Lần
đầu tiên tôi có ư định viết chuyện này
là năm 1989. Năm đó, cả nước Mỹ xôn
xao tranh căi về việc một người đàn ông
đă đốt lá cờ Mỹ ngay trên thềm toà nhà
Quốc Hội trong buổi họp thường niên
cuả đảng Cộng Ḥa. Lúc đó tôi đă nghe
nhiều bàn tán về sự kiện này từ phía
chống đối cũng như phe ủng hộ. Ngày
đó tôi vưà mới tốt nghiệp đại
học, chưa để ư nhiều đến những
sinh hoạt chính trị xă hội ở chung quanh, nhưng
trong ḷng tôi đột nhiên dâng lên một cảm xúc
gần như là tiếc cho người đàn ông đă
làm hành động đó. Nếu ông ta từng nh́n lá
cờ Mỹ qua đôi mắt của tôi và của hơn
một trăm người bạn đồng thuyền
vạ buổi sáng muà hè năm ấy, không biết ông ta
có hành động khác đi chăng". . .
Đêm trung tuần tháng 7 năm 1983
bắt đầu khá êm ả. Con thuyền nhỏ đầy
kín người đă ra hải phận quốc tế
được gần 24 tiếng. Tôi đă hơi quen
với mùi hôi tanh lợm giọng trong thuyền nên
cảm thấy hơi tỉnh táo, ngồi bó gối nh́n
cô em gái nằm bên cạnh đang mê man v́ say sóng. Ngước
mắt nh́n lên bầu trời đang chuyển dần
từ màu xám sang màu đen thẫm, tôi thầm cầu
nguyện cho được b́nh an.
Cám ơn trời, biển khá êm, con tàu
không vật vă mà chỉ chồm lên hụp xuống
theo từng đợt sóng. Tiếng khóc cuả con nít,
tiếng càu nhàu than thở, tiếng chửi thề cũng
lắng dần khi mọi người ch́m vào giấc
ngủ mệt mỏi...
H́nh như tôi có thiếp đi một lúc
v́ khi tôi giật ḿnh cḥang dậy th́ sự hoảng
sợ đă chụp xuống chung quanh. Bác tài công đang
hối hả kêu mấy người lái phụ và các
thanh niên khác dùng bạt bịt kín khoang thuyền nơi
mọi người đang nằm chen chúc. Chiếc
đèn măng xông duy nhất trong pḥng máy bị
thổi tắt phụt sau khi bác tài công ra lệnh:
- Tắt đèn! Tắt hết đèn đi!!!
Lắng nghe những lời th́ thào trao đổi
một lúc tôi mới hiểu ra rằng tàu chúng tôi
đang bị tàu cuớp Thái Lan đuổi bắt. Chúng
tôi phải tắt hết đèn chạy xuyên vào
biển đen trong khi tàu Thái ra sức rượt theo.
Cả tàu đuợc lệnh tuyệt đối im
lặng, những đứa bé vưà lên tiếng khóc
phải bị bịt miệng ngay. Không biết lúc
đó tôi c̣n trẻ quá, dại dột quá, có nhiều
tin tưởng quá, hay v́ cảm xúc cuả tôi đă tê
dại đi, nên tôi không thấy sợ hăi lắm. Tôi
gần như không cảm được sự hăi hùng
của hơn một trăm sinh mạng đang loi ngoi
trong khoang thuyền bịt kín. Tôi chỉ thấy khó
thở vô cùng; tôi chỉ thấy nhẹ gánh cho em tôi
đang mê man, chắc nó không phải cảm thấy
sự ngộp thở tưởng chừng như không
kham nổi mà tôi đang chịu; tôi chỉ biết
tự nhủ ráng lên, ráng lên; và tôi không ngừng
cầu xin Thượng Đế, Chúa, Phật, và
tất cả những đấng thiêng liêng cứu
vớt chúng tôi...
Chúng tôi chạy ṿng vèo ngay truớc mũi tử
thần trong suốt một đêm, và b́nh minh tới dù
không ai mong đợị. Những tia sáng đă quét
đi màn đêm đang che chở chúng tôi. Bác tài công
buông những câu chửi thề uất hận khi
khoảng cách giữa bọn cướp và chúng tôi thu
ngắn trong khoảnh khắc... Rồi tôi lại
nghe bác lại chửi, nhưng lần này đượm
vẻ ngạc nhiên pha chút vui mừng:
- ĐM, h́nh như tụi nó bỏ đi hả bây"
Tấm bạt bịt khoang được hé ra cho chúng
tôi khỏi chết ngộp, và qua cái khe hở nhỏ
đó, một con cá nhỏ xíu bằng ngón tay cái đă
phóng vào thuyền, rơi xuống ngay cạnh tôi. Tôi ngước
mắt cố nh́n nhưng v́ đang ngồi bẹp trong
khoang thuyền nên tôi chẳng thấy được ǵ
ngoài một mảng trời đang sáng dần.
Bỗng bác tài công và những người trong pḥng máy
trên cao vụt la lớn:
- Có tàu! Có tàu lớn ở đàng xa kià!
- Tàu ǵ vậy" Vái trời cho không phải tàu Liên
Xô!
Chúng tôi như đuợc hồi sinh, ai cũng nhỏm
lên nh́n nhưng v́ lúc đó chiếc tàu kia chỉ là
một đốm nhỏ ở xa nên tôi chưa thấy
ǵ cả. Vài phút sau, có tiếng máy rồi một
chiếc máy bay trực thăng nhỏ bay qua. Người
trong thuyền la hét như điên cuồng, nhiều người
đàn ông cởi áo phất lia lịa nhưng máy bay
chỉ lượn vài ṿng rồi... mất hút. Dù
sao chúng tôi cũng có một tia hy vọng ở chân
trời, chúng tôi vội nhắm cái chấm ở tít
đằng xa mà chạy tới. Và chiếc tàu kia h́nh
như cũng đang chạy về phía chúng tôi v́ nó càng
ngày càng lớn dần.
Và, suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên giây
phút đó, giây phút người đàn ông ngồi trên
cao la lạc giọng:
- Thấy rồi! Thấy cờ Mỹ rồi!!!
Nước mắt ông ràn rụa trên khuôn mặt
khắc khổ lấm lem dầu máy. Mọi người
đứng bật lên làm thuyền chao mạnh. Chúng tôi
đă thật sự được sống!
Chiếc tàu vớt chúng tôi là một hàng không mẫu
hạm của Mỹ. Nó to như một toà nhà mười
mấy tầng, những người lính đầu tiên
phải leo thang dây xuống để đem con nít và
những người yếu sức lên trước. Em tôi
đă tỉnh dậy như một phép lạ và chúng tôi
bám vào thang dây, ḍ từng bước leo lên boong tàu. Vưà
lên tới nơi, mỗi người được
trao một ly sữa và một trái táo trước khi
tụ tập trong một góc boong. Và ngạc nhiên thay,
trên tàu đă có cả trăm người Việt Nam
chạy ra mừng chúng tôi. Th́ ra chiếc tàu Mỹ này
vừa mới vớt một thuyền vượt biên
khác ngày hôm trước. Sau khi mọi người đă
lên tàu lớn, những người lính Mỹ tưới
xăng lên chiếc thuyền mà chúng tôi vưà rời
khỏi rồi châm lưả đốt. Đứng trên
boong tàu nh́n vói theo chiếc thuyền nhỏ xíu đang
bốc cháy và trôi dần ra xa, biết rằng ḿnh vô cùng
may mắn, nhưng ḷng tôi vẫn thoáng chút ngậm ngùi...
Tổng
cộng thuyền nhân được cứu từ hai
chiếc ghe vượt biên lên tới gần hai trăm
năm mươi người. Hồi đó, tiếng
Anh cuả tôi kém và tính t́nh nhút nhát nên không dám
hỏi han những người lính ở trên tàu. Tôi
chỉ nghe nói lại là chiếc hàng không mẫu
hạm này đang trên đuờng đi công tác ở
Phi Luật Tân. Họ đă nh́n thấy tàu chúng tôi
từ rất xa và quyết định đi
chếch qua để cứu chúng tôi. Chiếc trực
thăng bay qua trước khi tàu đến cũng là do
vị thuyền trưởng đă gởi tới để
xem xét t́nh trạng của chúng tôi.
Không hiểu v́ sao mà trên tàu có sẵn một số
quần áo cũ. Chúng tôi được phép lựa
những thứ tạm mặc được để
thay đổi hàng ngàỵ. Khổ nỗi đống
quần áo đă qua sự lựa chọn cuả
những người lên trước nên chỉ c̣n toàn
những thứ khó mặc. Tôi nhặt đại hai cái
áo to bằng bốn lần khổ người tôi, và
một bộ áo liền quần màu xanh bó sát. Chẳng
hề ǵ, tôi vẫn vô cùng sung sướng v́ ước
mơ gần như hoang đường nay đă thành
sự thật: tôi đă trốn thoát khỏi Việt
Nam và đang ở trên tàu Mỹ.
Ngày đó tôi vưà học xong trung học. Sau 8 năm
đói khổ sau bức màn sắt cuả Cộng
Sản, thế hệ chúng tôi hầu như quên mất
có một thế giới bên ngoài. Trong những ngày trên
tàu Mỹ tôi đă gặp lại những hành động
lịch sự, những cử chỉ nhân ái gần như
đă biến mất trong xă hội nơi tôi vừa ra
đi. Những ân nhân của chúng tôi ân cần đến
từng chi tiết nhỏ, một trong những việc
đầu tiên họ làm là phát phong b́, giấy bút cho
chúng tôi viết thư báo tin cho người thân. Cho
đến bây giờ tôi vẫn c̣n nhớ chiếc
phong b́ màu xanh nhạt có h́nh chiếc hàng không mẫu
hạm và tên tàu ở góc, tôi vẫn c̣n nhớ ánh
mắt thương cảm của những người
trên tàu nh́n chúng tôi nhếch nhác, bơ phờ ḍ
từng bước lên tàu.
Suốt thời gian trên tàu tôi vô cùng ái ngại cho
những ngựi lính và những sĩ quan đă
tốn không biết bao nhiêu công sức để lo cho
hơn hai trăm người chúng tôi. V́ hàng không
mẫu hạm là đơn vị quân sự nên chúng tôi
không được phép ra khỏi phần cuối boong
tàu. Mỗi người được phát một
tấm chăn dạ màu xám, loại chăn nhà binh
Mỹ mà tôi đă thấy trước năm 1975. Chăn
rất tốt và khí hậu Thái B́nh Dương vào muà
hè khá ấm nhưng chúng tôi phải nằm ngay trên
boong và gió thổi lồng lộng khi tàu chạy nhanh nên
ban đêm vẫn lạnh. Tôi ngủ được
rất ít nhưng chính v́ thế tôi càng có cơ
hội chứng kiến sự tận tâm cuả
những người trên tàu. Sáng sớm tôi vưà
thức dậy đă thấy người ta đang lăng
xăng dọn thức ăn sáng cho chúng tôi. Mất
mấy tiếng mới phục vụ hết đám người
đông đúc nên chỉ vài tiếng sau là họ
lại lục tục lo bữa ăn trưa, rồi
ăn tối. Thức ăn quá lạ miệng nên tôi không
thấy ngon, ngay cả trái chuối cũng khác ở
Việt Nam, nhưng tôi nhớ nhất là ly cà phê đầu
tiên trên tàu. Đă từng nếm những ly cà phê
đen sánh quậy với sữa đặc ở
Việt Nam, tôi ngạc nhiên lắm khi ngậm ngụm cà
phê Mỹ pha sẵn. Thật t́nh, cà phê sao chua lè và
trong veo, y như là nước giảo của cà phê
Việt Nam!
Vấn đề vệ sinh cho hơn hai trăm người
chen chúc trong khoảng không gian nhỏ mới thật là
kinh khủng. Thuỷ thủ đ̣an phải dùng nylon
đen che thành mấy pḥng tắm quay mặt ra biển,
nhà vệ sinh cũng là nylon đen quây quanh mấy thùng
sắt to. Mỗi sáng nhân viên trên tàu cùng chúng tôi
dọn dẹp, và tôi không thấy người nào
tỏ thái độ khó chịu cho dù trong khi làm
những việc cực nhọc nhất.
Mấy ngày ngắn ngủi trên tàu măi măi là một
trong những kỷ niệm khó quên nhất trong đời
tôi. Trên chiếc hàng không mẫu hạm hùng vĩ
đó, tôi đă được xem cảnh tàu chở xăng
xáp vào tiếp nhiên liệu cho tàu lớn ngay trên
biển, đă được chứng kiến những
sinh hoạt hàng ngày quy củ răm rắp như
một trong guồng máy nhưng được thực
hiện bởi hải đoàn đầy ắp t́nh người.
Tôi nhớ nhân viên trên tàu ngoài nhiệm vụ riêng
họ c̣n phải chăm sóc đủ thứ cho chúng tôi,
và phải lo rất nhiều giấy tờ cho thủ
tục gởi chúng tôi vào trại tị nạn Thái
Lan. Bận rộn vậy nhưng không khí trên tàu luôn
ấm cúng và thân t́nh. Tôi vẫn nhớ lễ chào
cờ mỗi sáng, đám người tị nạn
đứng sát bên thuỷ thủ đoàn cùng lắng
nghe quốc ca Hoa Kỳ vang vọng. Tôi vẫn mường
tượng được cảm giác bàng Ḥang khi nh́n
lá cờ Hoa Kỳ bay lồng lộng trên bầu
trời xanh biếc cuả Thái B́nh Dương mà
tự nhủ không biết ḿnh sẽ ra sao nếu
chiếc tàu này đến trễ chỉ một vài
tiếng trong buổi b́nh minh hôm trước...
Mỗi buổi chiều khi công việc đă xong, người
trên tàu túa ra tṛ chuyện với chúng tôi. Từ
vị sĩ quan trong đồng phục trắng toát
tới anh thuỷ thủ trong đồng phục xanh, ai
cũng ân cần vui vẻ. Họ đùa giỡn
với con nít, tṛ chuyện với mọi nguời,
cố lắng nghe những câu tiếng Anh vụng
về cuả chúng tôi để t́m hiểu xem chúng tôi
có cần thêm ǵ hay không. Để chúng tôi giải khuây,
họ c̣n căng màn chiếu phim. Tôi nhớ
măi cuốn phim đó là phim Điệp viên 007 James Bond
với tựa đề "For Your Eyes Only". Giữa
trời đêm lồng lộng ngàn ánh sao, trên con
thuyền băng băng xuyên vào biển đen,
những h́nh ảnh rực rỡ chớp tắt trên màn
ảnh vĩ đại làm tôi mơ màng tưởng như
ḿnh đang trôi trong đêm hoa đăng thần
thoại của một giấc mơ kỳ diệu.. .
Như thế đó, tôi đă may
mắn gặp được cái đẹp đẽ
nhất cuả nước Mỹ trước khi đặt
chân tới đất nước này. Tôi đến
Mỹ với vài đô la và mấy bộ quần áo
tồi tàn nhưng gia tài cuả tôi là ḷng cảm
mến sâu xa với một miền đất giàu t́nh
người, cùng với Ḥai băo sẽ cố gắng
sống cho xứng đáng với sự hy sinh cuả
gia đ́nh, với sự may mắn mà Thượng
Đế đă nhờ những "sứ giả"
trên tàu Mỹ đem đến cho chúng tôi.
Những bối rối v́ ngôn ngữ, những trở
ngại khi hội nhập đôi khi có làm tôi buồn
nản, nhưng tôi thấy quay quắt nhất là
những khi nhớ về Việt Nam. Những chuyện
nhỏ nhặt như khi đi chợ Việt Nam, nh́n người
ta xăm soi t́m cho được những trái tuyệt
hảo nhất trong đám nhăn mọng tươi
nhập cảng từ Á châu cũng làm tôi bùi ngùi. Tôi
nghĩ đến những trái hơi có t́ vết mà không
ai thèm mua kia cũng có thể là hàng xuất khẩu
từ Việt Nam, là tinh hoa chắt ra từ quê hương
nghèo nàn của tôi, là loại hàng "xuất
khẩu" mà người đi làm b́nh thường
như cha mẹ tôi không bao giờ mua nổi.
Tuy thế, vấn đề lớn nhất tôi gặp
phải trên đất Mỹ là một chuyện tôi chưa
hề nghĩ tới: đó là t́nh cảm của tôi
với nước Mỹ đă làm tôi hoang mang. Ngay
từ nhỏ, những câu tục ngữ như "Con
không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nhà nghèo"
đă thấm sâu vào ḷng tôi. Cho dù tôi biết chắc
rằng tôi không liều mạng vượt biển v́
miếng cơm manh áo, tôi ra đi không phải v́ tôi chê
mẹ Việt Nam nghèo khó, nhưng trong trí óc cuả
một thiếu nữ đang trưỏng thành một
ḿnh trên miền đất mới, tôi cảm thấy
gần như... có lỗi khi thấy ḿnh càng ngày càng
quen với đời sống mới và thật sự yêu
mến quê hương thứ hai này. Có lẽ cảm giác
đó giống như đưá con nuôi cuả một
gia đ́nh giàu có, một ngày kia trở về quê cũ
và cảm thấy băn khoăn khi bắt gặp ḿnh
ngập ngừng, xa lạ trước cha mẹ ruột
nghèo nàn xấu xí.
Không hiểu may mắn hay không may cho tôi là khi chiến
tranh Việt Nam đang diễn ra th́ tôi c̣n nhỏ. V́
thế, trong ḷng tôi không có cảm giác hụt hẫng
và đau đớn của nhiều người lớn
khi bị "đồng minh Mỹ bỏ rơi".
Khi tôi nghe vài ngựi nói rằng nước Mỹ cưu
mang chúng ta không phải v́ họ tốt mà v́ họ có
trách nhiệm với người Việt, tôi hiểu
tại sao họ nghĩ thế nhưng tôi không cảm
được. Tôi kính trọng suy tư riêng cuả
mỗi người, nhưng riêng tôi, tôi thấy cái
tinh tuư cuả hiệp chủng quốc vượt
khỏi những nhiệm kỳ tổng thống hay
đảng phái. Tinh tuư đó đến từ
những người dân Mỹ. Có lẽ t́nh cảm
cuả tôi với nước Mỹ đă thành h́nh
từ lúc nh́n con tàu mang lá cờ Mỹ lớn dần
từ phía chân trời trên Thái B́nh Dưong, từ
khoảnh khắc thấy người lính Mỹ ôm
chặt em bé nhớp nhúa ói mửa vào ḷng để
đem lên tàu, từ khi anh thủy thủ ân cần dùng
con dao nhỏ cắt bớt chiếc dép cao su cho vừa
chân tôi, từ h́nh ảnh người sĩ quan trong
bộ đồng phục trắng toát đang xắn
quần, g̣ lưng kéo dây gh́m cho thuyền nhỏ đứng
yên để chúng tôi bước lên bờ biển Thái
Lan, từ h́nh ảnh những người Mỹ đứng
một hàng dài lưu luyến dơi theo đám thuyền
nhân chúng tôi đang lục tục đi vào trại mà
c̣n cố ngoái lại nh́n qua làn nước mắt.
Tôi tin rằng không phải vị thuyền trưởng
nghĩ rằng người Mỹ có trách nhiệm
với chúng tôi, hay v́ sự may mắn khi con cá nhỏ
nhảy vào tàu mà chúng tôi được vớt. Nước
Mỹ có quyền không cho phép chiếc hàng không mẫu
hạm đi chệch hải đồ để
cứu người, giống như bao con tàu khác đă
làm ngơ với những chuyến vượt biên kém
may mắn. Hơn nữa, những ǵ không thật
sẽ không tồn tại lâu bền, cho nên t́nh cảm
ban đầu cuả tôi với nước Mỹ
sẽ mất đi nếu tôi không càng ngày càng
thấy Hoa Kỳ là một đất nước bao
dung. Tôi không ngây thơ nghĩ rằng - hay mong rằng
- nước Mỹ là Ḥan hảo; nhưng với tôi
nuớc Mỹ là một ḍng sông mênh mông, đôi khi cũng
đem theo rác dơ, đôi khi cũng dậy sóng nguy
hiểm, nhưng ḍng sông đó đă rộng ḷng đem
nước và phù sa đến cho những giống cây
đến từ khắp nơi có cơ hội
đơm trái ngọt.
Người sống lâu ngày trong b́nh an, sung sướng
thường quên rằng ḿnh may mắn. Người
đàn ông đốt lá cờ Mỹ trên thềm nhà
Quốc Hội chắc chỉ nhớ đến
những rác rưởi trong ḍng sông, chắc ông ta không
hiểu rằng chỉ ở Hoa Kỳ ông ta mới dám
chà đạp quốc kỳ ngay trước toà nhà
lập pháp mà không sợ rằng ḿnh sẽ "ra
đi không có ngày về". Ông ta chắc chắn không
biết rằng lá cờ đó đă khiến hải
tặc Thái Lan buông chúng tôi, đă quyết định
giữa cuộc sống b́nh an ở Hoa Kỳ và cái
chết - hay một cuộc sống nô lệ trên xứ
Thái đau khổ hơn cả cái chết - cuả hơn
một trăm người trên chiếc thuyền vượt
biên vào một ngày hè năm 1983. . .
Thời gian
trôi qua. Tôi đă lớn lên và đă hiểu ra
rằng tôi không hề phải chọn lựa giữa
quê hương thứ nhất Việt Nam và quê hưong
thứ hai Hoa Kỳ. Tôi yêu mến đất nước
Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đă cưu mang tôi,
cho cây tôi lớn lên thành một cây quưt ngọt, và
đất nước này không hề phiền hà khi tôi
đem chia xẻ trái ngọt đó với nơi tôi
sinh ra. Tôi đâu phải là cá hồi mà phải
chọn lựa giưă sông và biển" Tinh thần
cuả nước Mỹ luôn khuyến khích mọi người
góp sức làm thế giới tốt đẹp hơn và
tôi sẽ làm như thế. Tôi sẽ cố gắng
để bằng cách này hay cách khác, trao lại
những may mắn và cơ hội mà tôi đă
được trao. Hy vọng là tôi sẽ góp phần
để một ngày nào đó người dân Việt
Nam không c̣n phải t́m cách ra đi cho dù phải
trả giá bằng tính mạng hay nhân phẩm.
Tôi yêu Việt Nam đă sinh thành ra tôi và tôi yêu Hoa
Kỳ đă dưỡng dục tôi. Đôi khi tôi
tẩn mẩn phân tích t́nh cảm cuả ḿnh: với
Việt Nam là t́nh, với Hoa Kỳ là nghiă...
Rồi tôi lại loay hoay tự hỏi có phải như
vậy không, hay là ngược lại" Cuối cùng
tôi bật cười, nghĩ ḿnh thật là lẩn
thẩn, bởi v́ t́nh cảm đâu cần ǵ phân
loại và đặt tên.
Khôi An
|