Sử Lược Việt Nam thời Cận đại 1920-2020 Phần
1 Lê Quế Lâm
|
Giới
thiệu tóm lược nội dung tác phẩm (I) Tác
giả nguyên là giáo chức được lịnh
nhập ngũ khi chiến tranh bước vào giai đoạn
khốc liệt. Trong quân đội, được
bố trí làm công tác nghiên cứu chiến tranh Việt
Nam tại Trung tâm Khai thác Tài liệu Hỗn hợp
(Combined Documents Exploitation Center - CDEC). Tác giả xin
tuần tự tŕnh bày sơ lược những nét
đại cương của những diễn biến
lịch sử quan trọng trong nửa cuối thế
kỷ vừa qua khi đất nước ta trở thành
đấu trường chính của cuộc xung đột
giữa Thế giới Tự do và Quốc tế
Cộng sản, đó là cuộc chiến tranh lạnh.
Những biến động đó tạo ra chuổi nhân
quả tác động lớn đến tiền đồ
dân tộc, song có điều may mắn là xu hướng
phát triển của lịch sử ngày càng phù hợp
với ư nguyện của toàn dân mà các thế hệ
đi trước đă đổ quá nhiều xương
máu để tạo ra. Ngày 8/3/1965,
hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ
đổ bộ lên Đà Nẵng, mở đầu
sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ (HK) vào
chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến ở đây
đă diễn ra từ cuối năm 1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh phát động Toàn quốc kháng
chiến khi thực dân Pháp trở lại Đông Dương
tái lập sự thống trị các nước ở
đây sau khi Thế chiến II vừa chấm dứt. Chiến tranh
chống Pháp của ông Hồ lại diễn ra cùng
thời điểm với Chiến tranh lạnh giữa
Liên Xô và Hoa Kỳ. Chiến tranh ở Đông Dương
ngày càng bùng nổ lớn có sự can dự của
nhiều cường lực, nên họ gặp nhau
tại Genève năm 1954 để chấm dứt
cuộc chiến có nguy cơ dẫn đến một
trận đại chiến mới. Để tạo
dựng ḥa b́nh, họ thỏa thuận chia cắt
ảnh hưởng ở Đông Dương: hai vương
quốc Cam Bốt và Lào trung lập, Việt Nam bị
chia đôi ở Vĩ tuyến 17. Công cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của ông Hồ
đă kết thúc, song có điều nghịch lư: Pháp
đă bại trận kéo cờ trắng đầu hàng
ở Điện Biên Phủ, nhưng sau đó tại
hội nghị Genève 1954, Liên Xô (LX) và Trung Cộng (TC)
lại thỏa thuận với Anh Pháp, chấp nhận
để Mỹ đặt ảnh hưởng ở phía
nam Vĩ tuyến 17. Đó là thái độ khôn khéo
của giới lănh đạo LX và TC. Sau trận đọ
sức đầu tiên với Mỹ trong chiến tranh
Triều Tiên 1950-1953, họ đă thấy sức
mạnh của đối thủ với quyết tâm
“trả đũa ào ạt” để bảo vệ
phần đất ảnh hưởng của ḿnh.
Từ đó họ chuyển hướng chiến lược,
t́m cách ḥa hoăn với HK để chờ cơ hội
thuận lợi tranh đua với Mỹ làm bá chủ
thế giới. Thời cơ đó đă đến v́
cuộc kháng chiến ở Nam Bộ phát khởi từ
ngày 23 tháng 9 năm 1945 chưa kết thúc. Từ sau 1954
cuộc kháng chiến chuyển từ chống Pháp và chính
quyền Bảo Đại sang chống Mỹ và chính
quyền Ngô Đ́nh Diệm. Ông Hồ tố cáo Mỹ
thay Pháp thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới ở miền Nam Việt Nam. Tháng 9/1960
Cộng sản Việt Nam triệu tập Đại
hội Đảng lần thứ ba. Hồ Chí Minh nêu rơ:
“Đại hội lần này là đại hội xây
dựng xă hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và
đấu tranh ḥa b́nh thống nhất nước nhà”.
Nghị quyết của đại hội đề ra
hai nhiệm vụ chiến lược: củng cố
miền Bắc xă hội chủ nghĩa và giải phóng
Miền Nam. Ba tháng sau, Mặt trận Dân tộc
Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) ra đời với
chủ trương xây dựng một “Miền Nam
Việt Nam Độc lập, Dân chủ, Ḥa b́nh, Trung
lập, tiến tới Ḥa b́nh Thống nhất Tổ
quốc”. Đưa ra
lời thề “Quyết tử để Tổ
quốc quyết sinh” Hồ Chí Minh động viên ḷng
yêu nước của đồng bào, thực hiện
nghĩa vụ dân tộc: giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Mặt khác
để tranh thủ sự ủng hộ của
khối Cộng sản, ông Hồ nêu rơ mục tiêu
chiến đấu của CSVN là để tăng cường
phe xă hội chủ nghĩa. V́ mục tiêu chiến lược
quốc gia, cả LX và TC đều tích cực ủng
hộ, viện trợ cuộc chiến chính nghĩa
của nhân dân Việt Nam. Kkruschev
chủ trương “chung sống ḥa b́nh “với
Mỹ nhưng lại mở ra một chiến tuyến
mới chống đế quốc Mỹ can thiệp vào
các nước thế giới thứ ba, thực
hiện chủ nghĩa thực dân mới. LX ủng
hộ Fidel Castro và Hồ Chí Minh bành trướng
hệ thống xă hội chủ nghĩa ở Tây và
Đông Bán Cầu. C̣n TC từ đầu thập niên
1960 đă bước vào một giai đoạn lịch
sử mới: vừa chống đế quốc Mỹ
vừa chống chủ nghĩa xét lại Liên Xô. Mao
Tranh Đông tố cáo hai thế lực trên đă
cấu kết với nhau chung sống ḥa b́nh, để
chia nhau thống trị thế giới. Đó là một
âm mưu vi phạm nặng nề đến chủ
quyền các nước. Theo quan điểm
của Bắc Kinh th́ chiến tranh đang diễn ra trên
thế giới không phải là sự đụng đầu
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xă
hội mà thực chất là cuộc tranh giành ảnh hưởng
của hai siêu cường Nga Mỹ và phản ứng
của các nước dân tộc chủ nghĩa
chống chủ nghĩa bá quyền. Mao Trạch Đông
kêu gọi các nước chịu dưới ách bá
quyền của hai siêu cường nổi dậy,
tập hợp thành một mặt trận thống
nhất toàn thế giới chống chủ nghĩa bá
quyền. Trong mặt trận này, Thế giới thứ
ba là lực lượng chủ lực. Thế giới
thứ hai là đồng minh bao gồm các nước phát
triển nhưng bị hai siêu cường khống
chế như Nhật, Gia Nă Đại và các nước
Tây và Đông Âu. Thế giới thứ nhứt là
kẻ thù: Đế quốc tư bản Mỹ và
Đế quốc xă hội Liên Xô. Bắc Kinh
cho rằng các nước Thế giới thứ ba là
lực lượng chủ yếu của phong trào cách
mạng ngày nay và họ tự nhận là người
đại diện cho lợi ích của Thế giới
thứ ba và là người lănh đạo duy nhất
của các nước này. Khi Hồ Chí Minh phát động
chiến tranh thôn tính miền Nam th́ TC t́m cách lôi kéo Hà
Nội tách rời hệ thống xă hội chủ nghĩa
do LX lănh đạo, đứng hẳn về Thế
giới thứ ba để thực hiện cuộc
chiến tranh chống bá quyền, bảo vệ nền
độc lập dân tộc. Tổng bí thư Đảng
CSTQ Đặng Tiểu B́nh hứa viện trợ cho Hà
Nội 1 tỉ nhân dân tệ nếu CS Bắc Việt
khước từ mọi viện trợ của LX,
chỉ nhận sự giúp đỡ của Bắc Kinh và
các nước Thế giới thứ ba để
thực hiện công cuộc giải phóng miền Nam
chống đế quốc Mỹ. Về
phần HK, khi quyết định can thiệp vào MNVN, TT
Kennedy đă tiên liệu những khó khăn phức
tạp của cuộc chiến này. Đó là sự xâm
lược của cộng sản phát xuất từ
miền Bắc được che đậy dưới
h́nh thức chiến tranh giải phóng. Nó khởi đầu
bằng các cuộc nổi dậy của dân chúng
miền Nam dùng chiến thuật du kích chống chính
quyền Ngô Đ́nh Diệm, để thế giới bên
ngoài tưởng đó là cuộc tranh chấp nội
bộ của dân chúng miền Nam VN nhằm bó tay không
cho HK can thiệp. T́nh h́nh MNVN
lúc bấy giờ rất bất lợi cho việc
chủ động đối phó của Mỹ v́ tinh
thần quốc gia cao độ của vị lănh đạo
VNCH.Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm thường nói:
“Cái kư ức của sự thống trị thực
dân đă ăn sâu như cái gai đâm sâu trong dân
tộc này”. Điều đó không cho phép ông
chấp nhận sự can thiệp trực tiếp
của người Mỹ, v́ Hoa Kỳ đă từng
viện trợ giúp Pháp chống lại cuộc kháng
chiến của Việt Minh hồi thập niên trước. HK cần
trực tiếp tham chiến nhằm tạo dựng
những điều kiện khả dĩ giúp người
dân Nam VN chiến thắng cuộc chiến của chính
họ bằng con đường ḥa b́nh, bằng
quyền tự quyết của họ như nhận
định của TT Kennedy hồi tháng Giêng 1961: “Chiến
tranh Việt Nam chỉ có thể thắng được
nếu nó là cuộc chiến tranh của người
Việt Nam. Nếu không, nó có thể trở thành
cuộc chiến của người da trắng và chúng
ta sẽ thua như người Pháp trước đây”. Đầu tháng
11 năm 1963 TT Ngô Đ́nh Diệm bị quân đội
đảo chánh, tiếp theo là những xáo trộn chính
trị liên tục trong hai năm sau đó, khiến
chế độ tự do ở Miền Nam đứng bên
bờ vực sụp đổ. Nhân cơ hội này HK
đưa quân vào miền Nam VN để bảo vệ
phần đất ảnh hưởng của ḿnh, đồng
thời t́m giải pháp chấm dứt cuộc chiến
đă kéo dài suốt 20 năm qua. Mục tiêu tham
chiến của Mỹ được TT Lyndon B. Johnson tŕnh
bày tại Đại học John Hopkins (Baltimore) ngày
7/4/1965. Ông hoan nghênh bản tuyên ngôn của 17 nước
không liên kết họp ở Belgrade (Nam Tư) hồi
giữa tháng 3/1965 kêu gọi các bên tham chiến không nên
đặt điều kiện tiên quyết để
sớm giải quyết chiến tranh VN bằng con
đường ḥa b́nh. TT Johnson cho biết Hoa Kỳ
sẳn sàng thương lượng không điều
kiện với các chính phủ liên hệ, dựa trên
những hiệp ước cũ hoặc được
bổ túc bằng những hiệp ước mới. HK
sẽ làm mọi thứ cần thiết để đạt
được mục tiêu là: “Nền độc
lập của Nam Việt Nam được bảo đảm
vững chắc để họ có thể hoạch
định mối liên hệ riêng của họ đối
với các nước khác mà không có sự can thiệp
từ bên ngoài. Nơi đây không phải là căn
cứ quân sự của nước nào và cũng không
liên minh quân sự với nước nào”. TT Johnson c̣n
đề nghị Tổng thư Kư Liên Hiệp Quốc
U Thant với uy tín và kiến thức sâu rộng về
châu Á, đề xướng với các nước
Đông Nam Á liên kết với nhau trong đó có
miền Bắc VN, góp phần trong nổ lực chung
để hợp tác và phát triển khu vực trong ḥa
b́nh. HK sẽ đầu tư 1 tỉ đô la cùng các
nước kỹ nghệ phát triển kể cả LX
tham gia vào nổ lực chung đó, để “biến
đổi sự vô vọng và kinh sợ thành những
triển vọng và tiến bộ”. Hôm sau trong
kỳ họp Quốc hội khóa III, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng bác bỏ đề nghị
đàm phán ḥa b́nh của TT Johnson và đưa ra đề
nghị 4 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng ḥa: (1)-Yêu cầu Mỹ rút quân khỏi
miền Nam VN, (2) -đ́nh chỉ các hoạt động
chiến tranh ở miền Bắc, (3) -Công việc
miền Nam VN do nhân dân MNVN giải quyết theo cương
lĩnh của MTDTGPMN, (4) -Việc thống nhất VN
sẽ do nhân dân hai miền quyết định không có
sự can thiệp từ bên ngoài. Hoa Kỳ không
chấp nhận điểm 3 v́ lẽ cương lĩnh
này do Cộng sản Bắc Việt soạn thảo.
Để áp lực Hà Nội ngồi vào bàn đàm phán,
HK xử dụng hai gọng kiềm, từng bước
tăng quân ở miền Nam vừa mở rộng
diện oanh tạc miền Bắc. Đến cuối năm
1965, đă có trên 184 quân Mỹ ở Nam VN và tăng
dần lên 285 ngàn vào tháng 6/1966. Vào thời điểm
này, tác giả được lịnh gia nhập quân
đội. Ngày 17/7/1966
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân: “Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hay lâu hơn
nữa. Hà Nội, Hải pḥng và một số thành
phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ. Không có ǵ quí hơn
độc lập tự do. Đến ngày thắng
lợi nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Lúc
bấy giờ quân số Mỹ ở NVN là 285 ngàn, theo
Ngũ Giác Đài sẽ tăng đến 383 ngàn vào
cuối năm 1966 và trên 400 ngàn vào đầu năm
1967. Từ
cuối năm 1966, HK gia tăng các cuộc dội bom liên
tiếp và dữ dội nhằm vào các mục tiêu quân
sự ở các khu vực ngoại thành Hà Nội.
Giữa tháng Giêng 1967, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao Động VN ban hành Nghị quyết 13
mở ra giai đoạn đấu tranh ngoại giao
kết hợp với đấu tranh quân sự và chính
trị. Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh tuyên
bố: “Hoa Kỳ nhiều lần rêu rao thương
lượng không điều kiện, nếu Mỹ
thực sự muốn nói chuyện th́ phải chấm
dứt việc ném bom và chỉ sau khi ngưng ném bom, các
cuộc nói chuyện mới tiến hành được”. Đầu tháng
2/1967 khi đến Luân Đôn, thủ tướng Liên
Xô Kosygin đề nghị Mỹ chấm dứt không
điều kiện việc oanh tạc miền Bắc
để khởi đầu các cuộc thương
thuyết ḥa b́nh. Ngày 8/2/1967, TT Johnson chính thức
gởi đến Chủ tịch Hồ Chí Minh lời
đề nghị: -Mỹ sẽ ngưng ném bom miền
Bắc và ngưng tăng cường quân số ở
miền Nam, nếu Hà Nội cũng đ́nh chỉ
gởi người và vũ khí vào miền Nam. Sau đó
Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa sẽ
tiến hành những cuộc mật đàm để
giải quyết vấn đề miền Nam VN. Trong thư
trả lời, Chủ tịch Hồ Chí Minh lập
lại đề nghị 4 điểm của Hà
Nội, ông coi đó là cơ sở để giải
quyết cuộc chiến ở miền Nam. Ông cho
biết Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa “không
thể thương lượng dưới sự đe
dọa của bom đạn Mỹ. Hoa kỳ phải
chấm dứt vĩnh viễn và không điều
kiện việc ném bom và mọi hành động
chống lại nước Việt Nam Dân chủ
Cộng ḥa, khi đó hai bên mới có thể đàm phán
và thảo luận những vấn đề mà hai bên
quan tâm”. Sau
đó các cuộc tiếp xúc giữa Mỹ và Cộng
sản VN bắt đầu diễn ra. Đầu tháng
6/1967, t́nh h́nh Trung Đông đột nhiên trở nên căng
thẳng khi Ai Cập phong tỏa eo biển Tiran, ngăn
chận các tàu mang cờ Do Thái di chuyển qua eo
biển này. Đồng thời huy động cả ngàn
chiến xa và 10 vạn quân hợp tác với nước
Á Rập bao quanh Do Thái như Syria, Jordan, Lebanon với
quyết tâm tiêu diệt Do Thái. Ngày 5/6/1967, Do Thái
mở đầu cuộc tấn công, đánh phủ
đầu vào không lực Ai Cập. Chỉ trong ṿng 6
ngày Do Thái đă chiến thắng, chiếm được
dăi Gaza, bán đảo Sinai của Ai Cập, bờ phía
Tây và Đông thành phố Jerusalem của Jordan và cao nguyên
Golan của Syria. Thế giới lo ngại LX có thể
xử dụng vũ khí nguyên tử để răn
đe Do Thái, bảo vệ các nước Á Rập. Do
đó các khoa học gia Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô…đă
gặp nhau ở Paris để t́m cách ngăn chận
cuộc chiến ở Trung Đông có nguy cơ
đưa đến chiến tranh nguyên tử. Có điều
may mắn, nơi đây không phải là địa bàn
tranh giành ảnh hưởng của hai siêu cường,
nên Nga Mỹ không muốn đối đầu ở
đây. Nguy cơ chiến tranh lớn là ở Đông Dương,
nơi có hơn 400 ngàn quân Mỹ đang tham chiến, c̣n
Trung Quốc th́ quyết tâm “đánh Mỹ đến
người Việt Nam cuối cùng”. Trong
cuộc họp ở Paris có Henry Kissinger và hai khoa
học gia Pháp tham dự là Herbert Macrovich và Raymond Aubra -đảng
viên cộng sản. Hồ Chí Minh đă từng ở
nhà ông Aubra hồi năm 1946 khi sang Pháp tham dự
hội nghị Fontainebleau. Do gợi ư của Kissinger, ngày
21/7/1967 Macrovich và Aubra lên đường đi Hà
Nội. Trong một tuần ở Việt Nam, hai ông
đă tiếp xúc với chủ tịch Hồ Chí Minh và
thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trở
về Pháp, hai ông trao đổi với Kissinger về
những ǵ mà giới lănh đạo ở Hà Nội
mong muốn. Từ đó, HK và VNDCCH có những cuộc
mật đàm giữa đại diện của Mỹ
là Kissinger và đại diện của Hà Nội ở
Paris là Mai Văn Bộ và Vơ Văn Sung. Các cuộc
tiếp xúc kéo dài đến giữa tháng 10/1967 th́ gián
đoạn. Trong
lúc Mỹ và chính phủ Hà Nội tiếp xúc
mật ở Paris, th́ tại Sàig̣n, một lănh tụ
MTGPMN là Trần Bạch Đằng -Bí thư Thành
ủy Sàig̣n-Chợlớn đă có những
cuộc tiếp xúc mật với đại sứ
Mỹ Bunker. Đằng tiết lộ: “Chúng tôi
bị dồn vào thế phải tổng công kích, dù chúng
tôi đă cố gắng t́m kiếm nhiều giải pháp
chính trị khác. Tôi đă thông báo điều này
với chính đại sứ Bunker vào năm 1967 khi
chiến tranh sẽ là một điều tất yếu”.
Đằng cho biết từ 1966 đến 1969, Việt
Cộng đă tiếp xúc mật nhiều lần
với Mỹ để trao đổi tù binh. Chính Bunker
đă can thiệp để trả tự do cho vợ
của Đằng, sau này là phụ tá của bà
Nguyễn Thị B́nh tại hội đàm Paris. Ngoài
vợ Trần Bạch Đằng, Mỹ c̣n can
thiệp với chính phủ VNCH phóng thích bà dược
sĩ Phạm Thị Yên (Bảy Yên), Ủy viên Trung
ương MTGPMN đang bị giam giữ ở Côn Đảo
từ đầu thập niên 1960. Sau đó Mỹ
đưa bà trở ra chiến khu để gặp
lại chồng là Trần Bửu Kiếm, phụ trách
thanh niên của MTGPMN. Trong bàn đàm phán Paris, ông
Kiếm là Trưởng đoàn đầu tiên của
MTGPMN. Sau
nhiều chuyến đi đêm được HK hứa
sẽ án binh bất động, MTGPMN dốc toàn
lực vào cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa
toàn miền Nam. Nếu Mặt trận có ưu thế và
được sự ủng hộ của dân chúng
miền Nam như họ thường rêu rao là "kiểm
soát được 3/4 dân số và 4/5 đất đai"
th́ Hoa Kỳ sẵn sàng rút quân để MTGPMN quản
lư công việc miền Nam. Nếu không thắng, họ
sẽ cùng chính phủ Sài G̣n hiệp thương, thành
lập chính phủ liên hiệp, giải quyết
chiến tranh bằng con đường ḥa b́nh. Mật
lệnh tổng tấn công được Hồ Chí
Minh loan báo trên Đài phát thanh qua bài thơ chúc Tết
vào lúc giao thừa Tết Mậu Thân. Cộng sản hy
vọng cơ hội ngàn năm có một này, trong khi
đồng bào nô nức đón mừng năm mới,
lực lượng VNCH chỉ c̣n 1/2 cấm trại, lơ
là trong việc pḥng thủ v́ đang có lệnh hưu
chiến, họ sẽ đánh bại quân đội
Cộng ḥa, sách động nhân dân nổi dậy
lật đổ chính quyền quốc gia. Từ
bước thứ nhất trong "chiến lược
hai chân" của chiến tranh nhân dân “lấy nông
thôn bao vây thành thị”, cộng sản chuyển
sang bước thứ hai: đưa bộ đội
từ vùng rừng núi, nông thôn đồng bằng
tiến ra chiếm lĩnh thành phố và các tỉnh
quận lỵ miền Nam giành toàn bộ chính quyền.
Nhưng ước tính của cộng sản đă sai
lầm, một kư giả Mỹ đă nhận xét: "Việt
Cộng đă chịu một thất bại quân sự
nặng nề. Hàng chục ngàn tên cán binh cuồng tín
nhất, có kinh nghiệm nhất từ vùng rừng núi
nhẩy vào vùng đồng bằng và thôn quê gánh
chịu những trận mưa bom chết người.
Việt Cộng mất cả một thế hệ
chiến binh và nhân dân thành phố cũng không chịu
nổi dậy theo chúng." Dù
bị tổn thất nặng nề về quân sự,
nhưng về mặt chính trị Trần Bạch Đằng
đă vận động được một số
nhân sĩ, trí thức, sinh viên ở Sàig̣n thoát ly ra
mật khu để thành lập Liên minh các Lực lượng
Dân tộc, Dân chủ và Ḥa b́nh Việt Nam. Tháng 6 năm
sau, tổ chức này hợp tác với MTGPMN thành
lập “Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
ḥa Miền Nam Việt Nam”. Chính phủ này cùng
chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa trở thành hai
lực lượng chủ yếu sẽ quyết định
tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam
khi chiến tranh chấm dứt. Ngoài
ra, cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân c̣n
tạo được tiếng vang lớn cho CS về
mặt tuyên truyền, khi 19 đặc công đột
nhập vào khuôn viên mặt tiền Ṭa Đại
sứ Mỹ ở Sàig̣n và đă bị tiêu diệt
gần như toàn bộ. Trong khi đó tại Mỹ các
báo lớn cho in h́nh ảnh ṭa đại sứ Mỹ
trên trang nhất với tựa lớn “Sứ quán
Mỹ tại Sàig̣n đă bị cộng sản
chiếm” kèm với lời báo động về con
số tổn thất của quân đội Mỹ
ở VN sẽ gia tăng trong tháng 2 và 3/1968. B́nh
luận gia truyền h́nh Walker Cronrkite được xem
là có ảnh hưởng nhất đối với khán
giả Mỹ nhận định rằng: “Chiến
tranh Việt Nam đang ở trong t́nh trạng tuyệt
vọng và chỉ có sự thương thuyết
mới đưa nước Mỹ ra khỏi bế
tắc. Càng ngày tôi càng thấy rơ con
đường hợp lư duy nhất để thoát ra
được là sự thương thuyết, không
phải như là kẻ chiến thắng mà như
một người lương thiện”. Giới
truyền thông, báo chí Mỹ, nhất là nhóm phản
chiến đă cố tô vẽ h́nh ảnh cộng
sản chiến thắng trong biến cố Tết
Mậu Thân 1968 để thúc đẩy họ đến
bàn đàm phán như là kẻ thắng, chớ không
phải “dưới sự đe dọa của bom
đạn Mỹ”. Điều này phù hợp với
sự tuyên truyền của giới lănh đạo
ở Hà Nội. Họ cho rằng cuộc tiến công
Tết Mậu Thân 1968 đă làm cho Quân đội Sài G̣n
và Đồng minh những tổn thất to lớn và làm
sút giảm ư chí chiến đấu nặng nề.
Trong hoàn cảnh đó, Bắc Việt đưa ra
đề nghị đàm phán, HK do thiệt hại
lớn lao đành phải chịu ngồi vào bàn
hội nghị, xuống thang chiến tranh… Quả
thật, Johnson đă xuống thang chiến tranh, ngày
30/3/1968 ông ra lệnh ném bom hạn chế từ vĩ
tuyến 19 trở vào nhằm tạo điều
kiện cho việc thương thuyết sớm khai
diễn. Ông cho biết sẽ triệu hồi đại
sứ Mỹ ở Mạc tư Khoa Llewellyn Thompson
phối hợp với Averell Harriman đại diện
cho HK gặp gỡ chính phủ Hà Nội tại Genève
hoặc bất cứ nơi nào thuận lợi cho
việc thương thảo giải quyết vấn
đề chiến tranh Việt Nam. Ông kêu gọi Hà
Nội tích cực đáp ứng bước tiến ḥa
b́nh này. Ba ngày sau, chính phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Ḥa ra tuyên bố: “Rơ ràng chính phủ
Mỹ chưa đáp ứng nghiêm chỉnh và đầy
đủ đ̣i hỏi chính đáng của chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Tuy
nhiên về phần ḿnh, chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tuyên bố sẵn sàng
cử đại diện của ḿnh tiếp xúc với
đại diện của Mỹ”. Sau
đó, trong chỉ thị ngày 10/4/1968 Bộ Chính
trị đảng Lao động Việt Nam tuyên
bố: "Khi Mỹ mời ta đàm phán, ta có
một lợi điểm lớn: Mỹ đă bắt
buộc phải đàm phán riêng với ta để
giải quyết những vấn đề liên hệ
giữa hai bên. Vấn đề liên hệ giữa hai bên
th́ chỉ có vấn đề Mỹ ném bom và phá
hoại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa là
một hành động bất hợp pháp. Lập trường
của ta là bắt buộc Mỹ phải chấm
dứt vô điều kiện và vĩnh viễn cuộc
chiến tranh phá hoại Miền Bắc dưới
mọi h́nh thức. Khi vấn đề này được
giải quyết theo chiều hướng ấy, ta và
Mỹ có thể bàn tới một hội nghị
quốc tế để giải quyết vấn đề
Miền Nam Việt Nam, trong đó có sự tham dự
của Mặt Trận Giải Phóng và nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tham dự với tính
cách một quốc gia đứng ngoài mọi sự liên
hệ với Miền Nam trong cuộc chiến đấu
tại đây". Nhiệm
vụ đưa cộng sản vào bàn đàm phán hoàn
tất, TT Johnson tuyên bố không tái ứng cử
nhiệm kỳ hai. Vào thời điểm này, tác
giả sau thời gian thụ huấn quân sự và
nghiệp vụ Quân Báo, được bố trí
phục vụ ở Trung tâm Khai thác Tài liệu Hỗn
hợp để nghiên cứu cuộc chiến VN. (C̣n
tiếp P2) |