Truyện ngắn TỰ TRUYỆN CỦA TÍM ĐIỆP MỸ LINH |
Một
buổi chiều im vắng bên dòng sông Cái Lớn. Theo hướng
gió mơn man trên rừng dừa nước, Tím đẩy
mái chèo một cách khoan thai, nhẹ nhàng. Chiếc
xuồng nhỏ rẻ nước, lặng lờ trôi
ngang đồn Nghĩa Quân. Tiếng đàn và tiếng
hát nghe văng vẳng xa xa. Khi xuồng đến
gần, Tím thấy một người lính đang ôm
“cây đàn số 8” – do trẻ
em trong làng đặt tên; vì không đứa nào
biết cây đàn này tên là Guitar mà chỉ thấy thùng
đàn giống như số 8 – ngồi trên
hầm chống pháo kích. Người lính cứ say sưa
hát: “… Anh
nhớ xót xa dưới tre là ngà Không
thể nào Tím hiểu được ý nghĩa của
lời ca. Nhưng giai điệu thiết tha, êm đềm
của dòng nhạc cùng với âm thanh trầm trầm
của “cây đàn số 8” và mấy tiếng “anh
nhớ” và “thương anh” gieo vào lòng nàng thôn
nữ – vừa qua tuổi dậy thì – nhiều ước
mơ và mộng tưởng. Tím muốn
“ủi” xuồng vào bờ để nghe “cho đả”;
nhưng chợt nhớ, quanh đồn là khu vực quân
sự, cấm lai vãng, Tím đành phải vừa chèo
chầm chậm vừa lắng nghe. Bất ngờ người
lính trên vọng gác chỉa súng xuống, nói lớn: -Tránh
xa! Đừng tới gần! Tím
giật mình, hơi hoảng sợ. Chợt nhớ,
mỗi lần Việt cộng về làng thu thuế
hoặc dọa nạt, dụ dỗ trẻ em và người
làng đi theo quân “giải phóng”, Mẹ thường
đem gạo, đường, cá khô, v.v… “ủng
hộ” thì Việt cộng để gia đình Tím yên,
Tím bắt chước Mẹ, cố nói lớn cho người
lính gác nghe: -Dạ,
tui muốn biếu các anh mấy trái khóm ăn lấy
thảo. -Không
được đâu. Tránh xa đi! -“Xời”!
Khóm ngọt như đường phèn … Tím
nói chưa dứt câu, chợt thấy người lính
ngồi đàn trên hầm chống pháo kích ngưng
đàn, ngẫng mặt, hỏi người lính trên
vọng gác: -Cái gì vậy,
Lộc? -Dạ,
không có gì đâu, thiếu úy. Cô ấy muốn
biếu mấy trái khóm mà em không nhận. Quay
sang, thấy khuôn mặt ngây thơ của Tím, thiếu
úy nói: -Cảm
ơn em. Nếu em bán thì chúng tôi mua, trả tiền sòng
phẳng; còn cho thì chúng tôi không nhận. -Mỗi
ngày xuồng của tui chở khóm ra Tắc Cậu bán
sĩ; tui đâu biết mỗi trái giá bao nhiêu mà bây
giờ thiếu úy biểu tui bán lẻ lại? -Nếu
em không bán thì chúng tôi không thể nhận khóm. Tím
chỉ tay về khóm cây ngoài vòng kẽm gai: -Cho
tui tấp xuồng vô chỗ bụi cây kia, tui đưa
mấy trái khóm rồi thiếu úy cho tui “nhiu” thì cho. -Vâng.
Em tấp xuồng vô chỗ đó đi. Thiếu
úy dựa Guitar vào ụ đất rồi mở
cổng đồn, đi về phía khóm cây. Tím
ngẫng nhìn thiếu úy và thấy bảng tên
Nguyễn Dân. Nhiều quân nhân tò mò đến gần
Dân. Sau khi Tím lấy 5 trái khóm để lên bờ, Dân
lục tất cả túi áo, túi quần lấy tiền
ra rồi xòe tay lượng định xem số
tiền đó có thể đủ trả cho 5 trái khóm
hay không. Thái độ của Dân làm cho mấy anh lính
cười rộ lên; rồi mọi người đều
lục túi lấy tiền, trao cho Dân. Dân đến bên
xuồng, căn dặn Tím: -Đây
là số tiền tượng trưng của chúng tôi
để cảm ơn lòng tốt của em. Em cẩn
thận. Lần sau, nếu chèo thuyền qua đây, em
nhớ chèo xa xa một chút để tránh rủi ro. Tím
thiệt thà quá đổi: -Dạ,
tui biết mà. Nhưng lâu quá “hỏng” được
nghe tân nhạc, chiều nay nghe thiếu úy hát bài gì hay
“wá”, tui muốn nghe “cho đả” nên “tấp
đại” gần bờ chút mà! Nhóm
lính trẻ lại cười rộ lên. Dân vừa trao
tiền cho Tím vừa cười. -Cảm
ơn em. Em cầm tiền đi! -Tui
“hỏng” dám lấy tiền đâu, thiếu úy! -Lúc
nãy em đồng ý rồi. Nhớ không? Tím
thở dài, miễn cưỡng nhận tiền. Về
đến làng, chưa kịp tấp xuồng vào
bờ, Tím đã thấy thằng Búng đang ngồi
“chàng hãng” trên đất,
vót cây. Thấy Tím đang cột xuồng vào cây
cọc, Búng vội để rựa và cây nhọn
xuống, vừa chạy đến bên Tím vừa
bảo: -Mày
để tao cột cho. Tay mày yếu xìu, cột không
chặt, rủi trời mưa, nước “dưng”
cao, xuồng sút giây, trôi mất đó, mày! Tím
chưa kịp đáp, Cha của Tím từ trong nhà bước
ra, bảo: -Búng!
Tao nói với mày mấy lần rồi; đừng chơi
với con Tím nữa! Búng
hơi sừng sộ: -Tui
giúp nó chớ bộ tui … ăn thịt nó sao mà làm
dữ vậy? Cha
của Tím bước đến, vừa giật
sợi giây dừa từ tay Búng vừa nói: -Tao
cấm mày chơi với con Tím. Mày nghe chưa, Búng? Búng
quay đi với thái độ giận dữ. Tím im
lặng theo Cha vô nhà, lòng thắc mắc, không hiểu
tại sao Búng là bạn của Lắm – anh của Tím
– mà Cha lại không thích Búng. Vừa vào nhà, Cha đóng
nhanh cửa lại, hỏi: -Tím!
Có khi nào thằng Búng hỏi mày về thằng Lắm
không? -Dạ,
hồi anh Lắm mới đi, nó hỏi một hai
lần gì đó; rồi thôi. -Mày
trả lời sao? -Thì
con nói như Cha Mẹ dặn là ở đây khổ quá,
anh Lắm trốn nhà đi bụi đời. -Nó
có hỏi gì nữa không? Tím
lắc đầu. Cha thở dài nhè nhẹ. Sự
thật thì – dù có đồn Nghĩa Quân nơi ngã ba
và Nghĩa Quân trong đồn thường đi
phục kính ban đêm và đi tuần ban ngày – tình
trạng an ninh trong làng cũng vẫn bất ổn. Vì,
ban ngày Việt cộng trốn trong hầm, dưới
mấy vườn khóm, các đơn vị Nghĩa Quân
đi tuần, đi kích không thấy hoặc không
biết được. Ban đêm Việt cộng chia ra
từng nhóm nhỏ: Nhóm này ra tỉnh lộ đặt
mìn để sáng xe đò chạy ngang, bị nổ,
chết người, giao thông bị gián đoạn; nhóm
kia vào làng bắt dân đóng thuế hoặc buộc dân
làng “ủng hộ” bất cứ thứ gì; nhóm khác
chiêu dụ hoặc cưỡng bức trẻ em đi
theo “giải phóng” để làm “anh hùng”; nhóm khác
nữa lo đặt mìn trong lòng sông để tàu
của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bị
nổ, chìm, v.v… Vì muốn Lắm có tương lai và
cũng vì lo ngại Lắm sẽ bị Búng dụ
dỗ theo Việt cộng, Cha Mẹ của Lắm lén
cho Lắm qua Rạch Giá, ở nhờ nhà người
Chú để đi học. Khi rảnh và cuối
tuần Lắm đi chài lưới với Chú. Nhưng
nếu ai hỏi về sự vắng mặt của
Lắm, gia đình đều bảo là Lắm trốn
đâu “mất biệt”, có lẽ theo du đảng. Dân
làng vừa hết thắc mắc về Lắm thì
bắt đầu chú ý đến lời nói và hành
động hơi là lạ của Búng; vì thấy Búng
thường chặt cây, vót nhọn như là làm bàn chông
để bẩy thú vật và đôi khi Búng vắng nhà
cả tuần; nhưng vì sợ Việt cộng và Búng
trả thù, không ai dám nói ra. Đó là lý do Cha Mẹ
của Tím rất lo lắng khi thấy Búng cứ “rà
rà” muốn kết thân với Tím. Sáng
sớm hôm sau, đang sắp khóm vào xuồng, Tím
thấy toán lính Cộng Hòa đi kích về, bước
hàng một dọc theo “lộ đất” cạnh
bờ sông, hướng về đồn Nghĩa Quân.
Bất ngờ một giọng reo vui: -Cô
ơi! Có phải cô là người hôm qua “ủi”
xuồng vô đồn, cho tụi tôi khóm hay không? Dừng
tay, nhìn toán lính, nhận ra anh Nghĩa Quân gác trên
vọng gác chiều hôm qua, Tím cười: -Dạ,
em đó, anh Lộc! Thấy mấy anh, em nhớ anh
Lắm của em “wá” hà! -Anh
Lắm cũng đi lính Cộng Hòa, phải không? -Ảnh
chưa tới 18 tuổi, là “con trai một” mà đi
lính “cái nỗi gì”, anh! Một
anh lính vừa chuyền khóm hộ cho Tím vừa nói: -Mấy
“cha” sao không phụ chất khóm lên xuồng giúp người
ta mà đứng đó? Thế
là nhóm lính chuyền khóm lên xuồng cho Tím. Vừa khi
đó, Dân cùng với nhóm lính khác đến, hỏi: -Tụi
mày làm gì đây? -Công
tác dân vận, thiếu úy! Hai
tiếng thiếu úy làm Tím quay vội về phía nhóm lính
mới đến. Nhận ra Dân, Tím chào: -Dạ,
chào thiếu úy. -Gọi
tôi bằng anh thôi. Em cỡ tuổi với nhỏ em
của tôi mà. Em tên gì? -Dạ,
tui tên Tím. Em của thiếu…ý “wên”, của anh,
chắc còn đi học, phải không? -Vâng.
Còn Tím, sau giờ buôn bán có đi học hay không? -Mèng
ơi! Trường cứ bị “tụi ôn dịch”
– tiếng lóng dân làng dùng để chỉ Việt
cộng – về phá sập và hăm dọa thầy cô
giáo hoài; không ai dám dạy. Mấy năm nay, con nít
trong làng cũng như tui, đâu có trường, đâu
có ai dạy mà học! Lời
nói thật thà, mộc mạc và khuôn mặt xinh xinh
của Tím làm Dân nhớ cô em lâu ngày chàng chưa
về thăm. Chút tình cảm này khiến Dân nói không
kịp suy nghĩ: -Nếu
có người dạy, em có muốn học hay không? -
Dạ, học chớ – mà ai thèm bỏ thì giờ
dạy tui, Trời! -Hồi
đó em học lớp mấy? -Dạ,
lớp bốn. -Tôi
nghĩ nhiều anh em trong đồn có thể dạy kèm
cho em. -Dạ,
dạy kèm là dạy cái gì? Nhóm
lính chưa kịp cười, chợt nhận ra ánh
mắt nghiêm khắc của Dân, đành im. Dân đáp: -Là
dạy thêm, dạy ngoài giờ học sinh đến trường. -Dạ,
Mẹ tui nói ai cũng “lấy dạ đong lúa
chớ ai lấy dạ đong chữ”; vì vậy tui
chỉ ước sao được học tiếng Anh
để làm sở Mỹ, lấy tiền giúp Cha
Mẹ thôi. Thấy
toán lính dừng chân hơi lâu, trẻ em trong làng tò mò,
kéo nhau đến, đứng quanh. Trong khi Dân hơi khó
nghĩ vì Tím chỉ muốn đi làm sở Mỹ thì
Lộc nói: -Nếu
cô Tím muốn học tiếng Anh thì chỉ có “ông
thầy tui” mới dạy được chứ
tụi tôi “bù trớt”! Tím
cảm thấy lòng rộn ràng vui, nhìn Dân, cười.
Thấy nụ cười rạng rỡ của Tím, Dân
không nỡ cắt đứt niềm hy vọng của
cô gái quê xinh đẹp: -Vâng,
tôi có thể giúp em học tiếng Anh. Nhưng ngày nào
em cũng đi bán khóm, làm thế nào em có thì giờ
để học? -Dạ,
sáng tui phụ với Mẹ bán nước mía ngoài
chợ. Trưa tui chở khóm ra Tắc Cậu bán sĩ;
mà khóm gần hết mùa rồi anh ơi! Hai
tiếng “anh ơi” “ngọt lịm” của Tím làm
cho nhóm lính nhìn Dân, cười. Dân nghiêm giọng: -Nếu
vậy thì tôi sẽ soạn bài bằng tiếng
Việt, chỉ dẫn cho em cách phát âm. Soạn xong, khi
mấy anh lính đi chợ tôi nhờ mấy ảnh ghé
xe nước mía trao bài cho em. Thỉnh thoảng,
nếu có dịp, tôi sẽ dò bài cho em nơi xe nước
mía. Em nghĩ sao? -Dạ,
mỗi tháng anh tính “nhiu”? -Cái
cô này! Không ai bắt em trả tiền đâu! Tím
chưa kịp mừng thì nhiều tiếng “ồ”
vang lên nho nhỏ trong nhóm trẻ em. Một em bé
chạy vào nhà Tím, reo vui: -Câu
Mợ ơi! Ra coi nè! Chị Tím được mấy
“ông” lính Cộng Hòa dạy học “hỏng”
lấy tiền nè! ****** Trong
ánh đèn dầu leo lét, thấy Tím bậm bàn tay
lại rồi vừa đọc vừa đưa
từng ngón tay lên, đếm: One, two, three, four, v.v… Cha
cười, hỏi: -Tím!
Mày học cái gì mà giống tụi con nít thường
giấu tay sau lưng, nói “woảnh, tù, tỳ ra cái gì,
ra cái này” vậy? Tím
chưa biết đáp lời Cha như thế nào,
Mẹ lên tiếng: -Ông
này! Để con nó học; “chọc quê” nó chi
vậy? Cha
chưa kịp đáp thì nghe tiếng súng rền vang, hướng
đồn Nghĩa Quân. Bước vội ra cửa, nhìn
về hướng đồn, thấy đạn hai bên
đan chéo nhau, sáng rực cả một vùng, Cha quay
vội vào, thét lên: -Xuống
hầm, lẹ lên! Mẹ! “Tụi ôn dịch” lại
pháo kích vô đồn nữa rồi! Xuống hầm không
thôi đạn lạc! Cha
giở nắp hầm. Mẹ khom người chui
xuống. Vừa dợm chui theo Mẹ, Tím thấy
ngọn đèn dầu chưa kịp tắt, vội quay
lui để thổi cho đèn tắt cho khỏi hao
dầu. Bất ngờ, Búng cùng hai người đàn
ông lạ xông vào, chụp tay Tím, lôi đi, trước
đôi mắt thất thần của Cha! Cha buông rơi
nắp hầm, chạy theo kêu cứu. Nhưng nhà ai cũng
đóng cửa “tối thui” trong khi Búng và hai
“thằng ôn dịch” lôi Tím lên chiếc tắc ráng,
“dông mất tiêu”! Bất chợt, Cha nghe tiếng máy
tàu xa xa rồi đoàn giang đỉnh của Hải Quân
VNCH đang hướng về phía đồn Nghĩa Quân.
Cha “khóc ròng”: “Trời! Phải chi mấy ổng
đến sớm hơn một chút thì cứu
được con tui rồi!” Riêng
Mẹ, nghe miệng hầm sập “cái ầm” mà không
thấy Cha và Tím chun xuống. Chờ một lúc cũng
vẫn không thấy Cha và Tím, Mẹ mở nắp
hầm, leo lên. Thấy Cha trong tư thế như người
mất hồn, Mẹ nhìn quanh, không thấy Tím đâu
cả. Mẹ gào lên: -Con
Tím đâu? Lúc
này Cha mới “hoàn hồn”, đáp: -Thằng
Búng dẫn hai thằng “ôn dịch” tới bắt nó
đi rồi! Mẹ
quỵ xuống như trái mít ướt chín cây bị
sút cùi! ****** Tiếng
trực thăng từ xa vọng lại. Chỉ một
chốc sau, ba chiếc đáp xuống nơi bãi đáp
dã chiến, bên ngoài hàng rào kẽm gai của đồn
Nghĩa Quân. Thiếu tá Quận trưởng, thiếu
tá chỉ huy trưởng đoàn giang đỉnh, Dân và
vài sĩ quan đến bãi đáp đón ông Tướng
Vùng cùng phái đoàn đến thị sát chiến trường.
Người
bị thương – không phân biệt Nghĩa Quân,
vợ con của Nghĩa Quân hay là “tụi ôn
dịch” – đều được đưa sang hai
chiếc trực thăng. Đầy người, hai
chiếc trực thăng rời vùng lửa đạn
trong khi Dân hướng dẫn vị Tướng Vùng
thị sát quanh đồn. Theo
sự hướng dẫn của Dân, vị Tướng
Vùng và phái đoàn đi trên sự đổ nát toàn
diện do nhiều đợt tấn công bằng
chiến thuật “tiền pháo, hậu xung” và “xa luân
chiến” của Việt cộng để lại.
Vị Tướng thở dài khi thấy người lính
Nghĩa Quân tiếp tục âm thầm đào xới, tìm
kiếm hình hài không toàn vẹn của bạn hữu,
của vợ con và của… kẻ thù! Xác
người và mảnh rời của thân người
được để gần bờ sông, chờ người
nhà xác nhận hoặc chờ phương tiện
đưa về nguyên quán. Xác của “tụi ôn
dịch” được khiêng để ngoài vòng
kẽm gai, phía sau đồn, sẽ được chôn
nơi vùng đất mà các “đồng chí” của
họ đã nằm đó từ những trận công
đồn trước đây. Trong
cảnh tận cùng của thê lương, không ai –
ngay cả vợ con của các anh Nghĩa Quân – còn
giọt nước mắt nào để biểu lộ
niềm đau khổ của mình! Ngoài tiếng xào
xạc của khóm tre, không ai có thể nghe được
bất cứ tiếng động nào nơi bờ sông
nhuộm máu này! Sau
khi tiễn vị Tướng Vùng cùng phái đoàn
trở lại bãi đáp dã chiến, thiếu tá
Quận trưởng, chỉ huy trưởng đoàn
giang đỉnh và Dân đứng chờ trong khi vị
Tướng Vùng và phái đoàn bước lên trực
thăng. Trực thăng quay cánh quạt, vừa nâng thân
tàu lên, thiếu tá Quận trưởng, chỉ huy trưởng
đoàn giang đỉnh và Dân đưa tay phải lên,
chào. Trở
lại đồn, sau một lúc bàn thảo, Dân cùng
mọi người đi thẳng đến đoàn
chiến đỉnh để về Quận họp hành
quân, hoạch định kế sách thích ứng và
biện pháp hữu hiệu hơn để tránh
bớt tổn thất. Chiều,
từ Quận trở về, vừa từ chiếc Fom
nhảy lên bờ, Dân thấy một người Nghĩa
Quân bước vội đến, nói: -Trình
thiếu úy, cô Tím bị Việt cộng bắt đi
tối hôm qua! Dân
trợn mắt: -Thiệt
không, mày? -Cả
làng đều biết! Bộ tui dám “giỡn
mặt” với “ông thầy” sao? Dân
mím môi thật chặt. Sau khi người Nghĩa Quân
quay đi, Dân nghẹn ngào nhìn ra dòng sông Cái Lớn, lòng
xót xa tự hỏi, không biết giờ này Tím bị
địch hành xử như thế nào? Tại sao
một cô bé quê hiền lành, chất phát, thiệt thà
như Tím mà cũng bị chúng nó “lôi” vào cuộc
chiến một cách tàn bạo như thế? Bất
ngờ, từ radio trên một trong các chiến đỉnh,
dòng nhạc quen thuộc văng vẳng trong ánh nắng
chiều. Với cõi lòng tan tác như vết tích
của chiến trận đêm qua còn vương vãi
trong sân đồn, Dân chậm bước, lắng nghe.
Đến đoạn cuối, Dân tưởng như ca
sĩ đang tỏ bày nỗi niềm thiết tha
của Dân âm thầm dành cho Tím: “…
Nhiều năm trời chẳng thương mình Cầu
xin cho mây về vui với gió Dù
có qua bao đắng cay Muôn
đời anh vẫn chờ em.”
(2) Đọc
đến đây, Danny không thể đọc tiếp,
vì quá xúc động! Cả một dĩ vãng oai hùng,
khốn khó lẫn đau thương trong cuộc
chiến bừng sống trong hồn chàng. Nhìn tên tác
giả bài tự truyện, thấy chữ Tiffany
Trần, Dân cố vận dụng trí nhớ xem trong
số sinh viên ban Anh văn – do Dân giảng dạy
tại Community College – cô nào tên là Tiffany Trần; nhưng
không thể nhớ được. Từ
khi Hoa Kỳ có lệnh “cách ly” vì Covid-19, theo lệnh
của tiểu bang, trường học đóng cửa.
Học sinh, sinh viên học online. Giáo sư cũng
dạy online. Để tạo nguồn cảm hứng
cho sinh viên trong thời “Tàu dịch”, Dân đưa
đề tài: “Hãy viết tự truyện về
một phần đời của bạn”. Vì đa
số sinh viên lớp Anh văn đều là người
Á Đông và người Mễ, Dân đặc biệt
cho phép sinh viên có thể chọn tiếng Việt
hoặc tiếng Anh để diễn đạt ý tưởng
của họ. Trong
những bài tự truyện của sinh viên Việt Nam,
Dân nhận thấy, đa số sinh viên không thể phân
biệt được trạng thái “cụ thể” và
“trừu tượng”; do đó, họ dùng những
từ ngữ rất khó chấp nhận như: Tan
chảy, cận nghèo, lâm sàn, trọn gói, thể
hiện, điều khiển, v.v… Chỉ có Tự
Truyện Của Tím là viết theo văn phong trong sáng
– đượm chút mộc mạc, bình dị,
rất dễ thương – của thời VNCH. Và cũng
chỉ có Tự Truyện Của Tím mới đem đến
cho chàng sự xúc động vô bờ như chính chàng
đang bước từng bước trên vùng đất
xưa. Sự
xúc động vừa lắng dịu, Danny “rà rà”
“con chuột” vào hồ sơ, danh sách sinh viên để
tìm điện thoại, địa chỉ của Tiffany
Trần. Sau khi bấm số, nghe tiếng “allo” từ
đầu giây bên kia, Danny nói tiếng Việt: -Cho
tôi được tiếp chuyện với Tiffany. -Xin
lỗi, ai đây? -Tôi
là thầy giáo Danny Nguyễn. Nhận
ra vị giáo sư Anh văn của trường Community
College mà – sau khi vợ chồng thầy ly dị –
nhiều nữ sinh viên Việt Nam sang đây du học
đều cố “bẹo hình bẹo dạng” để
chinh phục, chỉ với mục đích được
ở lại Mỹ một cách hợp pháp, Tiffany hơi
lúng túng: -Dạ…
dạ, thưa thầy, em là Tiffany. Sau
vài câu chào hỏi thông thường, Danny hỏi: -Tiffany
đang làm gì đó? -Dạ, em đang theo dõi
vụ chàng da đen George Floyd và
các cuộc bạo loạn ở Mỹ.
-Tiffany
nghĩ như thế nào về sự việc đó? -Dạ, em nhớ người Mỹ có câu: “Two wrongs
don’t make a right”.
-Tiffany
chịu khó đọc sách và theo dõi thời sự.
Tốt! Bây giờ tôi muốn hỏi Tiffany vài câu
về bài Tự Truyện Của Tím, Tiffany có thể giúp
tôi hay không? -Trời!
Thầy biểu cả lớp viết thì em viết
chứ “sức mấy” mà em dám giúp thầy. -Tôi
chỉ muốn biết, làm thế nào Tiffany có thể
biết được những chi tiết xảy ra
trong đồn sau đêm cô Tím bị Việt cộng
bắt? -Dạ,
sau này gặp lại anh Lộc ở trại tỵ
nạn bên Thái Lan, ảnh kể cho em nghe. -Thì
ra Tiffany là cô Tím. Đúng không? -Dạ.
Dạ, em. -Làm
thế nào Tím biết bài hát “Chờ Người” mà
Tím đưa vào bài tự truyện? -Dạ,
anh Lộc kể rằng sau đêm đồn bị
tấn công, thiếu úy Dân thường hát bài gì mà…
“Chờ em chờ đến bao giờ…”. Em “để
bụng” mấy chữ đó. Khi biết dùng iPhone em vô
Google tìm thì thấy lời ca nguyên bài. -Làm
thế nào Tím biết được tâm trạng
của thiếu úy Dân mà Tím viết? -Dạ,
em cứ “suy bụng ta ra bụng người”. Em nghĩ
về ổng sao thì em cứ cho là ổng cũng nghĩ
về em y vậy – như là niềm ước mơ
vậy mà! -Làm
thế nào Tím thoát được bàn tay Việt
cộng? -Dạ,
dễ “ẹc” hà, thầy! Sau thời gian ngắn,
tạo được sự tin tưởng của
“tụi ôn dịch”, “tụi nó” cho em đi theo
mấy chiếc tác ráng để học cách làm giao liên.
Một buổi chiều, chiếc tắc ráng chở em
bất ngờ gặp đoàn tàu của Hải Quân VNCH
từ sông Trèm Trẹm chạy ra. Em “nhảy đại”
xuống sông, lặn thiệt sâu, thiệt lâu. Khi
“hụt hơi” em trồi lên, bơi theo hai chiếc tàu
nhỏ chạy sau cùng và được mấy ông
Hải Quân vớt. -Còn
chiếc tắc ráng? -Dạ,
thấy tàu Hải Quân “tụi ôn dịch” “dông
mất tiêu” chứ “sức mấy” mà dám
“lạng wạng”! -Ngã
ba sông Cái Lớn và kinh Trèm Trẹm sâu lắm mà sao Tím
dám nhảy xuống? -Dạ,
con nít miệt vườn như tụi em bơi như
cá chứ “nhầm nhò” gì đâu! -Làm
thế nào Tím có thể trốn khỏi Việt Nam? -Dạ,
sau khi cứu được em, mấy ông Hải Quân
đưa em qua Rạch Sỏi, nhắn anh Lắm vô
Rạch Sỏi “nhận” em. Anh Lắm nhắn tin cho
Cha Mẹ em biết chứ ảnh “hỏng” cho em
trở lại làng xưa. Sau đó, ban ngày em phụ
với Thiếm bán cá ở chợ Rạch Giá; ban đêm
anh Lắm và em đi học Anh văn. Sau khi “tụi ôn
dịch” cưỡng chiếm miền Nam, Chú Thiếm
dùng “ghe nhà” đưa gia đình của Chú
Thiếm, anh Lắm và em ra biển rồi qua Thái Lan. -Tím
đã tự cứu mình, tìm được cuộc
sống mới mà còn đi học thêm. Giỏi lắm! -Dạ,
em đi học cho vui, vì em về hưu “non”, ở nhà
một mình “buồn muốn chết”! -Nếu
vậy thì về hưu “non” để làm gì? -Dạ,
cuộc đời của em đã “bầm dập, nát
nước”, không còn gì nữa! Sống được
tới giờ là may rồi, bon chen cho lắm cũng “bù
trất” thôi! -Sao
bi quan quá vậy? Hãy tìm vui bên con cháu. Đừng nghĩ
bậy! -“Mèng
ơi!” Em có lấy chồng đâu mà có con, có cháu,
thầy! -Tại
sao Tím không lập gia đình? -Dạ,
cuộc đời em “te tua” quá đổi! Hết
bị Việt cộng “dần” thì tới hải
tặc “dần”! Em chỉ là “cái xác không hồn”
chứ còn gì đâu! Em đã tự phá thai hai lần;
tưởng chết rồi! Từ đó, em triền miên
sống trong sự dày vò và ân hận! Lấy ông nào mà
em cứ bị những hình ảnh hãi hùng của
“tụi ôn dịch”, tụi hải tặc và hai thai
nhi vô tội dằn vặt thì chỉ tội nghiệp
cho ông đó chứ ích lợi gì đâu, thầy! Không
thể đè nén tình cảm lâu hơn nữa, Danny nói: -Tôi
sẽ gặp Tím trong vòng một tiếng đồng
hồ. Với
bản tính chất phát, thật thà, chưa bao giờ Tím
nghi ngờ Danny Nguyễn chính là thiếu úy Nguyễn Dân;
vì vậy, Tím rất bối rối: -Dạ…dạ…chi
vậy, thầy? Em có nói gì tầm bậy không?
Thầy làm em lo “wá” hà! Dân
cười, lập lại câu nói của chàng rồi
tắt điện thoại. Cho
xe chạy với tốc độ vừa phải, Dân
vừa nghe GPS – Global Positioning System –
chỉ đường vừa mở radio. Giọng
nam đang trình bày tình khúc Just
the Way You Are của Billy Joel. Dân vừa gật đầu
nhè nhẹ vừa hát theo nho nhỏ: “…I
wouldn't leave you in times of trouble Dân mỉm cười,
vuốt mái tóc “muối” nhiều hơn “tiêu”, lòng
lâng lâng trong niềm vui dịu dàng… 1.-
Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn. 2.-
Chờ Người của Lam Phương ĐIỆP MỸ LINH https://www.diepmylinh.com/
|