Điểm
sách Tù Binh và Ḥa B́nh của Phan Nhật Nam ĐIỆP MỸ LINH |
Bài điểm sách này được
biên soạn để phát thanh trên đài V.O.V.N. vào
đầu thập niên 90. Bây giờ xin phổ biến
trên Internet để chào mừng tác phẩm Tù Binh và Ḥa
B́nh được Bộ Hải Quân Hoa Kỳ ấn hành. ĐIỆP
MỸ LINH Bất cứ thời gian nào và không gian nào,
mỗi tác phẩm của Phan Nhật Nam đều cho
người đọc cái cảm tưởng như
từng ḍng chữ c̣n ngùn ngụt khói chiến trường,
c̣n ầm ́ tiếng đại pháo, c̣n váng vất mùi
máu từ vết thương đang làm độc
của thương binh VNCH bị vây khốn trong ṿng rào
tử thủ! Trong Tù Binh và Ḥa B́nh, ngoài những điều
như tôi đă tŕnh bày ở đoạn trên, Phan
Nhật Nam c̣n đưa ra những nhận định
rất chính xác, những phân tích tỷ mỷ,
những nhận xét không suy suyển và những cảm
nghĩ đầy phẫn nộ về những sự
kiện lịch sử liên quan đến hiệp định
ngưng bắn ngày 27-01-73! Ng̣i bút của Phan Nhật Nam gắn liền
với chiến trận, với đời Lính; và Phan
Nhật Nam cũng từng là thành viên trong ủy ban liên
hợp phụ trách vấn đề trao trả tù binh,
cho nên, chúng ta có thể khẳn định rằng
những ǵ Phan Nhật Nam viết ra có một giá
trị vượt xa sự tương đối. Chúng ta được may mắn là tác phẩm
Tù Binh và Ḥa B́nh đă thoát khỏi ṿng hủy
diệt văn hóa do cộng sản Việt Nam (csVN)
chủ xướng và tác phẩm này hiện đang
được lưu hành dưới ṿm trời Tự
Do. Nhờ vậy, mai sau con em của chúng ta sẽ không
bị csVN đầu độc bằng những trang
sử kư xuyên tạc để chạy tội; v́ chúng
ta đang có trong tay 422 trang chi chít những dữ
kiện quan trọng của một giai đoạn
lịch sử đen tối. Trong 422 trang này Phan Nhật
Nam khẳng định ở trang 100 rằng: “Tôi viết v́ những điều
tôi thấy, những rung động làm run tay, những
phẫn nộ làm chóng mặt”. Trước những sự kiện có thật
được Phan Nhật Nam ghi lại một cách
mạch lạc trong Tù Binh và Ḥa B́nh, tôi nghĩ, không
ai là người không cảm thấy ḷng ḿnh se lại
khi đọc xong. Thật vậy, như đoạn viết
về Huỳnh Tấn Mẫm – một trí thức
trẻ thường khuấy động hậu phương,
làm lợi cho csVN – khi Mẫm được chính
phủ VNCH trao trả cho những người cùng “chí
hướng phá hoại” như Mẫm, th́ Mẫm
lại xin về với gia đ́nh tại Saigon! Và
luật sư Việt cộng Nguyễn Long, khi được
trao trả cho “phía bên kia”, Long lại dùng tiểu
xảo, chỉ với mục đích làm bỉ mặt
những nhân vật đại diện cho phía VNCH
tại địa điểm trao trả tù binh. C̣n
nhiều nghịch lư mà người nào chưa thành
Bồ Tát cũng thấy ḷng ḿnh gợn lên niềm
phẫn nộ! CsVN bắt tù binh VNCH đi dân công, khai
rộng con đường 458. Và, khi trao trả, người
tù VNCH gầy c̣m, đau yếu cho đến độ
không đủ sức nói lên hai tiếng “có mặt”
khi họ được ủy ban trao trả gọi tên;
c̣n những người tù csVN, trong thân thể hồng
hào, nở nang, rắn chắc, khi được trao
trả lại vung tay, to tiếng tố cáo “chế
độ giam giữ hà khắc, tàn nhẫn của nhà
giam Phú Quốc!” Trong tất cả những điều bất nhân
mà Phan Nhật Nam trông thấy và ghi lại, tôi nghĩ,
có lẽ chưa điều nào làm cho trái tim Phan
Nhật Nam rướm máu cho bằng lần Phan Nhật
Nam trở ra Hà Nội. Thật vậy! Ng̣i bút của
những người xa Hà Nội từ năm 1954 đă
tốn không biết bao nhiêu giấy mựt để
viết về Hà Nội. Cho nên, trong chúng ta không ai là
người không một lần mơ về Hà Nội.
Riêng đối với Phan Nhật Nam, Hà Nội c̣n là
chốn thiêng liêng mà Anh và thân mẫu của Anh
phải bỏ lại theo lời khuyên kín đáo
của thân phụ anh – một chiến sĩ sư
đoàn 308 của trận Điện Biên Phủ. Mười chín năm sau ngày Điện Biên
Phủ thất thủ, Phan Nhật Nam viết về
chuyến đi Hà Nội sắp đến: “...Chuyến đi Hà
Nội như áng sáng chói ḷa rọi thật rơ vào
hệ thống ấn tượng dậy lên từ
thời thơ ấu kéo dài theo đời người.
Những ấn tượng về một quê hương
xưa cũ...” (trang 40) Nhưng sau khi nh́n
thấy sự tiêu điều tàn tạ của Hà
Nội, Phan Nhật Nam viết: “... Tan vỡ rồi Hà Nội!... Tôi đi
giữa ḷng Hà Nội mưa bay không thấy phố phường,
không thấy người, chỉ thấy thê thiết năo
nề dồn lên hơi thở. Trần Dần năm xưa
thất vọng v́ màu cờ đỏ quá mạnh
lấn át phố phường Hà Nội... Tôi hôm nay
đi trong ḷng Hà Nội với đe dọa trùng điệp,
cơn cảnh giác thường xuyên, trong không khí đồng
nhất quái dị. Hà Nội thiên liên bí nhiệm
vẫn c̣n nguyên hè xưa phố cũ nhưng đă
tan vỡ đến đáy sững sờ!...” Năm 1954 csVN kư hiệp định Genève
với Pháp, chia cắt nước Việt Nam tại sông
Bến Hải. CsVN ở ngoài Bắc. Quốc Gia ở
trong Nam. Nhưng sau đó, chính csVN gây hấn, xâm
phạm hiệp định Genève rồi xua quân ào
ạc lấn chiếm miền Nam. Mười chín năm sau, 1975, cũng chính csVN kư
hiệp định ngưng bắn tại Ba Lê. Nhưng
rồi: “Ngày 27-01-1973, khi
giọt mựt cuối cùng chưa khô trên văn
kiện ‘Tái lập ḥa b́nh tại Việt Nam’ th́
ở Việt Nam, đêm 27 rạng 28-01-1973, Thủy Quân
Lục Chiến cường tập dứt điểm
Tango (hay T) hay cửa Việt. Pháo 130 từ Đông Hà,
Khe Sanh đổ xuống vùng Như Khê, Tân Lê, làm quân
Dù Việt Nam Cộng Ḥa không
thể ngóc đầu nổi. Ngày chủ nhật,
28-01-1973, toàn thể các quốc lộ vào Saigon đều
bị đóng chốt...” (Trang 220) Dạo c̣n ở Saigon, đọc báo, thấy
Việt cộng bắn vào trực thăng mang dấu
Hồng Thập Tự đang tản thương, tôi
rất bất nhẫn. Nhưng liền đó tôi tự
biện luận, có lẽ hai bên bắn nhau đạn
lạc chứ làm ǵ có loại người tàn ác đến
độ bắn vào trực thăng tản thương
có mang dấu Hồng Thập Tự! Nhưng trong
thời gian ngưng tiếng súng trên toàn lănh thổ
Việt Nam, trong khi trực thăng VNCH chở tù csVN
đến Lộc Ninh – địa điểm trao
trả tù binh – khi trở về, bị Việt
cộng từ dưới đất bắn lên. Lần
thứ nhất ngày 26-02-1973. Lần thứ hai ngày
07-03-1974 khiến một nhân viên phi hành Chinook CH 47
bị tử thương! V́ những bất đồng nặng nề
giữa VNCH và csVN trong vấn đề trao trả tù
binh, để làm áp lực, Việt cộng pháo kích
bừa băi vào quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường,
làm chết nhiều trẻ em và thường dân. “Ngày 09-03-1974, Việt
Cộng pháo kích đạn 82 ly vào trường
tiểu học Cộng Đồng Cai Lậy, gây thương
vong cho 43 em và làm bị thương 70 em” (Trang
343) “Và trường tiểu học Long Phú ở Vĩnh
Long, ngày 04-05-1974, Việt Cộng pháo kích, chết 17 em
và 70 em bị thương.” (Trang 376) Cũng trong thời gian này, tại vùng cận sơn
Quăng Trị, Bắc quân ló ḿnh lên khỏi
“chốt”, ngoắc tay gọi lính Nhảy Dù và Sư
Đoàn I Bộ Binh. Chiều nọ, một chàng csVN
lững thững đi sang khu vực của đại
đội 94 tiểu đoàn 9 Nhảy Dù, bắt tay
thiếu úy Thắng và bảo rằng: “Tụi tôi không đánh
ông đâu. Ḿnh bồ mà.” Thiếu úy
Thắng mời nước trà và thuốc quân tiếp
vụ. Sau đó 12 quân nhân Thủy Quân Lục Chiến
sang “chốt” Việt cộng thăm giao hữu; 12 quân
nhân ấy không bao giờ trở về! “Không có tiếng súng,
chỉ có âm động của lưỡi lê xuyên qua
da thịt!” (Trang 379) Nhưng trên tất cả mọi đớn
đau, uất hận trong thời gian ngưng chiến là
căn cứ Tống Lê Chân, do tiểu đoàn 92
Biệt Động Quân biên pḥng trấn giữ, dưới
sự chỉ huy của một sĩ quan mới 25
tuổi – Lê Văn Ngôn – tốt nghiệp khóa 21 Vơ
Bị Quốc Gia Dalat. Trong số 259 quân nhân tại căn
cứ, hết 75 người bị thương; nhưng
40 thương binh xin ở lại chiến đấu!
Nhưng tính chất bi hùng của Tống Lê Chân không
dừng lại ở đó. Tính chất bi hùng của
Tống Lê Chân tiếp theo bằng những con số mà
khi đọc xong người đọc phải thở
ra, thẩn thờ: “... Căn cứ Tống Lê Chân bị pháo kích
233 lần, 20 lần bị tấn công biển người,
7 lần bị đánh đặc công và nhận 14 ngàn
trái đạn đủ loại, nổ liên tục
trong 220 ngày! Ngày 27-01-73 cũng là ngày N của cuộc
tấn công cường tập vào Tống Lê Chân...Ngày
24-03-73 hai mươi thương binh đầu tiên và
cuối cùng được di tản... Tống Lê Chân
đóng cửa vĩnh viễn với nỗi bi hùng
của nó!” (Trang 275) Đây không phải là lần đầu tiên tôi
đọc Tù Binh và Ḥa B́nh; nhưng hôm nay, sau khi đọc
xong, gấp sách lại, tôi trầm mặc trong nỗi
đau đớn vô tận của một người
Việt Nam c̣n đủ lương tri! Những hành
động dă man, tàn bạo của csVN làm tôi ghê
tỡm họ! Vượt qua bao xảo trá, gian manh và
dẫm lên không biết bao nhiêu máu xương của
đồng bào và quân nhân miền Nam, cuối cùng người
csVN cũng đă thực hiện được
giấc mộng xâm lăng! Suốt mấy mươi năm ngụp lặn
trong hào quang đẩm máu đó, người csVN làm
được ǵ cho Quê Hương, ngoài thành tích
thiết lập không biết bao nhiêu nhà tù và đẩy
ra biển cả vạn vạn người Việt?
Trong những “chiến công” đó, không ai trong chúng
ta là người không thấy được sự
tiếp tay đắc lực của Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam và những nhà khoa bản như
Ngô Bá Thành, Nguyễn Long, Hồ Ngọc Nhuận,
Ngọc Lan, Chân Tín, v.v... Một Nguyễn Hộ – trong Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam – với 40 tuổi đảng,
khi tỉnh ngộ c̣n thành lập được Câu
Lạc Bộ Kháng Chiến để tỏ thái độ
đối kháng với csVN. C̣n Ngô Bá Thành, Chân Tín,
Nguyễn Long, Ngọc Lan, Hồ Ngọc Nhuận, v.v...
nghĩ ǵ và nhận được ǵ từ csVN trong
mấy mươi năm qua? Đấy, những
hạng người đă góp không biết bao nhiêu công
sức trong việc dọn đường cho Viêt
cộng tiến vào Saigon mà suốt mấy mươi năm
qua chưa người nào hưởng được chút
bổng lộc huống ǵ những người
“trở cờ muộn” như Nguyễn Văn Hảo
và Phạm Đăng Long Cơ! Thời kỳ Việt cộng vượt Trường
Sơn, Việt cộng gọi là đi “B”. Vào đến
miền Nam, anh bộ đội nào hồi chánh th́
bị Việt cộng gọi là “B quay”. Tôi nghĩ, bây
giờ, tập thể Việt Nam tỵ nạn c̣n
ngần ngại ǵ mà không “tặng” cho Nguyễn Văn
Hảo và Phạm Đăng Long Cơ một danh từ
tương xứng như “ Hảo Quay” và “Cơ
Quay”! Trở lại với tác phẩm Tù Binh và Ḥa B́nh,
năm 1974, Phan Nhật Nam viết tác phẩm này th́: “...Người
cộng sản Việt Nam vẫn phải khó khăn
đấu tranh với từng mẫu sắn, từng
lon gạo, một hai điếu thuốc khô, dăm ba
chiếc kẹo ngọt trên bước đường
đấu tranh thần thánh thực hiện chủ nghĩa
xă hội th́ quả t́nh quá tội nghiệp...Cả
một đội vận tải trên đường giây
‘chủ nghĩa xă hội’ (đường ṃn
Hồ Chí Minh) phải hội ư từ 5 giờ chiều
cho đến 9 giờ tối để đạt ‘tiêu
chuẩn’ ‘ tiếp thu’ 5 điếu thuốc. Đội
vận tăi gồm những kỹ sư, bác sĩ,
những cán bộ mang quân hàm trung tá, thiếu tá
phải b́nh nghị, hội họp suốt bốn
tiếng đồng hồ để đạt ‘tiêu
chuẫn’ phân chia 5 điếu thuốc Điện-Biên...
Bữa cơm không có thịt trong suốt 18 năm
của người dân Tuyên Quang miền Bắc, hai
điếu thuốc lá được viên kỹ sư
máy nổ ‘tiếp thu’ trên đường giây
‘chủ nghĩa xă hội’ như mặt trái của
tấm gương phản chiếu những chữ nghĩa
rực rỡ, nghe xa xăm như một giấc
mộng mơ hồ...” (trang 90).
Đến năm 1975, sau khi cưỡng chiếm
được miền Nam, cuộc sống của cán
bộ và bộ đội đă khác hẳn. Và lớp
người thay thế h́nh ảnh bi thảm có thật
của Việt cộng do Phan Nhật Nam vẽ ra năm
1974 là tập thể quân nhân Quân Lực VNCH. Khi đề cập đến sĩ quan Quân
Lực VNCH, ngay như tướng Việt cộng
Trần Công Mẫn, khi tiết lộ với Larry
Engelmann trong cuốn Tears Before The Rain cũng phải xác
nhận rằng: “Về những người
lính b́nh thường của miền Nam th́ họ đă
mệt mỏi chiến tranh, họ phải kéo dài
một trận chiến không đi đến đâu. Nhưng
đối với các sĩ quan quân đội miền
Nam th́ tinh thần của họ cao hơn...” Như
sợ rằng ḿnh lỡ lời, sẽ bị tự phê,
tự kiểm, tướng Việt cộng Trần Công
Mẫn tiếp: “...v́ họ biết,
nếu chiến tranh chấm dứt, sự nghiệp
của họ cũng chấm dứt luôn.” Câu “tḥng” của tướng Việt
cộng Trần Công Mẫn là một luận điệu
yếu ớt, mượn ư từ nhận xét rất
trung thực của Phan Nhật Nam về trung tá Việt
cộng Bùi Thiệp: “Tưởng tượng cảnh
Bùi Thiệp trở về làng xưa ở B́nh Định
với một túi vải kaki mang ở vai, dôi dép râu
đế vỏ xe hơi dưới chân, nếu không có
quân hàm trên vai với chút uy quyền tội nghiệp,
Thiệp sẽ c̣n lại ǵ trước làng xưa tiêu
tán, không gia đ́nh, không vợ con, chỉ có chiếc
bóng ngă dài trên đất vàng khô le lói chút nắng
chiều... Thiệp không c̣n ǵ cả, quả thật
vậy, chỉ c̣n những sợi tóc trắng chảy
mềm trong kẻ tay!” (trang 37) Lư do tôi xác quyết Trần Công Mẫn ăn
cắp ư của Phan Nhật Nam là v́ Phan Nhật Nam
viết bút kư Tù Binh và Ḥa B́nh trước tháng Tư
năm 1975; c̣n Trần Công Mẫn phát biểu câu nói
ấy với Larry Engelmann sau tháng Tư năm 1975. Điều phát biểu của tướng
Việt cộng Trần Công Mẫn cũng cho thấy tŕnh
độ hiểu biết của ông Mẫn chẳng là
bao; bởi v́, sĩ quan Quân Lực VNCH là những người
có tŕnh độ văn hóa, những sĩ quan trẻ c̣n
có tŕnh độ đại học, chứ không có
vị nào phải học văn hóa bổ túc như sĩ
quan csVN. Khi con người có văn hóa, người ta
suy nghĩ khác và người ta dễ gây dựng tương
lai, sự nghiệp. C̣n những người thiếu văn
hóa như sĩ quan csVN – thường xuất thân
từ các em bé chăn trâu, chăn ḅ – th́ chỉ
biết bám vào chiến tranh và đảng để gây
dựng sự nghiệp, để giấu đi bản
tính thiếu tự tin. Nếu vị nào chưa biết
thực chất của sĩ quan quân đội nhân dân
miền Bắc, xin hăy đọc trang 21: “...Nhưng trung tá Nam Tích,
tư lệnh phi trường Lộc Ninh, gă nông phu
phụ bạc ruộng đồng để hân hoan cùng
quân hàm tương đương...” Trong thời chiến, Phan Nhật Nam viết
về thân phận người tù và sự trao đổi
tù binh. Sau cộc chiến, Phan Nhật Nam trở thành tù
nhân của một chế độ bạo tàn, vô nhân
mà Phan Nhật Nam đă vạch trần trong nhiều tác
phẩm. Tác phẩm viết về trại tù và
chiến tranh không hiếm, nhưng thường rất
khô khan. Trái lại Phan Nhật Nam dùng chữ rất
“bạo”, như “cụm từ” “bác nông phụ bạc ruộng đồng”. Và
Phan Nhật Nam cũng dùng nhiều tĩnh từ và
trạng từ cho nên câu văn dễ làm cho t́nh
cảm của người đọc bị giao động
từng hồi! Nếu quư vị nghĩ rằng tôi nói quá, th́
đây, tôi xin trích một đoạn ngắn nơi
trang 395: “...Những buổi
chiều từ Lộc Ninh trở về, tôi bay qua đồi
Gió, đồi 69, những ngọn đồi ở
Đông Nam An Lộc. Cũng những buổi chiều tháng
Năm và tháng Sáu như thế này của hai năm trước,
1972, nơi đây, những người bạn ở
tiểu đoàn 6, tiểu đoàn 3 Pháo Binh, lữ đoàn
I Nhảy Dù đào vội chiếc hố, khoét sâu
rảnh giao thông hào dưới cơn mưa đại
pháo của Bắc quân... Cũng những buổi
chiều muộn khi ngày sắp hết, ánh mặt
trời hồng đỏ đă bị mờ dần khi
sương lam bốc lên từ dăy cao su ngút ngàn xanh
ngắt. Nơi đây, trên dăy cao độ chập chùng
trống trăi này những Phạm Tường Huấn,
Phạm Kim Bằng, Lộc ‘ĺ’, Vinh ‘con’ của
tiểu đoàn 6 Nhảy Dù bậm môi đến
bậc máu, nhô chiếc nón sắt lên khỏi giao thông
hào chờ đợi bóng đen của những T54
đang lố nhố, ŕ rầm dưới chân đồi
sắp sửa tấn công... Hôm nay trên chiến địa
điêu tàn đó chỉ c̣n vương vải vài
chiếc nón sắt, túi đeo lưng và những
mảnh xương trắng xám rơi rớt trên
lớp đất đỏ màu máu. Dăy đồi
nằm lặng dưới bóng chiều trông oan khiên như
nấm mồ vĩ đại...” Từ năm 1975 trở về trước,
những thê lương, tiêu điều chỉ thấy
được ở ngoài Bắc và trên những
chiến địa đă tàn, thuộc phần đất
miền Nam. Nhưng sau 30-04-1975, sự tiêu điều
hoang dại ấy và khoai sắn cũng theo Bắc quân
vào miền Nam để “giải phóng” miền Nam
khỏi sự trù phú sẵn có! Ngày nào csVN dùng vũ khí của Nga và Trung
cộng cùng chiêu bài “đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào”
để thiu rụi hằng triệu thanh niên hai
miền Nam Bắc Việt Nam. Bây giờ, để
củng cố đảng và chế độ, nhà
cầm quyền csVN dang tay, mở rộng cửa mời
gọi ngoại nhân, bất kể chủng tộc. Những ai đă về Việt Nam đều
nhận ra điều chua xót là những phát triễn
vội vàng của ngoại nhân, không những không che
bớt được sự thụt lùi thảm hại
của đời sống dân chúng mà c̣n làm cho cơ
thể điêu tàn của Mẹ Việt Nam trông diêm dúa,
trơ trẽn, chẳng khác ǵ khuôn mặt “bự”
phấn của những cô gái bán bars dạo nào! Tội đồ này csVN sẽ phải trả
lời trước những trang Việt sử c̣n hoen màu
máu và chưa khô ḍng lệ! ĐIỆP
MỸ LINH https://www.diepmylinh.com/ |