Sử
Lược Việt Nam Thời Cận Đại 1920-2020 (Chương
9_2) Lê
Quế Lâm |
Phần
Hai Thảm
họa chiến tranh Chiến
tranh Đông Dương lần I (1946-1954): Đất
nước chia đôi Chương
9 (tiếp) Trung
Cộng: Chiến
tranh Triều Tiên và Chiến tranh Đông Dương I Hoa
Kỳ thực sự can thiệp vào Đông Dương
sau khi bản khuyến nghị của Hội đồng
An ninh Quốc gia số NSC 64 với tựa đề
"Quan điểm của Hoa Kỳ đối
với chiến tranh Đông Dương"
được TT Truman chấp thuận và kư ban hành ngày
24/4/1950. Bản khuyến nghị đề ra các
biện pháp thực tiễn được áp dụng
để ngăn chận sự bành trướng
của chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam
Á theo thuyết Domino. Thuyết
này phát khởi từ học thuyết Truman khi Hoa
Kỳ chính thức can thiệp để cứu Hi
Lạp khỏi lọt vào tay Cộng sản hồi năm
l947. Ngoại trưởng George C. Marshall lập luận
rằng Hi Lạp sụp đổ sẽ kéo nước
láng giềng Thổ Nhĩ Kỳ sụp đổ theo và
cuối cùng Liên Xô sẽ áp đặt ách thống
trị lên toàn thể các nước ở Trung Đông
và Châu Á. Tiếp theo đó là khuyến nghị NSC 68,
Hội đồng An ninh Quốc gia khuyến cáo chính
quyền Truman: "Phải cần xử dụng
sức mạnh quân sự để tiêu diệt
-nếu có thể được- sự bành trướng
của Xô Viết và -nếu cần- đánh bại Xô
Viết xâm lược hoặc các nước do Xô
Viết giật dây”. Ngày
8/5/1950, Hoa thạnh Đốn báo tin sẽ cung cấp
viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp ở
Đông Dương bắt đầu bằng một ngân
khoản l0 triệu đô la. Tuy nhiên đến ngày
25/6/ 1950 khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Truman
vẫn chưa ban hành đạo luật về viện
trợ quân sự cho Đông Dương. Ba ngày sau, do
sự thúc giục của ngoại trưởng Acheson,
TT Truman mới chấp nhận gia tăng quân viện cho
Pháp. Ngày 29/6/l950, đúng 4 tuần lễ trước
khi bản dự thảo luật về viện trợ
quân sự cho Pháp ở Đông Dương chính
thức trở thành luật, 8 vận tải cơ C-47
của Hoa Kỳ vượt Thái b́nh Dương
trực chỉ Đông Dương. Và trong 4 năm sau
đó, Hoa Kỳ đă chi gần 3 tỉ đô la để
giúp Pháp trong cuộc chiến Đông Dương. (16) Chiến
tranh Việt Pháp tiếp tục bùng nổ lớn càng
ngày càng đẩy t́nh thế ra khỏi tầm tay chính
phủ Pháp cũng như lực lượng kháng
chiến Việt Minh, trở thành cuộc chiến
giữa hai thế giới đối lập. Đầu
tháng 2/1950, Hồ Chí Minh đi Bắc Kinh và Mạc tư
Khoa cầu viện Mao Trạch Đông và Stalin viện
trợ vũ khí để chống Pháp, th́ năm 1951 tướng
Tổng chỉ huy lực lượng Viễn chinh Pháp
ở Đông Dương -De Lattre De Tassigny đi Mỹ
xin chiến cụ. Cố vấn Nga Tàu vào Việt Nam th́
cố vấn Hoa Kỳ cũng lên đường sang
Đông Dương. Để
thế giới Cộng sản tin tưởng và làm tṛn
nghĩa vụ quốc tế giúp các đảng anh em,
chính phủ Hồ Chí Minh phải chấm dứt t́nh
trạng mập mờ nghĩa là phải công khai đứng
hẳn vào trận tuyến cộng sản. Đảng
Cộng sản Đông Dương mà Hồ Chí Minh
giải tán hồi cuối năm 1945, đă hoạt
động trở lại với danh xưng Đảng
Lao Động Việt Nam sau khi Hồ Chí Minh triệu
tập Đại hội Đảng Cộng sản
Đông Dương lần thứ hai ở Tuyên Quang
hồi giữa tháng 2/1951. Trong
báo cáo chính trị đọc trước đại
hội, Hồ Chí Minh công khai thừa nhận: “Về
lư luận, Đảng Lao động Việt Nam theo
chủ nghĩa Mác-Lênin” và “lấy tư tưởng
Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam”. (17) Việc
Hồ Chí Minh xác nhận công khai theo chủ nghĩa Mác
Lê đưa đến một kết quả mà
Việt Minh không ngờ đến là trước đây
khi bắt đầu cuộc chiến tranh Việt-Pháp năm
1946, nhiều người yêu nước đă lên
đường kháng chiến, nay mới thấy rơ
bộ mặt cộng sản của Việt Minh, liền hồi
cư, trở về thành phố ngày càng đông,
để sống dưới chế độ quốc
gia do cựu hoàng Bảo Đại vừa thành lập
sau thỏa hiệp Élysée năm 1949. (18) Từ
năm 1951 hàng ngũ kháng chiến được
“giản chính" cho hợp với t́nh thế
mới: loại bỏ những phân tử không cộng
sản. Mặt khác tư tưởng Mao được
ghi vào điều lệ của đảng và sau đó
tất cả những cách làm ăn như chỉnh
huấn, tổ chức, cải cách ruộng đất...
của Việt Minh đều rập khuôn Trung Quốc,
do cố vấn Trung Cộng hướng dẫn. Bản
chính cương của Đảng Lao động
Việt Nam được Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ 2 thông qua hồi tháng
2/1951 xác nhận "Việt Nam là tiền đồn
của phe Xă hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á". (19) Trong khi đó tại Hoa Kỳ năm 1952, Hội
đồng An ninh Quốc gia ra tuyên bố "Bất
cứ xứ nào ở Đông Nam Á mất v́ sự xâm
lược của cộng sản cũng sẽ có
những hậu quả tâm lư, chính trị, kinh tế
nghiêm trọng. Nếu không phản công có hiệu
lực và kịp thời th́ việc mất bất
cứ xứ nào thôi chắc chắn cũng sẽ
đưa tới sự khuất phục tương
đối mau chóng hoặc một sự sắp hàng
với cộng sản của tất cả các nước
c̣n lại trong nhóm quốc gia này". (20) Khi
đắc cử tổng thống ngày 5/11/1952 đại
tướng Dwight Eisenhower tuyên bố rằng chiến
tranh Đông Dương không c̣n là chiến tranh
thuộc địa, mà là “cuộc chiến giữa
Cộng sản và Thế giới Tự do”. (21) Năm
1953, tướng Eisenhower đảm nhận trọng trách
lănh đạo Hoa Kỳ, ông tiếp tục chủ trương
ngăn chận cộng sản của vị tiền
nhiệm. Ông tuyên bố không thể để cho Đông
Dương rơi vào tay cộng sản v́ "chúng ta có
ở đó một loạt quân bài Domino, nếu
vắng đi một quân th́ chắc chắn các quân bài
kia sẽ rụng theo ngay". Vị tổng thống
thứ 34 của Hoa Kỳ (1953-1961) c̣n tái xác nhận:
"Mỹ cầm đầu Thế giới tự do
để chống cộng sản một cách toàn
diện, Mỹ cũng phải cầm đầu Thế
giới tự do tiến hành một cuộc chiến
đấu bằng cân năo con người, cuộc
chiến đấu ư thức hệ để chống
chủ nghĩa cộng sản". Việt
Nam đă chính thức trở thành nơi đọ
sức của hai hệ thống chính trị xă hội
thế giới đối lập h́nh thành sau Thế
chiến II. Một
bên là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa
của Hồ Chí Minh được Trung Cộng
trực tiếp chi viện, đàng sau là khối
Cộng sản Quốc tế do Liên Xô lănh đạo làm
hậu thuẫn nhằm phát động và ủng
hộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Thực chất của cuộc chiến này là thực
hiện mưu đồ xích hóa Đông Dương, bành
trướng chủ nghĩa cộng sản xuống vùng
Đông Nam Á. Một
bên là chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo
Đại, một quốc gia độc lập c̣n non
trẻ được khối Liên hiệp Pháp bảo
vệ, sau lưng là Hoa Kỳ đứng đầu
Thế giới Tự do làm hậu thuẫn. Mục
đích can thiệp của Hoa Kỳ là nhằm ngăn
chận sự thắng thế của cộng sản, v́
khi chiến thắng, cộng sản sẽ áp đặt
chế độ độc tài lên các nước
tự do. Ván
cờ Việt Nam được sắp xếp như
vậy, tang thương đổ nát tất nhiên là
phần nhân dân Việt Nam cùng nhau gánh chịu. Đóng
góp nhân vật lực là do chính phủ và quân đội
viễn chinh Pháp cũng như chính phủ và chí
nguyện quân Trung Cộng lo liệu. Thắng lợi th́
uy tín và ảnh hưởng của Liên Xô và Hoa Kỳ
càng mở rộng khắp thế giới. Đó là
thực chất của cuộc xung đột này,
một cuộc chiến chắc chắn lâu dài và đẫm
máu. Hai đại cường quốc đối
nghịch Nga và Mỹ đă đụng đầu nhau
tại Việt Nam. V́ thể diện và tư thế lănh
đạo, họ không thể chịu thua trong cuộc
đọ sức này. Các
thế lực quốc tế trong cuộc chiến Đông
Dương 1950-1954 Sau
khi Thế chiến II chấm dứt, Pháp hăm hở
trở lại khôi phục nền thống trị ở
Đông Dương nhằm lợi dụng nguồn nhân
lực và nguyên liệu dồi dào ở đây để
kiến thiết nước Pháp thời hậu
chiến. Đồng thời cũng để duy tŕ
ảnh hưởng của Pháp ở các nước
thuộc địa hầu giữ vững địa
vị cường quốc thế giới -một trong 5
thành viên thường trực Hội đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc... Nhưng Pháp không lường
trước sự phản kháng mănh liệt của nhân
dân Việt Nam cũng như áp lực của Hoa Kỳ
buộc Pháp phải nhượng bộ, trao trả
độc lập cho ba nước Đông Dương. Đối
với Pháp, cuộc chiến lần này sẽ không mang
lại những quyền lợi to tát như hồi
thế kỷ trước. Ngày nay chỉ v́ t́nh thế
bắt buộc, v́ danh dự và sự sống c̣n
của khối Liên hiệp Pháp nên Pháp phải đành
chịu một cuộc chiến đầy tốn kém và
tổn thất nhân lực đáng kể. Tính đến
cuối năm 1952, con số quân viễn chinh bị thương
vong và mất tích ở Đông Dương đă lên
đến 90 ngàn, và đă chi cho cuộc chiến này
gấp hai lần số tiền mà họ đă nhận
của Hoa Kỳ qua kế hoạch Marshall. (22) Hồi
kư của cựu Thủ Tướng Anh A. Eden nói về
thực trạng nước Pháp trong những tháng đầu
năm 1953 như sau: "Qua những tường tŕnh
của Đại sứ Oliver Harvey từ Paris gởi
về th́ tinh thần người Pháp đối
với chiến tranh Đông Dương càng ngày càng
tỏ ra bi quan. Ai cũng đều mong mỏi chấm
dứt chiến tranh, các sĩ quan cao cấp thuộc
Bộ tham mưu Pháp đă nhỏ to công nhận sự
rút lui không thể tránh được. Tất cả
vấn đề chỉ c̣n là làm thế nào để
bảo toàn danh dự nước Pháp mà thôi". Tại
Pháp, khủng hoảng chính trị bắt đầu, chính
phủ thay đổi liên tục, khuynh hướng
điều đ́nh mỗi ngày thêm rơ rệt, phong trào
phản chiến phát triển mạnh. Chính quyền
vốn đă chia rẽ về nhiều vấn đề
như Đức, Algérie, nay càng chia rẽ thêm trước
những khó khăn nghiêm trọng về chính trị,
kinh tế, xă hội do cuộc chiến Đông Dương
đem lại. Ngày
13/7/1953, hai tuần trước khi hiệp định
đ́nh chiến ở Triều Tiên được kư
kết, trong cuộc hội đàm Anh Pháp Mỹ ở
Hoa thạnh Đốn, Ngoại trưởng Georges
Bidault cho biết lập trường của Pháp là
muốn giải quyết vấn đề Đông Dương
như vấn đề Triều Tiên. Khi giao trách
nhiệm Tổng chỉ huy Lực lượng Viễn
chinh Pháp ở Đông Dương cho tướng Navarre,
Bộ trưởng Quốc pḥng Pháp nói: "Phải
chứng minh cho Việt Minh thấy rằng nếu như
chúng ta không thắng trong cuộc chiến tranh này th́
họ cũng không có hy vọng ǵ thắng ta bằng quân
sự, v́ vậy cần phải đàm phán". Đối
với Bắc Kinh, họ hy vọng lấy chiến
thắng ở Triều Tiên và Việt Nam đánh
bại chủ nghĩa đế quốc thực dân
để làm chiêu bài cổ vũ cho chiến tranh cách
mạng giải phóng dân tộc. Kết quả một
triệu binh sĩ thương vong trong trận chiến
Cao Ly và hiện đang sa lầy trong cuộc chiến
Việt Nam mà Trung Cộng là nước viện trợ
vũ khí và trang bị nhiều nhất cho Việt Minh. Đă
thấy rơ quyết tâm "trả đũa ồ
ạt" của Hoa Kỳ, Bắc Kinh thấy cần
phải t́m cách sớm thoát khỏi cuộc chiến này
với bất cứ giá nào. Ngày 24/8/1953 trong bài
diễn văn về Triều Tiên, Thủ tướng
Chu Ân Lai nói rằng: "Đ́nh chiến ở
Triều Tiên có thể dùng làm mẫu mực để
giải quyết các cuộc xung đột khác". (23) V́
tính toán sai lầm tạo ra một cuộc chiến vô
cùng tai hại cho quyền lợi quốc gia, nên Trung
Cộng cũng như Pháp liền điều chỉnh
chính sách. Họ sẵn sàng chấp nhận giải pháp
chia cắt ảnh hưởng ở Việt Nam cho hai nước
đàn anh Nga Mỹ, để họ sớm trút bỏ
gánh nặng và chấm dứt những phung phí vô ích v́
cuộc chiến này. Tháng
4/1954, trong cuộc họp chuẩn bị cho hội
nghị Genève, đại biểu Trung Cộng đă nói
thẳng với đoàn đại biểu Việt Minh và
Liên Xô: “Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa không thể
công khai giúp Việt Nam trong trường hợp cuộc
xung đột ở đây mở rộng". (24) Họ
muốn sớm giải quyết cuộc chiến Đông
Dương bằng con đường đàm phán ḥa b́nh. Francois
Joyaux, một học giả Pháp chuyên nghiên cứu
về chính sách đối ngoại của Bắc Kinh lúc
bấy giờ đă nhận định: "Việc
sắp mở các cuộc thương lượng
về Đông Dương đáp ứng hoàn toàn
lợi ích dân tộc của Trung Cộng. Nó tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giảm
bớt những căng thẳng ở Viễn Đông,
đó là điều cần thiết cho công cuộc phát
triển kinh tế của Trung Cộng. Ngoài ra c̣n
loại trừ được -nếu thương lượng
đi đến kết quả- nguy cơ can thiệp
ồ ạt của Mỹ vào cuộc xung đột,
tạo khả năng cho chính phủ Bắc Kinh chấm
dứt t́nh trạng bị phân biệt đối
xử ở Liên Hiệp Quốc mà họ là nạn nhân,
và c̣n làm nổi bật vai tṛ cường quốc
của nước Cộng ḥa Nhân dân Trung hoa trên sân
khấu quốc tế. Và cuối cùng tạo cơ
hội để Trung Cộng mở các cuộc thương
lượng về thương mại với phương
Tây". (25) Về
phần Liên Xô bất đắc dĩ phải can
dự vào cuộc xung đột quốc tế này, trong
khi họ cần tranh thủ thời gian ḥa hoăn để
hàn gắn vết thương chiến tranh và củng
cố sức mạnh. Đối với Liên Xô
chẳng có con đường nào tốt hơn là
"thỏa hiệp" với phương Tây để
sớm thoát khỏi t́nh trạng tấn thoái lưỡng
nan: bỏ mặc th́ thế giới Cộng sản tan nát,
dấn thân th́ chấp nhận thi đua với Hoa
Kỳ trong việc chi viện cho chiến cuộc Đông
Dương và có thể đưa đến chiến
tranh với Mỹ. Cả hai mặt -chi viện cho Đông
Dương và chiến tranh với Mỹ- Liên Xô đều
ở thế yếu so với Hoa Kỳ, v́ thế Liên Xô
tích cực ủng hộ giải pháp thương
thuyết. Một giải pháp không những giúp họ
giành được một nửa ảnh hưởng
ở Việt Nam mà c̣n tránh cho khối Cộng sản
khỏi phải đương đầu với
những khó khăn mới. Ngày
4/8/1953, một tuần sau khi hiệp định Bàn Môn
Điếm được kư kết, những người
kế vị Stalin đưa ra đề nghị
giải quyết cuộc xung đột ở châu Á
bằng con đường thương lượng.
Stalin chết ngày 5/3/1953. Bốn tháng sau, trong hội
nghị tứ cường Đồng minh về vấn
đề Bá Linh, ngoại trưởng Liên Xô Molotov
đề nghị với Anh Pháp Mỹ mời Trung
Cộng tham dự một phiên họp chung với 4 cường
quốc để giải quyết các vấn đề
căng thẳng của thế giới. Hoa Kỳ
chấp nhận sự có mặt của Trung Cộng
trong các hội nghị quốc tế nhưng chỉ
giới hạn vào khuôn khổ những vấn đề
có liên quan đến Viễn Đông mà thôi. Cuối
cùng bốn ngoại trưởng Anh, Pháp, Mỹ, Nga
đồng ư ngồi chung với đại biểu
Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa tại Genève để cùng
hai đại biểu Nam và Bắc Triều Tiên giải
quyết dứt khoát vấn đề Cao Ly. Và sau đó
cùng đại biểu ba nước liên kết Đông
Dương và Việt Minh thảo luận việc
ngừng bắn ở Đông Dương. Riêng
đối với Hoa Kỳ, họ chỉ có lợi khi
thấy kẻ thù dính líu vào cuộc chiến gần như
không lối thoát này. Liên Xô và Trung Cộng sẽ
phải nỗ lực viện trợ cho Việt Minh, do
đó sẽ hạn chế nhiều đến việc
kiến thiết và xây dựng để củng cố
sức mạnh nhằm làm chỗ dựa ủng hộ
các cuộc chiến tranh cách mạng, nên lúc đầu
Hoa Kỳ không chấp nhận đàm phán. Một văn
kiện của Hội đồng An ninh Quốc gia
hồi tháng 8/1953 cho biết "Trong điều
kiện hiện nay, mọi giải pháp thương lượng
đều có nghĩa là cuối cùng không những để
mất Đông Dương vào tay cộng sản mà c̣n
để mất cả Đông Nam Á. Mất Đông Dương
sẽ nguy kịch cho nền an ninh của Mỹ". (26) Trước
thái độ cứng rắn của Hoa Kỳ, ngoại
trưởng Anh Quốc Eden đưa ra sáng kiến
triệu tập Hội nghị Tam cường Tây phương
ở Paris để thống nhất hành động
ở Đông Dương, Trong hội nghị này, Hoa
Kỳ cho biết lập trường của ḿnh là
"không để cho vùng Đông Nam Á lọt vào tay
cộng sản, nhưng cũng không v́ khu vực này mà
làm bùng nổ thế chiến thứ ba". Đầu
tháng 3/1954, trong khi các cường quốc đă
thỏa thuận gặp nhau tại Genève để
giải quyết cuộc chiến Đông Dương
bằng đàm phán ḥa b́nh, th́ cộng quân gia tăng
áp lực uy hiếp Điện biên Phủ bằng
trọng pháo và sẵn sàng dùng chiến thuật
biển người tràn ngập tập đoàn cứ
điểm này. Việt Minh tung hết lực lượng
bao vây Điện biên Phủ với số quân gấp
4 lần quân Pháp trú pḥng tại đây, bất
chấp tổn thất sinh mạng của binh sĩ,
nhằm tạo chiến thắng quân sự gây sức
ép ở bàn hội nghị. Hoa
Kỳ lo ngại Trung Cộng có thể đưa Chí
nguyện quân tham chiến nên thông báo cho Pháp biết là
họ sẵn sàng can thiệp bằng lực lượng
quân sự. Một sự can thiệp mà Hoa Kỳ cho là
cần thiết v́ "nếu không có Mỹ giúp
đỡ, người Pháp có thể sẽ thương
lượng một cuộc bán đứng tại Genève
để thoát khỏi một cuộc chiến tranh
thất nhân tâm". (27) Ngày
16/4/1954, Phó tổng thống Nixon tuyên bố với
Hiệp hội chủ bút Hoa kỳ: "Mỹ có
thể gởi quân đội sang Đông Dương
nếu Pháp quyết định ngưng chiến".
Đồng thời Hội đồng An ninh Quốc gia
đệ tŕnh tổng thống Eisenhower một văn
kiện phản đối việc đàm phán để
giải quyết vấn đề Đông Dương
với nhan đề "Lập trường
của Mỹ đối với Đông Dương"
sẽ đưa ra tại hội nghị Genève. Hội
đồng An ninh Quốc gia c̣n đề nghị
Eisenhower báo cho Paris biết rằng "việc Pháp
chấp nhận cho cộng sản thôn tính Đông Dương
sẽ tác hại đến vị trí của Pháp là
một trong ba nước lớn của Tây phương
và viện trợ của Mỹ cho Pháp mặc nhiên
bị đ́nh chỉ". Hội đồng An ninh
Quốc gia c̣n khuyến cáo: "Mỹ phải xét
tới việc tiếp tục cuộc chiến cùng
với các nước Đông Dương nếu Pháp thương
lượng một giải pháp không thỏa đáng". (28) Để
cứu Điện biên Phủ, tướng Paul Ely -Tham mưu
Trưởng Quân đội Pháp đến Hoa thạnh
Đốn vận động Hoa Kỳ can thiệp
bằng không lực. Đô đốc Arthur W.Radford
-Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng
Liên quân Mỹ đề nghị xử dụng 60 oanh
tạc cơ B-.29 đồn trú ở Phi Luật Tân và
dự định ném ba quả bom nguyên tử nhỏ
để giúp Pháp giải tỏa áp lực cộng quân.
Đề nghị được ngoại trưởng
Foster Dulles và Phó tổng thống Richard Nixon ủng
hộ...Nhưng bị sự chống đối của
một số thượng nghị sĩ và dân biểu
có thế lực ở Quốc hội trong đó có thượng
nghị sĩ Lyndon Johnson. Họ chỉ chấp nhận
can thiệp nếu Đồng minh thân cận nhất là
Anh quốc chịu hợp tác với Mỹ trong nỗ
lực cứu Pháp ở Đông Dương. (29) Eisenhower
đă phái Radford và Dulles đến Luân Đôn tham
khảo và thuyết phục chính giới Anh, nhưng
thủ tướng Churchill và ngoại trưởng Eden
lại không muốn bị liên hệ với Hoa Kỳ vào
một cuộc chiến tranh mới. Churchill đă gay
gắt nói với Radford: “Anh Quốc đă không
chiến đấu để ở lại Ấn Độ
th́ họ không có lư do ǵ để chiến đấu
ở Đông Dương chỉ nhằm giúp Pháp ở
lại đó". Anh Quốc chủ trương
giải quyết cuộc chiến Đông Dương
bằng thương lượng, giúp Pháp t́m một
lối thoát danh dự. Churchill cam kết trước
Thứ dân Nghị viện là "Anh Quốc
sẽ không có một quyết định nào trước
khi hội nghị Genève có kết quả". (30) C̣n
ngoại trưởng Eden th́ cương quyết
gạt bỏ ư kiến can thiệp quân sự của ông
Dulles. Vấn đề này theo ông chỉ bàn đến
trong trường hợp hội nghị Genève thất
bại. Ngoại trưởng Anh c̣n gợi ư chia
cắt là giải pháp hiệu lực nhất để
giải quyết cuộc chiến tại đây. Sau
đó, Dulles đến Paris để thảo luận
với ngoại trưởng Pháp -Bidault trước khi
lên đường tham dự hội nghị Genève.
Dulles coi cuộc chiến tranh Đông Dương làm nguy
hại cho nền ḥa b́nh và an ninh của toàn vùng Đông
Nam Á và Tây bộ Thái b́nh Dương nên "cần
phải chấm dứt mau lẹ nhưng với điều
kiện là phải bảo đảm tự do và công lư
cho tất cả các dân tộc ở khu vực này..."
.Dulles nhấn mạnh thêm "nếu Bắc Kinh mưu
định giúp Việt Minh can thiệp vào chiến tranh
Đông Dương làm cho hội nghị thất
bại th́ Trung Cộng sẽ nhận một lời
cảnh cáo rất cương quyết của Hoa Kỳ". Lúc
bấy giờ Thủ tướng Ấn -Nehru một lănh
tụ uy tín của các nước trung lập cũng lên
tiếng yêu cầu các phe liên hệ ngưng bắn...
Nhưng chính giới Anh cho biết "không thể có
ngưng bắn nếu kế hoạch phân ranh chưa
được chấp thuận". Sau chuyến
viếng thăm Việt Nam trở về, thứ trưởng
Ngoại giao Hoa Kỳ Bedell Smith cũng thừa nhận
rằng "chỉ có sự chia cắt mới có
thể giải quyết được cuộc chiến
dai dẳng này, nhưng đó chỉ là lối giải
quyết tạm, khó lâu dài". Trước
việc chia cắt Việt Nam không thể nào tránh
khỏi, một giải pháp mà Hoa Kỳ cho là tạm
bợ chỉ nhằm xoa dịu các cường quốc
và sẽ tạo mầm móng xung đột sau này nên
ngoại trưởng Dulles không muốn dính líu đến
những quyết định do các cường quốc
sắp đặt. Ông chỉ đến Genève tham
dự hội nghị trong mấy ngày đầu và sau
đó để thứ trưởng Ngoại giao Bedell
Smith cầm đầu phái đoàn Mỹ. Ông yêu
cầu Eden -đồng Chủ tịch hội nghị
Genève (với Ngoại trưởng Molotov) thỏa
thuận với Liên Xô những biện pháp thỏa
đáng để giải quyết vấn đề
Đông Dương. Điều quan trọng của
giải pháp đó là phải bảo đảm tự
do và công lư cho các nước trong vùng. Từ
giữa tháng 4/1954, song song với những lời đe
dọa dùng sức mạnh can thiệp để thúc
đẩy cuộc đàm phán sớm kết thúc, Dulles
chỉ chú tâm vào việc thành lập Hiệp
ước pḥng thủ Đông Nam Á, lúc bấy
giờ được gọi là Hiến chương Thái
b́nh Dương. Ông nhấn mạnh: "Đông Nam
Á là vùng then chốt trong chiến lược của các
cường quốc Tây phương, đ̣i hỏi
một sự họp tác và hành động chung, chớ
không thể giao trong tay một cường quốc nào.
Trong trường hợp Pháp và Trung Cộng đi đến
một thỏa thuận chia cắt Đông Dương
th́ Minh ước pḥng thủ Đông Nam Á sẽ
được thành lập". Dulles hy vọng
tổ chức quân sự này sẽ ngăn chận
được mưu đồ bành trướng
của Trung Cộng, bảo vệ ḥa b́nh và an ninh
ở Đông Nam Á, v́ mục tiêu của Mỹ là để
tránh tham chiến ở đây. Ngày
7/5/1954, -hai ngày trước khi hội nghị Genève chính
thức thảo luận về vấn đề Đông
Dương, cứ điểm Điện biên Phủ
thất thủ, làm chấn động dư luận
thế giới. Tại Hoa thạnh Đốn, tổng
thống Eisenhower dự định ra trước
Quốc hội yêu cầu được can thiệp
bằng lực lượng quân sự với điều
kiện tiên quyết Pháp phải trao trả độc
lập thực sự cho các nước Đông Dương.
Ông coi đây là hành động cuối cùng để
cứu Đông Dương. Ngày
10/5, thủ tướng Pháp Joseph Laniel kêu gọi Hoa
Kỳ can thiệp để cứu Đông Dương.
Eisenhower họp khẩn cấp với Chủ tịch
Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân -Đô
đốc Radford, ngoại trưởng Dulles và bộ trưởng
Quốc pḥng Charles Wilson. Ông chỉ thị Bộ
Ngoại giao chuẩn bị sẵn một quyết
nghị để ông ra trước lưỡng
viện Quốc hội yêu cầu được
đưa binh sĩ Mỹ sang Đông Dương để
bảo vệ Đông Nam Á, đồng thời ra
lịnh Bộ Quốc pḥng thiết lập một
kế hoạch khẩn cấp cho việc can thiệp. Đô
đốc Radford đề nghị xử dụng bom nguyên
tử chiến thuật ở Điện biên Phủ,
kế hoạch đă được Eisenhower chấp
nhận nhưng bị thủ tướng Anh Churchill
cực lực phản đối nên phải hủy
bỏ. Ngoại trưởng Dulles c̣n kêu gọi Anh
hợp tác với Mỹ trong việc can thiệp
bằng lực lượng không quân để giúp Pháp
bảo vệ Việt Nam chống các lực lượng
Việt Minh được khối Cộng sản đỡ
đầu. Nội các Anh đă họp hai phiên khẩn
cấp vào một ngày chủ nhật để cứu
xét đề nghị của Mỹ. Ngoại trưởng
Eden đă thuyết phục nội các Anh bác bỏ
kế hoạch can thiệp của Mỹ, ông lập
luận rằng nếu không xử dụng bộ binh th́
sự can thiệp bằng không quân không thể nào thành
công được. Ngày
20/5/1954, trong kiến nghị gởi bộ trưởng
Quốc pḥng Wilson, Hội đồng Tham mưu Trưởng
Liên quân Hoa Kỳ đề nghị nên giới hạn
việc can thiệp và chỉ can thiệp bằng không
quân và hải quân từ bên ngoài mà thôi. Tại
Quốc hội, vấn đề can dự được
thảo luận sôi nổi, Thượng nghị sĩ
George McClellan phản đối việc gởi quân
Mỹ sang Đông Dương v́ mục đích duy
nhất là để bảo vệ thuộc địa này
của Pháp. Thượng nghị sĩ George Smathers th́ yêu
cầu "trước khi trù tính gởi binh sĩ
Mỹ sang Đông Dương, Pháp phải trao trả
độc lập thực sự cho các quốc gia liên
kết". Đó cũng là quan niệm của Thượng
nghị sĩ John F. Kennedy, ông yêu cầu một
sự thống nhất hành động của các nước
trên thế giới để bảo vệ dân chủ
tự do. Thượng nghị sĩ Lyndon Johnson th́ nói
rằng: "Chúng ta bị kẻ địch lừa
gạt, c̣n Đồng minh thân hữu th́ sợ hăi
chỉ mong chúng ta đứng ra đương đầu
với sự việc. Chúng ta đang ở vào vị trí
nguy hiểm, bị cô lập trong một thế giới
chống đối". Sau đó, các lănh
tụ Quốc hội đă lấy một quyết
định tối hậu là "Việt Nam độc
lập tự do là điều rất cần cho nền
an ninh thế giới và chỉ có một cách để
bảo đảm cho nền an ninh ấy là sử
dụng biện pháp quân sự”. Song
mọi nỗ lực của thủ tướng Pháp
Laniel trong việc kêu gọi Hoa Kỳ can thiệp để
cứu Đông Dương đều vô ích v́ Quốc
hội Pháp đă quá mỏi mệt v́ cuộc chiến
này, nên họ bác bỏ bất cứ hành động
can thiệp quân sự nào. Giờ đây vấn đề
chính của Pháp là t́m một lối thoát danh dự:
chấm dứt chiến tranh bằng một giải pháp
chính trị để cứu quân viễn chinh Pháp.
Vả lại, tại Genève một phụ tá của Chu
Ân Lai trong đoàn đại biểu Trung Cộng cam
đoan là "Bắc kinh đến Genève không
phải để ủng hộ Việt Minh mà để
tái lập ḥa b́nh ở Đông Dương". (31) Ngày
12/6/1954, Quốc hội Pháp bất tín nhiệm Laniel.
Thủ lănh đảng Cấp tiến Mendès-France
được tổng thống René Coty mời đứng
ra thành lập nội các mới để chấm
dứt chiến tranh Đông Dương. Để
được Quốc hội tấn phong. Mendès-France
tuyên bố sẽ từ chức nếu ông không đạt
được thỏa hiệp ngưng bắn tại
Đông Dương trước ngày 20/7/1954. (C̣n
tiếp phần chót) Lê
Quế Lâm |