Nhân
Xuân TÂN SỬU 2021, Tản Mạn Về “TRÂU” Qua Ca
Dao Việt Nam
Lê Ngọc Châu |
Như chúng ta
biết, lịch cổ truyền của Việt Nam
gồm mười hai con giáp và Trâu là con giáp đứng
thứ nhì sau Chuột dùng để tính thời gian: Tý,
Sửu, Dần, Mão (Mẹo), Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân,
Dậu, Tuất và cuối cùng là Hợi. Năm Tý
vừa đi qua và Năm Mới 2021 là năm Trâu, Năm
TÂN SỬU. Ca dao Việt
Nam diễn tả những con giáp cho dễ nhớ qua ca
dao như sau: Tuổi Tý là con
chuột xù Có thể nói
TRÂU là loài vật rất phổ biến, nhất là
đối với nhà nông. Và Trâu cũng được
lấy làm hình ảnh mang tính cách sinh động cho
nhiều câu thành ngữ, tục ngữ của Việt
Nam. TRÂU là con vật giúp đỡ cho giới nông dân
rất nhiều và cũng chính con người đã
đưa Trâu lên phim ảnh, đưa vào truyện, thơ
văn. Ở đây người viết chỉ điểm
qua giới hạn hình ảnh con Trâu trong tục
ngữ, ca dao Việt Nam, vừa để thư giãn
đầu Xuân vừa dùng làm bài học đối nhân
xử thế ở đời. TRÂU trong ca dao
– tục ngữ của Việt Nam (VN) có rất
nhiều, nhiều câu ca dao phổ biến rộng
được mọi người thường nghe,
nhiều người còn thuộc lòng. Đi xa hơn,
trong kho tàng ngôn từ chữ nghĩa của Việt Nam
TRÂU cũng đã góp mặt trong nhiều câu tục
ngữ – thành ngữ, nghĩ kỹ lại thấy
đều mang tính chất châm biếm ý nhị, hàm
chứa tính triết lý sâu xa và cũng không kém
phần hóm hỉnh, chế diễu. Nhân dịp Xuân
TÂN SỬU 2021, chúng ta hãy thử nghiền ngẫm
một số câu tục ngữ – thành ngữ của
Việt Nam về “TRÂU”, để có
thể tìm thấy trong đó những nét tương
đồng qua tư tưởng, ngôn từ đồng
cảm qua kinh nghiệm phổ quát. Hình ảnh con
Trâu trong ca dao, tục ngữ trước hết là hình
ảnh được diễn tả bằng ngôn
từ. Trong hai con vật thân quen với cuộc sống
của người nông dân là Trâu và Bò thì trâu
được đánh giá cao hơn bò: “Trâu gầy cũng tày
bò giống”, “Trâu he cũng bằng bò khoẻ” (Tục
ngữ). Bò khả năng chịu rét kém, sức kéo cũng
không khoẻ bằng trâu, riêng về việc kéo cày
ở đồng ruộng thì khả năng của bò kém
trâu xa. Trâu có sức khoẻ dẻo dai hơn bò,
được ví von qua mấy ca dao như sau: Trâu năm sáu tuổi còn
nhanh, Chính vì ưu
điểm chịu rét khá, sức kéo mạnh cho nên nhà
nông nuôi trâu để phục vụ cho lao động
sản xuất và là ưu tiên lựa chọn hàng đầu
của người nông dân. Nghề nông mà không có trâu
thì không thể tiến hành thuận lợi và đạt
hiệu quả cao giống như việc nhà giàu mà không
có thóc gạo: Làm ruộng không trâu, làm
giàu không thóc. Để
khỏi quên những chuyện cần làm trong năm người
Việt Nam ta cũng đã mượn ca dao nhưng khéo
léo kết lại thành bài thơ ngắn có vần
điệu cho dễ nhớ Tháng giêng là tháng ăn
chơi, Muốn mua
được trâu hay, cày khoẻ thì cần phải
biết cách chọn trâu giống tốt. Tục ngữ
cũng nêu lên kinh nghiệm mua trâu: “Mua trâu xem sừng, mua
chó xem chân” hay “Mua trâu xem vó, lấy
vợ xem nòi”. Trâu sừng
to, cân đối là trâu khoẻ. Cổ trâu dài, bò
nếu có cổ ngắn và to là loại trâu, bò có
sức kéo khoẻ. Trâu khoẻ, nhanh ảnh hưởng
tốt đến hiệu quả công việc sản
xuất, ca dao Việt Nam ví von: – Thứ nhất
vợ dại trong nhà, – Trâu khoẻ chẳng
lọ cày trưa, Để cho
thấy rằng nếu muốn mua trâu thì nên chọn
mua trâu nái tức “xem vó”, cũng tương tự như
lấy vợ thì chọn con nhà có dòng dõi, sức
khỏe tốt và … khả năng sinh sản, ca dao có
câu: Mua trâu xem vó, lấy
vợ xem nòi. Vì Trâu chính là
con vật đóng vai trò hàng đầu của nhà nông: Con trâu là đầu cơ
nghiệp. nên người
nông dân mua trâu bò cũng chọn ngày tháng. Tháng tư đi tậu
trâu bò, Ai muốn làm
giàu thì phải nuôi trâu, đặc biệt là trâu nái
vừa cày vừa sinh sản và bán trâu giống là có cơ
hội làm giàu: Muốn giàu nuôi trâu nái,
muốn lụn bại nuôi bồ câu. Tuy nhiên,
việc “tậu trâu” là
việc hệ trọng giống như chuyện “lấy vợ, làm nhà” và
chọn trâu tốt không phải là công việc dễ dàng. Tậu trâu, lấy
vợ, làm nhà Sự giàu có
sung túc của nhà nông được đánh giá
bằng chất lượng và số lượng
ruộng và trâu: Ruộng sâu, trâu nái Cao Dao Tục
ngữ Việt Nam nói riêng cũng lấy hình ảnh con
trâu để đề cập đến các mối
quan hệ trong xã hội. Ngày xưa và ngay cả bây
giờ, sự tranh chấp nhau làm cho dân tình gánh
chịu khốn khổ hay đơn giản tình bạn
tan vỡ và có câu tục ngữ đã diễn tả
khéo léo cảnh này: Trâu bò húc nhau ruồi
muỗi chết. Để ám
chỉ sự ghen ghét nhau của các quan chức thời
xưa cũng như có thể nói ngay cả trong đời
sống xã hội hiện tại, dân gian dùng hình
ảnh “trâu buộc” và “trâu ăn” một cách tài tình,
dễ hiểu: Trâu buộc thì ghét trâu
ăn, Nhận xét
về các loại người trong xã hội, tục
ngữ cũng mượn hình ảnh con trâu. Mượn “trâu chậm” và “trâu ngơ” một
cách khéo léo để ám chỉ loại người
chậm chạp, ngu ngơ và bị thua thiệt: “Trâu chậm uống nước
dơ, Riêng về lãnh
vực nhân tình thế thái, dân gian ta cũng mượn
hình ảnh con trâu với các cấu trúc ngữ nghĩa
khác nhau. Chẳng hạn để ám chỉ cho một
sự việc nếu để lâu nó sẽ giảm
bớt đi hiệu quả hay sự quan trọng
của nó cũng bị giảm, tục ngữ ta có câu
đơn giản, dễ hiểu: Cứt trâu để lâu
hoá bùn Thông thường
đôi khi người ta không nhận ra tầm quan
trọng của sự việc hay món đồ dùng
bởi lẽ khi họ có nhiều xài không hết thì
chê thế này chê thế nọ nhưng gặp lúc
thiếu hụt, không có (ví dụ nếu đang đi
giữa bãi sa mạc, sắp chết vì thiếu nước
uống), thì đành phải chấp nhận như sau Nước giữa dòng
chê trong, chê đục Đề
cập đến sự tương trợ lẫn nhau,
cũng có câu: Trâu béo kéo trâu gầy. Nói đến
trâu là gắn với khả năng cày bừa và làm
việc vất vả, nặng nhọc trong ngành nông
nghiệp: Trâu cày ngựa cưỡi. “Tác giả dân gian” cũng
đã mượn con Trâu với đặc tính không thính
tai để đề cập đến triết lý có
tính nhân sinh, khi nói chuyện hay làm việc một cách
vô ích, không có hiệu quả với người không
hiểu biết qua các câu ca dao đơn giản như
sau: Đàn đâu mà
gảy tai trâu, Khi chăn trâu
thì phải luôn coi chừng nó, không để trâu đi
lạc đàn, trâu ăn lúa. Trâu đã đi vào ca dao
huyền thoại nói về chú Cuội chăn trâu mãi
chơi, ngồi gốc cây đa để trâu ăn lúa: Thằng Cuội
ngồi gốc cây đa Chăn trâu tuy
đơn giản nhưng lại là một việc làm
khá vất vả, phải đi sớm về khuya,
suốt ngày phơi mặt ngoài đồng, phải
chịu mưa nắng gió rét, chăm sóc trâu cho béo
tốt để có sức mà kéo cày: Trâu anh con cưỡi
con dòng, Chuyện
nặng cày bừa của nhà nông với con trâu thường
do người đàn ông đảm nhận. Vì vậy,
biết điều khiển trâu và cày sao cho giỏi là
tiêu chuẩn để đánh giá người con trai
trong việc đồng án: Trai thì cày ruộng
khiển trâu Nghề nông là
một nghề vất vả nhưng là một nghề
cao cả vì nó quyết định đến đời
sống của mọi người. Người Á Châu nói
chung và người Việt Nam nói riêng, cơm là món
ăn chính hàng ngày. Câu ca dao sau đây diễn tả rõ
nét sự lam lũ của nghề nông và lời
nhắn gửi với mọi người đừng quên
công lao nhọc nhằn của họ: Lao xao gà gáy rạng ngày, Chính vì
vất vả nặng nhọc và mang trách nhiệm
nặng nề nên đứa trẻ chăn trâu
được xã hội xưa coi trọng, quý mến.
Có cả một lễ hội mục đồng mà
những đứa trẻ chăn trâu tham gia và
được đối xử trọng vọng. Ngoài
ra, cũng có Lễ hội chọi trâu là một hình
thức thi trâu khoẻ, tôn vinh người chăn trâu,
ai có trâu thắng cuộc thì rất vinh dự. Lễ
hội chọi trâu trở thành một ngày hội
lớn: Dù ai buôn đâu bán
đâu, Văn hóa
nghề nông cũng được diễn tả rõ nét
qua công việc cày cấy, mối quan hệ giữa người
và trâu. Trâu không còn là con vật mà còn là người
bạn của nhà nông, họ thường tâm tình tha
thiết với trâu về công việc cày cấy, ân
cần khuyên bảo trâu ăn uống, làm lụng, luôn
cả về vấn đề triết lí nhân sinh mà có
lẽ nhiều người đã từng nghe: Trâu ơi! Ta bảo trâu
này! Tuy vất
vả nhưng có thể nói là người nông dân luôn
yêu đời, lạc quan và tin tưởng vào tương
lai tươi sáng. Họ coi việc cày cấy là
niềm vui. Giữa trâu với người lao động,
cảnh trâu và người cùng đồng hành hăng
say trong công việc nhà nông, họ xem trâu như một
thành viên trong gia đình: Rủ nhau đi cấy
đi cày Đề
cập về mối quan hệ trai gái, câu tục
ngữ “Trâu tìm cọc
(cột) cọc (cột) chẳng tìm trâu” ám
chỉ người con trai thường đi tìm người
con gái để ngỏ lời chứ con gái không đi
tìm con trai để tán tỉnh. Hình ảnh đáng yêu
của “ngọn cỏ phất phơ” là
em và anh là “con nghé nhởn nhơ” đi
tìm cỏ, cỏ cần cho trâu và trâu bao giờ cũng
khát khao ăn cỏ, như “chàng khát khao nàng” với
câu ca dao: Em như ngọn cỏ
phất phơ, Để
thề thốt yêu thương, ca dao về Trâu ví von: Trăm năm còn có gì
đâu Hay trách móc khéo
tuy nhẹ nhàng mà cay đắng: Công anh chăn “nghé”
đã lâu, Nhưng trong
đời sống cũng có những cô gái có lối
sống xa hoa vật chất, và để so sánh với
hình ảnh con trâu chỉ ăn cỏ để
sống qua ngày ca dao với ý muốn châm biếm không
thiếu, như: Ai nói chăn trâu là
khổ?? Trong xã
hội, thông thường dân làng nào thì theo tập quán
của làng ấy theo kiểu “bảo thủ”: Trâu đồng nào
ăn cỏ đồng ấy Để
tự than thở cho số phận hẩm hiu chẳng
may trên con đường tình ái, ca dao cũng mượn
con Trâu để diễn tả: Chẳng qua số
phận long đong Chưa
hết. Người đời còn mượn hình
ảnh của con Trâu để nói lên sự thèm khát
ái tình… Ca dao Việt Nam diễn tả rất khéo léo
về tình tiết này qua yêu cầu của người
bạn “có lẽ chưa chồng” muốn
có được vòng tay ôm ấp một cách tế
nhị như sau: Của chua ai thấy cũng
thèm Và mời nghe
người bạn gái trả treo rất văn chương,
tuy đùa cợt nhưng thâm thúy: Chồng em đâu
phải trâu cày Để
đề cập về cách sống theo bầy đàn
của trâu bò, cũng là tâm lí nói về tính cộng
đồng xã hội: Trâu có đàn, bò có lũ Người
Việt Nam nói riêng, đa số tôn trọng và coi danh
dự hơn cả của cải vật chất nên thường
cố gắng tạo danh tiếng cho mình. Để
nhắc nhở mọi người nên giữ gìn danh
dự, có câu tục ngữ: Trâu chết để
da, người ta chết để tiếng. Hoặc để
cảnh giác, khuyên răn thì có câu: Trâu kia chết để
bộ da Ca dao hay
tục ngữ truyền khẩu về con “TRÂU” thì
còn rất nhiều nhưng người viết chỉ
trích dẫn một số ít ca dao trên đây, góp
nhặt được trên internet. Rất tiếc bài
viết có giới hạn nên tôi không thể trích
dẫn hết để trình bày cùng quí vị, mong thông
cảm. Nhưng qua đó hy vọng cũng đủ gói
ghém ý nghĩa sâu sắc của ca dao, có thể nói là
căn bản của nền văn hóa dân tộc
Việt Nam. Mong quý độc giả hoan hỷ cho
mọi sơ sót. Đa tạ. Kính chúc Quý
độc giả một năm mới TÂN SỬU 2021, “AN KHANG THỊNH VƯỢNG”. Lê Ngọc Châu |