn mở rộng chiến tranh với Trung Cộng,
cố tránh khiêu khích Bắc Kinh nhưng áp dụng
những biện pháp cần thiết để Trung
Cộng phải e dè. Điều quan trọng hơn là
Hoa Kỳ không muốn xâm phạm vùng ảnh hưởng
của Liên Xô, họ không muốn trực tiêp thách
đô uy tín của Xô Viết v́ Stalin đă đứng
ngoài cuộc xung đột, không bỏ phiếu ở
Hội đồng Bảo An. Nhằm chận
đứng hành động liều lĩnh vượt vĩ
tuyến 38 phản công lực lượng Cộng
sản một lần nữa, Truman cất chức
MacArthur và khẩn cấp triệu hồi ông ta về nước.
Trở về Mỹ, MacArthur được dân chúng
nồng nhiệt đón tiếp như một vị anh
hùng. Tướng Mathew
Ridgway được chỉ định thay thế.
Truman xác định mục tiêu của Hoa Kỳ ở
Triều Tiên là đẩy lực lượng Cộng
quân Bắc Cao Ly về phía trên vĩ tuyến 38, nghĩa
là trở lại lănh thổ của Bắc Tiều Tiên.
Ông cho biết Hoa Kỳ "có thể hành quân ở
bắc vĩ tuyến 38 nhưng chỉ để
hủy diệt các tiếp liệu phẩm, v́ tôi
muốn nói rơ để mọi người hiểu
rằng các cuộc hành quân của chúng ta ở Cao Ly là
để tái lập ḥa b́nh tại đó và cũng
để tái lập biên giới". (9) Cuối tháng 6/1951,
trong chương tŕnh phát thanh của Liên Hiệp
Quốc, đại diện Liên Xô đề nghị ngưng
bắn và hưu chiến để đàm phán, giải
quyết vấn đề Triều Tiên. Hai ngày sau, Truman
lên tiếng xác nhận Hoa Kỳ cũng có thiện chí
muốn dàn xếp như vậy. Tại mặt
trận, tướng Ridgway đề nghị đ́nh
chiến với viên Tư lịnh Lực lượng
Cộng quân. Đề nghị được phía
Cộng sản chấp nhận. Sau hai năm bàn thảo
gay go, vừa đánh vừa đàm, cuối cùng Hoa
Kỳ đe dọa sẽ dùng vũ khí nguyên tử
mới chấm dứt được cuộc chiến.
Thỏa hiệp đ́nh chiến Triều Tiên được
kư kết tại Bàn Môn Điếm (Panmunjom) ngày
27/7/1953. Hiệp định chỉ giải quyết
việc chấm dứt chiến sự và chia cắt
Triều Tiên theo vĩ tuyến 38 đă được
Đồng minh qui định năm 1945, mà không có
một điều khoản nào đề cập đến
việc thống nhất Triều Tiên. Chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất (1949-1954) Sau thắng lợi
năm 1949, giới lănh đạo Cộng sản ở
Hoa Lục hyvọng sẽ mở rộng ảnh hưởng
khắp khu vực Á châu. Nơi đây đă có hai
đảng Cộng sản giành được chính
quyền ngay sau khi Thế chiến II chấm dứt,
đó là Cộng sản Triều Tiên và Cộng sản
Việt Nam. Mao Trạch Đông tin tưởng với
chiến thuật biển người của đội
quân chủ lực khổng lồ của ḿnh, ông
sẽ giúp lănh tụ Cộng sản Bắc Hàn Kim
Nhật Thành kiểm soát toàn bộ bán đảo Cao Ly
và làm hậu thuẫn yểm trợ Hồ Chí Minh đánh
bại thực dân Pháp ở Đông Dương.
Tất cả không ngoài mục tiêu đạt cho
bằng được lợi ích chiến lược
của Mao là h́nh thành khối Cộng sản Đông Á
để cân bằng với Cộng sản Đông Âu.
Tham vọng của Mao là tranh quyền lănh đạo Cách
mạng thế giới với Stalin Để thực
hiện mưu đồ này, ngày 18/1/1950, chỉ hơn
3 tháng sau ngày thành lập, Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa là
nước đầu tiên trên thế giới công
nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và
đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ
Hồ Chí Minh. Ngay sau đó, Mao Trạch Đông công khai
ủng hộ Cộng sản Việt Nam, đặt hai
tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm hậu phương,
cung cấp lương thực, vũ khí, đạn dược
cho bộ đội Việt Minh. Bắc Kinh c̣n cử
một đoàn cố vấn hùng hậu do tướng
Vi Quốc Thanh phụ trách về quân sự và tướng
Lă Quí Ba phụ trách về chính trị sang giúp Việt
Minh tổ chức lại quân đội, kiện toàn
hệ thống thông tin, hậu cần và chỉnh đốn
tư tưởng cán binh theo đúng khuôn mẫu Trung
Cộng. Các đại đơn vị Việt Minh như
các Đại đoàn 304, 308, 316 và 320 được
lịnh vượt biên giới sang lănh thổ Trung
Quốc để tái huấn luyện và nhận trang
bị những loại vũ khí mới. (10) Việc Trung
Cộng thừa nhận nước Việt Nam Dân
chủ Cộng ḥa bắt buộc Liên Xô trong tư
thế lănh đạo khối Cộng sản phải
miễn cưỡng ủng hộ quyết định
của Bắc Kinh, nhất là v́ họ vừa kư
Hiệp ước hữu nghị với Trung Cộng
(14/2/1950). Lúc bấy giờ Liên Xô c̣n trong thời
kỳ củng cố thế lực nên Stalin chưa
muốn can dự vào những vấn đề lớn
của thế giới, đặc biệt là những
vấn đề có liên quan đến những thỏa
thuận mà ông đă long trọng kư kết với các
lănh tụ Anh Mỹ hồi năm l945. Theo đuôi
Bắc Kinh, ngày 30/l và các ngày đầu tháng 2/1950 Liên
Xô và các nước Cộng sản Đông Âu thừa
nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Nhận dịp này,
Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Đông Dương lớn tiếng cho rằng: "Hệ
thống Xă hội chủ nghĩa thế giới kéo dài
từ Đông Âu đến Đông Bắc Á sẽ
hỗ trợ đắc lực cho Cộng sản Đông
Dương -tiền đồn chống Đế
quốc ở Đông Nam Á". (11) Trước các
hoạt động ráo riết của khối Cộng
sản, Hoa Kỳ thúc hối chính phủ Pháp phê
chuẩn hiệp ước trao trả độc
lập cho Việt Nam mà Tổng thống Vincent Auriol
đă kư với Bảo Đại ngày 8/3/1949. Một ngày
sau khi Hiệp ước Élysée được Quốc
hội Pháp phê chuẩn, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Ḥa Lan, Úc
Đại Lợi, Tân Tây Lan và một số nước
Tây phương chính thức thừa nhận Quốc gia
Việt Nam vào ngày 7/2/l950. Sau đó là Thái Lan (2/3) và
Vatican ngày 12/3/1950. Chính quyền Truman
công nhận chính phủ Bảo Đại là chính
phủ hợp pháp của Việt Nam. Ngoại trưởng
Dean Acheson đề cao chính phủ này đă thể
hiện rơ nét “tinh thần quốc gia đích
thực” và cho rằng “ông Hồ Chí Minh là
kẻ thù không đội trời chung của nền
độc lập các nước bản xứ Đông
Dương”. (12) Song
song với nỗ lực ngoại giao, Hoa Kỳ c̣n
bắn tiếng với Bảo Đại là họ
sẵn sàng viện trợ giúp Quốc gia Việt Nam
chống Cộng sản nếu được yêu
cầu. Giữa tháng 2/1950,
đúng nửa tháng sau khi chính phủ Hồ Chí Minh
được Liên Xô và Trung Cộng cung cấp vũ
khí cho Việt Minh, Pháp chính thức yêu cầu Hoa
Kỳ viện trợ quân sự để bảo
vệ Đông Dương. Trong phiếu đệ tŕnh
tổng thống Truman, Ngoại trưởng Dean Acheson nêu
ư kiến: "Trước mắt Mỹ phải
lựa chọn hai điều, hoặc là ủng hộ
các chính phủ hợp pháp ở Đông Dương
hoặc là đương đầu với sự bành
trướng của chủ nghĩa Cộng sản
ở phần đất c̣n lại của lục địa
Đông Nam Á và có thể sang cả hướng Tây". (13) Hội đồng
An ninh Quốc gia Hoa Kỳ cũng khuyến cáo
chính quyền Truman mở rộng viện
trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương. Theo
quan điểm của Hội đồng An ninh
Quốc gia, sự viện trợ này "rất quan
trọng đối với lợi ích an ninh
của Mỹ, nên cần phải thực hiện
tất cả mọi biện pháp thực tế để ngăn
chận Cộng sản bành trướng thêm nữa
ở Đông Nam Á. Đông Dương là khu vực then
chốt và đang bị trực tiếp đe dọa. Các
nước láng giềng như Thái Lan và Miến Điện
có thể rơi vào ách thống trị của Cộng
sản, nếu Đông Dương bị một chính
quyền Cộng sản kiểm soát, cán cân ở Đông
Nam Á lúc đó sẽ gặp nguy cơ trầm
trọng". (14) Chính giới Mỹ
bắt đầu quan tâm đến sự bành trướng
thêm nữa của Cộng sản ở châu Á sau khi
nội chiến Trung Hoa chấm dứt với thắng
lợi của Mao Trạch Đông. Ngày 30/l2/1949, Truman
chấp nhận kế hoạch ngăn chận chủ
nghĩa Cộng sản ở châu Á do Hội đồng
An ninh Quốc gia soạn thảo với số hiệu
NSC 48/2. Theo đó, Hoa Kỳ "phải xem xét
sự phát triển của các mối đe dọa xâm lược
của Cộng sản trực tiếp hoặc gián
tiếp. Và phải sẵn sàng giúp đỡ trong
phạm vi của ḿnh bằng cách cung cấp viện
trợ quân sự, kinh tế, chính trị và góp ư cho
những nơi nào rơ ràng là cần thiết để
bổ sung cho sự kháng chiến của các chánh
phủ trực tiếp có liên quan ở trong và ngoài khu
vực". Phần kết luận của bản
khuyến nghị trên cho thấy Hội đồng An
ninh Quốc gia Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến
t́nh h́nh Đông Dương lúc bây giờ. (15) (C̣n
tiếp phần 2) Lê Quế Lâm |